Xu Hướng 3/2023 # Giới Thiệu Môn Học Toàn Cầu Hoá # Top 9 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Giới Thiệu Môn Học Toàn Cầu Hoá # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Giới Thiệu Môn Học Toàn Cầu Hoá được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

“Toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó lên các xã hội đương đại” (sau đây gọi tắt là Toàn cầu hóa), mã số ENG3075, là học phần bắt buộc dành cho sinh viên định hướng Quốc tế học ngành Ngôn ngữ Anh, được giảng dạy lần đầu tiên vào học kì mùa thu năm học 2017-2018.

Mục tiêu và nội dung học phần

Mỗi môn học trong định hướng Quốc tế học có một điểm đặc biệt; học phần Toàn cầu hóa đặc sắc vì được xây dựng trên tính chân thực và sự kiến tạo kết nối. Những nhiệm vụ học tập được thiết kế theo hướng tự bản thân chúng có giá trị ngay cả khi không tính đến các chức năng thể chế của nhà trường như kiểm tra, đánh giá, và xếp hạng. Các nhiệm vụ này tạo ra kết nối giữa sinh viên với bản thân mình, với các bạn cùng lớp, với giảng viên, với những người bên ngoài lớp học. Từ đó, các cá nhân được là chính bản thân mình, không bị cô lập và lớp học cũng không còn là một thực thể cô lập mà được đặt trực tiếp vào một mạng lưới rộng những quan hệ giữa người và người. Vì thế, bên cạnh các khái niêm học thuật, môn học chú trọng tới kinh nghiệm và các kĩ năng biểu đạt cá nhân, tri tạo truyền thông. Học phần nuôi dưỡng những năng lực sau:

Hiểu biết về các khái niệm và hiện tượng như văn minh, tiến bộ, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tiêu dùng, nhà nước phúc lợi xã hội, nhà nước tân tự do, quan hệ thị trường, kinh tế tri thức, đổi mới và sáng tạo, sự tài chính hóa nền kinh tế, vốn, quyền thống soát, diễn ngôn.

Các kĩ năng trí tuệ và giao tiếp như lịch sử hóa, khái niệm hóa, thuyết trình, dịch thuật, kể chuyện, làm thơ, vẽ, sản xuất audio podcast và Vlog.

Tinh thần sẵn sàng đương đầu với khó khăn, sự rộng rãi cởi mở, tính cẩn thận và chi tiết, khả năng đồng cảm, tinh thần cộng tác, khả năng thưởng thức đời sống.

Ví dụ 1: Một số nội dung của học phần qua ghi chép bằng hình của sinh viên

Các nhiệm vụ học tập biểu đạt cá nhân

Các nhiệm vụ biểu đạt cá nhân giúp sinh viên kết nối với bản thân mình, với bạn bè trong lớp và giảng viên để tạo thành một tập thể mà mọi người biết về nhau cũng như quan tâm đến nhau. Biểu đạt sáng tạo có thể bị coi là xa lạ và yêu cầu cao với sinh viên.  Tuy nhiên nếu không áp đặt một số chuẩn mực mang tính chuyên nghiệp, biểu đạt sáng tạo như làm thơ, vẽ tranh, kể chuyện lại giúp sinh viên kết nối với bản thân, tự do diễn đạt theo cách của mình. Vì việc áp đặt chuẩn mực chung cho những biểu đạt cá nhân không phù hợp, các nhiệm vụ học tập này được đánh giá dựa trên việc có thực hiện đúng các yêu cầu hay không nhiều hơn là sự phân định cao thấp của hàm lượng sáng tạo. Xét về mặt kiểm tra đánh giá, các nhiệm vụ này chỉ chiếm % khá nhỏ trong tổng thể; tuy vậy, sinh viên thường làm bài với nhiều tâm huyết.

Nhật ký lớp (Học kì mùa thu 2017)

Nhiệm vụ: Sinh viên ghi lại những cảm nhận trong quá trình khóa học diễn ra theo hình thức tự do và viết một bài thơ về bản thân mình theo mô hình “Where I am from.”

Mục đích: Chia sẻ các vấn đề trong khóa học, suy tư về sự tạo thành bản thân trong những hoàn cảnh riêng cũng như bối cảnh toàn cầu hóa, quan tâm tới bạn bè cùng lớp, tự do biểu đạt, phát triển năng lực thẩm mỹ.

Mô tả không gian cá nhân (Học kì mùa thu 2018)

Nhiệm vụ: Viết một bài luận khoảng năm 500 chữ để đáp lại câu hỏi “Bạn tạo ra không gian riêng của mình như thế nào?” Chia sẻ bài viết trên Facebook, dùng hashtag #ENG3075. Sinh viên cũng có thể chọn viết một bài luận ảnh/tranh vẽ với 05 bức khác nhau do mình tự chụp/vẽ. Cần tạo ra một album cho các bức ảnh/vẽ đó trên Facebook, viết một đoạn giới thiệu ngắn cho album (150-200 từ) và đặt tên cho mỗi bức ảnh/vẽ.

Mục đích: Suy tư về việc kiến tạo không gian riêng cho bản thân, tự do biểu đạt, trao đổi và kết nối với những người quan tâm trên mạng xã hội.

Ví dụ 2: Không gian riêng của Nguyễn Tú Anh, sinh viên lớp 16E32 https://www.facebook.com/tu.anh.126/posts/2311002032452724

Phàn nàn một cách sáng tạo (Học kì mùa thu 2018)

Nhiệm vụ: Suy nghĩ về cách toàn cầu hóa ảnh hưởng lên cuộc sống cá nhân của bạn, nghĩ về một điều bạn muốn phàn nàn, thực hiện hành động phàn nàn một cách độc đáo, sáng tạo. Chia sẻ bài làm trên Facebook và sử dụng hashtag #ENG3075, #theartassignment.

Mục đích: Suy tư về ảnh hưởng của toàn cầu hóa lên cuộc sống cá nhân, phản biện xã hội, biểu đạt sáng tạo, trao đổi và kết nối với những người quan tâm trên mạng xã hội.

Ví dụ 3: Vlog “The cover is not everything” của Phạm Huy Hùng, sinh viên lớp 16E29

Phản hồi sáng tạo với tác phẩm nghệ thuật (Học kì mùa thu 2019)

Nhiệm vụ: Chọn và thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật không có tính thương mại, phản hồi tác phẩm đó bằng một biểu đạt sáng tạo (viết thơ, viết truyện, vẽ tranh, sáng tác bài hát và biểu diễn), chia sẻ phản hồi đó với bạn bè trong lớp.

Mục đích: Ý thức về sự tiếp cận các sản phẩm văn hóa của bản thân, rèn luyện khả năng cảm nhận tác phẩm nghệ thuật và biểu đạt sáng tạo.

Ví dụ 4: Tranh vẽ phản hồi phim Moonlight (2016) của Lò Huyền Trang, sinh viên lớp 17E20

Vlog giáo dục về các hiện tượng của toàn cầu hóa (Học kì mùa thu 2017)

Nhiệm vụ: Sinh viên chuẩn bị bài thuyết trình theo nhóm về một thuật ngữ chính trong nội dung học tập của tuần sau đó phát triển bài thuyết trình của mình thành một video giải thích thuật ngữ cho người Việt.

Mục đích: Chuẩn bị bài, nắm được các khái niệm quan trọng trong khóa học, tham gia vào việc tạo nghĩa, tạo sự hiểu biết về toàn cầu hóa trong bối cảnh xã hội Việt Nam, thực hành các kỹ năng như lịch sử hóa, khái niệm hóa, dịch Anh-Việt, sản xuất Vlog.

Ví dụ 5: Vlog về Chiến tranh lạnh của một nhóm sinh viên lớp 15E11

Audio podcast kể các câu chuyện về toàn cầu hóa (Học kì mùa thu 2017 và 2018)

Nhiệm vụ: Sinh viên nghe các câu chuyện về toàn cầu hóa (chủ yếu trên 02 kênh radio là NPR Planet Money & 99% Invisible), chọn một câu chuyện để sản xuất audio podcast cho thính giả là người Việt.

Mục đích: Nắm được các khái niệm quan trọng trong khóa học, hiểu biết về các sự kiện trên thế giới, tham gia vào việc tạo nghĩa, tạo sự hiểu biết về toàn cầu hóa trong bối cảnh xã hội Việt Nam, thực hành các kỹ năng như lịch sử hóa, khái niệm hóa, dịch Anh-Việt, kể chuyện, sản xuất audio podcast.

Vlog về âm nhạc truyền thống Việt Nam (Học kì mùa thu 2019)

Nhiệm vụ: Sinh viên tìm hiểu về một loại hình âm nhạc truyền thống Việt Nam (hát then, quan họ, hát xoan, ví giặm, đờn ca tài tử, tuồng, chèo, cải lương) và làm Vlog giới thiệu loại hình âm nhạc này bằng tiếng Anh.

Mục đích: Hiểu và cảm nhận đời sống của văn hóa truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, thực hành các kỹ năng như dịch Việt Anh, kể chuyện và sản xuất Vlog, giới thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Ví dụ 7: Vlog giới thiệu Ca trù của một nhóm sinh viên lớp 17E19

Phùng Hà Thanh

Tổ Đất nước học, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa các nước nói tiếng Anh

Khái Niệm, Mục Tiêu, Yêu Cầu Môn Học

a) Chính trị và môn học Giáo dục chính trị

Chính trị có vai trò to lớn. Không có lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ được sự thống trị, không thể thực hiện được mục tiêu của mình. Theo V.I. Lênin, “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế… Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Chính trị còn là biểu hiện tập trung của nền văn minh, của hoạt động sáng tạo, của sự giải phóng.

Giáo dục Chính trị là bộ phận của khoa học chính trị, bộ phận công tác tư tưởng của Đảng, có nội dung chủ yếu là giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của đất nước.

Giáo dục Chính trị là môn học bao gồm nội dung cơ bản nhất của Triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Môn học là một thể thống nhất, làm rõ vai trò chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.

b)Mục tiêu và yêu cầu của môn học

– Mục tiêu của môn học:

+ về kiến thức:

Trình bày được nội dung cơ bản nhất về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; nguồn gốc, nội dung cơ bản và ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh;

Hiểu biết và trình bày được nội dung cơ bản về đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ, nhất là đường lối đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực từ năm 1986 đến nay.

+ về kỹ năng:

Bước đầu hình thành nhân sinh quan, thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng vào học tập, rèn luyện và công tác sau này;

Hình thành bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức, phấn đấu trở thành người học sinh tốt, người công dân tốt.

– Về thái độ:

Củng cố niềm tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn;

Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu lao động, rèn luyện, đóng góp tích cực vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;

Rèn luyện được tác phong công nghiệp, lề lối làm việc của người lao động tốt, người kỹ thuật viên tốt.

– Yêu cầu môn học:

Có ý thức gắn bó nhận thức lý luận và đường lối cách mạng của Đảng với thực tiễn cách mạng Việt Nam;

Kết hợp học tập với rèn luyện, liên hệ với vai trò của người học sinh trung học chuyên nghiệp; với cuộc sống nghề nghiệp sau khi ra trường.

Loigiaihay.com

Giới Thiệu Y Học Cổ Truyền Là Gì?

3,048 Lượt xem

Chia rẻ

tweet

Nguyên lý chữa bệnh theo Đông y đó chính là “cân bằng” – “điều hòa” giữa 2 thái cực và ứng dụng chủ yếu 8 biện pháp cơ bản sau: “Hãn” – Làm ra mồ hôi, “Thổ” – Gây nôn, “Hạ” – Thông đại tiện, “Hòa” – Hòa giải, “Ôn” – Làm ấm, “Thanh” – Làm mát, “Tiêu” – Tiêu thức ăn tích trệ, “Bổ” – Bồi bổ để khôi phục cân bằng chỉnh thể, hóa giải mâu thuẫn “chính khí” – Sức chống bệnh và “Tà khí” – Tác nhân gây bệnh. Trong 8 phép đó, không có biện pháp nào mang tính đối kháng, tấn công trực diện vào “bệnh tà” như trong Tây y.

Đông y chủ trương “trị vị bệnh” – chữa từ khi bệnh chưa hình thành. Phương châm cơ bản của Đông y trong chữa bệnh là “lưu nhân trị bệnh” – nghĩa là trước hết phải giữ lấy mạng sống của con người, sau đó mới nghĩ tới vấn đề khống chế, tiêu trừ ổ bệnh. “Nhân vi bản bệnh vi tiêu” – nghĩa là người là gốc, là chủ thể, bệnh chỉ là ngọn.

Các phương pháp chẩn đoán bệnh trong Y học cổ truyền Việt Nam

Vọng chẩn (quan sát bệnh nhân và hoàn cảnh);

Văn chẩn (lắng nghe âm thanh từ thể trạng và tâm sự của bệnh nhân);

Thiết chẩn (khám bằng tay và dụng cụ) để xác định bệnh trạng.

Y sĩ Y học cổ truyền hướng dẫn các phương pháp điều trị bệnh trong Đông y

Điều trị Đông y gồm có phương pháp châm cứu, các thuốc uống hoặc dùng ngoài da, và cả xoa bóp.

Phương pháp châm cứu dựa trên hệ thống kinh mạch được miêu tả chi tiết với hàng trăm huyệt trên cơ thể. Các huyệt và các đường kinh mạch có mối liên hệ với các tạng, phủ trong cơ thể, để điều trị các rối loạn ở tạng phủ nào, rối loại kiểu nào thì can thiệp vào các huyệt tương ứng và một số huyệt khác để hỗ trợ nếu cần thiết. Điều đặc biệt là hệ thống các huyệt, kinh mạch đó không thể dùng các phương pháp giải phẫu, sinh lý của Tây y để miêu tả được, tuy rằng trong thời đại ngày nay, châm cứu được sử dụng như một phương pháp gây vô cảm (gây tê) trong một số cuộc phẫu thuật (Đông Tây y kết hợp).

Thuốc Bắc là các vị thuốc được khai thác và bào chế theo sách của Trung Quốc truyền sang và phát triển bởi các lương y người Việt. Thuốc Nam là các vị thuốc do các thầy thuốc khám phá trên lãnh thổ Việt Nam, được cha ông ta đúc kết và truyền từ đời này sang đời kia. Các vị thầy thuốc nổi tiếng được xem là bậc tổ của nghề y Việt Nam là Lê Hữu Trác (còn lưu truyền bộ Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh là sách căn bản của Đông y Việt Nam) và Tuệ Tĩnh (tác giả của câu nói nổi tiếng “Nam dược trị Nam nhân” – thuốc Nam dùng chữa bệnh cho người Nam).

Địa chỉ đăng ký Học Trung cấp

Y sĩ Y học cổ truyền

Địa chỉ Trường Trung Cấp Y Khoa Pasteur Hà Nội: Phòng 115 – Nhà N1 – Số 101 Tô Vĩnh Diện – Khương Trung – Quận Thanh Xuân – Hà Nội (gần Ngã Tư Sở).

Điện thoại tư vấn: 04.6296.6296 – 09.8259.8259

Trung cấp Y Khoa pasteur TpHCM: Số 37/3 Đường Ngô Tất Tố, Quận Bình Thạnh, Phường 21, TPHCM. Điện thoại: 08.6295.6295 – 09.6295.6295 

Trường trung cấp Y khoa Pasteur đào tạo song bằng miễn giảm 100% học phí toàn khóa học cho văn bằng thứ 2. Y sĩ Y học cổ truyền kết hợp với Trung cấp dược, Trung cấp Y sĩ, Trung cấp Điều dưỡng, Kỹ thuật Phục hình răng, Kỹ thuật hình ảnh Y học, Kỹ thuật xét nghiệm, Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng, Trung cấp Hộ sinh. 

Văn Hoá, Văn Hoá Học Và Văn Hoá Học So Sánh

(Phan Xuân Viện, Tạp chí KH Văn hoá và Du lịch, SỐ 12 (66), THÁNG 7 NĂM 2013)

TÓM TẮT

Abstract

Culture was formed during the formation and development of the human society. However, not until the famous English anthropologist Edward Burnett Tylor (1832-1917) proposed a definition for culture did it became a scientific object. During the nineteenth and twentieth centuries, many trends of researching culture with different theories and methods had emerged. The comparative cultural studies have much potential for researching culture. This article presents essential theories about culture, cultural studies and comparative cultural studies.

***

1. Nguồn gốc của văn hóa

Khi bàn về sự tồn tại của con người, trong “Hệ tư tưởng Đức” (1845-1846), Marx và Engels viết: “Chúng tôi buộc phải bắt đầu bằng việc xác định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, do đấy cũng là tiền đề của mọi lịch sử, ấy là người ta phải có khả năng sống đã mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Vậy thì Dựa theo khái niệm công cụ lao động để giải thích nguồn gốc văn hóa, con người trong hoạt động lao động đã tách mình ra khỏi thế giới động vật. Lý thuyết về nguồn gốc con người do F.Engels nêu ra trong bài báo hành vi lịch sử đầu tiên là sự sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn các nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như hàng ngàn năm về trước) người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ chỉ cốt để duy trì đời sống con người” [1, tr.49-50]. Việc sản xuất ra của cải vật chất tất yếu cần đến công cụ lao động. Vai trò của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người công bố sau này vào những năm 1873-1876. Bài báo này là một chương trong tác phẩm Phép biện chứng tự nhiên. Phân tích các dữ kiện của nhiều nhà khoa học trước ông nói về nguồn gốc loài người, F.Engels đã đi đến kết luận: ” Lao động đã sáng tạo ra con người “. Ông hiểu thuật ngữ lao động là hoạt động hợp lý có mục đích, bắt đầu từ việc chế tác ra những công cụ bằng đá, xương và gỗ.

2.2. Trường phái cấu trúc luận

Levi Strauss, đại biểu của trường phái cấu trúc cho rằng xã hội có một lớp che phủ bên ngoài không nhận thức được, các nhà khoa học phải giải thích được cấu trúc sâu bị che bên trong đó, người nghiên cứu cần vượt qua sự nghiên cứu những hiện tượng bề mặt để thâm nhập logic sâu hơn, khái quát hơn trong hệ thống văn hóa. Ông không tin cách con người sống quyết định cách họ nghĩ như quan điểm của trường phái chức năng. Đúng hơn, cách con người nghĩ quyết định cách họ sống. Theo trường phái này văn hóa do một số mã được lập trình sẵn trong não bộ người quyết định hơn là do các yếu tố bên ngoài. Mặt khác, quan tâm đến việc khảo sát những nền văn hóa đa dạng thì chính các nền văn hóa đa dạng này tiết lộ đặc tính chung của tinh thần nhân loại. Văn hoá là cái gì thay đổi thường xuyên, liên tục, đồng thời có những yếu tố ít biến đổi. Việc xây dựng một cấu trúc văn hoá cần đáp ứng thực tế đó. Có thể vận dụng hai thao tác trí tuệ: liên tưởng và tưởng tượng. Cấu trúc văn hoá vì vậy có hai bậc: Biểu tầng thường xuyên biến đổi, là biến số, yếu tố động của văn hoá; Cơ tầng ít biến đổi, là hằng số, yếu tố tĩnh của văn hoá. Cấu trúc ấy giải thích vì sao văn hoá chỉ biến đổi tiệm tiến chứ không biến đổi ngay tức khắc.

2.3. Trường phái lịch sử-địa lý

Giao lưu và tiếp biến văn hóa (acculturation) là quá trình các cộng đồng tộc người “gặp nhau”, tiếp xúc với nhau trên cơ sở đó “tiếp nhận” những giá trị văn hóa là động lực làm cho nhiều yếu tố văn hóa truyền thống luôn được điều chỉnh và biến đổi cho phù hợp. Đó là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người (cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác nhau giao lưu tiếp xúc với nhau tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm. Giao lưu tiếp biến văn hóa tạo nên sự dung hợp, tổng hợp và tích hợp văn hóa ở các cộng đồng [6]. Mỗi tộc người đều có những nét văn hóa riêng biệt của mình, từ điều kiện như di cư, giao tiếp, trao đổi, sinh sống gần nhau… Các tộc người sẽ có quá trình trao đổi, học hỏi văn hóa lẫn nhau để tiếp thu, trao đổi những sắc thái văn hóa của nhau.Quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá đã tạo nên những khác biệt cho các cộng đồng tộc người tại các vùng văn hóa. Với lý thuyết về tính đặc thù lịch sử (historical particularision) của văn hóa, F. Boas và A. Kroeber cho rằng: “Văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử, nó gắn liền với môi trường xã hội nhất định và trong điều kiện địa lý cụ thể” [6, tr.24]. Nghiên cứu hai nhóm tộc người Môn-Khmer và Nam Đảo đã thích nghi và ứng phó (hay tận dụng và đối phó) với môi trường canh tác nông nghiệp trồng lúa rẫy và lúa nước của họ như thế nào, cần thiết tìm hiểu các phương thức khai thác hay ứng phó của họ có những thiết chế xã hội nào, cũng như cách thức mà qua quá trình sinh sống và ứng xử với môi trường đất rừng, đất rẫy và đất ruộng của mình, hẳn nhiên giữa họ có sự ảnh hưởng, bị ảnh hưởng hay sự giao lưu văn hóa, sự chấp nhận, biến đổi văn hóa.

3. Văn hóa học so sánh 3.1. Bản sắc văn hóa, sự biến đổi văn hóa, tiếp xúc và giao lưu tiếp biến văn hóa

Bản sắc văn hóa là những yếu tố văn hóa bền vững, có quá trình lâu dài, làm nên nền tảng tinh thần cho sự tồn tại và phát triển của cả một dân tộc. Những di sản văn hóa vật chất và tinh thần của một dân tộc được bảo vệ và tôn vinh không chỉ vì lợi ích của dân tộc đó, mà còn vì lợi ích của cả nhân loại. Giữa các nền văn hóa, văn minh khác nhau thường có những mâu thuẫn nhất định. Bản chất của những mâu thuẫn này nằm ở sự khác biệt về quan niệm sống, đạo đức, phong tục, tập quán, tín ngưỡng… Mỗi dân tộc thường có khuynh hướng bảo vệ nền văn hóa lâu đời của mình, chống lại sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa ngoại lai. Văn hoá giống như cái cây, bị chặt cành vẫn phát triển, nhưng sẽ chết khi bị chặt gốc. Cái gốc ấy là bản sắc văn hoá dân tộc. Tiếp xúc văn hoálà một quy luật. Tiếp xúc văn hoá khác với giao lưu văn hoá. Giao lưu có thể làm giàu bản sắc văn hoá. Tiếp xúc có thể làm biến đổi cơ cấu văn hoá của một dân tộc. Thí dụ, tiếp xúc văn hoá với Đông Nam Á làm hình thành văn hoá Việt; tiếp xúc văn hóa giữa các tộc người láng giềng có cùng nguồn cội ở vùng Trường Sơn-Tây Nguyên tạo nên vùng văn hóa Trường Sơn-Tây Nguyên có đặc trưng, bản sắc riêng.

3.2. Các trường phái và khuynh hướng nghiên cứu văn hóa vùng

Vùng văn hóa Trường Sơn-Tây Nguyên, chủ yếu bao gồm hai nền văn hóa của hai nhóm ngữ hệ Nam Đảo và Môn Khơme, được xem là đối tượng khảo sát về sự tác động giữa con người với môi trường tự nhiên và giữa con người với nhau trong môi trường không gian văn hóa xã hội Trường Sơn-Tây Nguyên. Qua nghiên cứu vùng văn hóa này sẽ cho ta thấy được các sắc thái văn hoá đa dạng của các cộng đồng người, thấy được sự hình thành, phát triển, biến đổi, giao lưu, tiếp thu, lan toả của văn hoá của hai nhóm tộc người. Điểm qua các trường phái và khuynh hướng nghiên cứu văn hóa vùng trên thế giới có thể dẫn ra các trường phái và khuynh hướng như: tiến hoá luận (évolutionism); lý thuyết khuếch tán văn hóa với các trường phái như: trường phái văn hóa lịch sử Đức-Áo, trường phái “age and area” Bắc Mỹ, trường phái truyền bá văn hóa Anh; lý thuyết vùng văn hóa Bắc Mỹ; lý thuyết khu vực lịch sử-văn hóa; lý thuyết loại hình kinh tế-văn hóa Nga. Lý thuyết sau luôn kế thừa thành tựu và khắc phục những hạn chế của lý thuyết trước. Bản chất tư tưởng văn hoá vùng là sự tương đồng và khác biệt văn hoá. Con người đã có ý niệm về sự tương đồng và khác biệt từ xa xưa, các lý thuyết về vùng văn hoá ra đời nhằm giải thích các hiện tượng tương đồng và khác biệt về văn hóa trong một vùng văn hóa hay ở các vùng văn hóa khác nhau là sự kế thừa, phát triển để dần hoàn thiện hơn [8].

3.3. Các giai đoạn nghiên cứu so sánh văn hóa

Trong khoảng hai thế kỷ XVIII – XIX, ở châu Âu xuất hiện một cao trào khoa học mới gọi là “chủ nghĩa so sánh”. Và từ năm 1821 về sau, hàng loạt các khoa học như tôn giáo học so sánh, thần thoại học so sánh, chính trị học so sánh, sử học so sánh, triết học so sánh, kinh tế học so sánh, văn hóa học so sánh v.v.. theo chủ nghĩa so sánh lần lượt ra đời, hình thành một cao trào “so sánh”. Sự xuất hiện của các khoa học theo chủ nghĩa so sánh này đã đặt nền móng quan trọng cho văn hóa học so sánh, góp phần thúc đẩy sự hình thành của khoa học này. Là sản phẩm của thời đại lịch sử mới, văn hóa học so sánh là khoa học tiến hành nghiên cứu so sánh tư duy và phương pháp đối với văn hóa của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Nhân vật đại diện cho trường phái văn hóa lịch sử là các nhà tư tưởng người Đức thế kỷ XVIII như Herder Johann Gottfried von, Alexander von Humboldt v.v. Một mặt họ thừa nhận văn hóa thế giới do đa dân tộc sáng tạo nên chứ không phải chỉ có châu Âu mới đóng góp vào sự phát triển của văn hóa thế giới. Mặt khác, trong quan niệm của họ chỗ nào cũng thể hiện quan niệm “dĩ Âu vi trung”, cho rằng những đóng góp của dân tộc Đức đối với thế giới là không gì sánh nổi. Điều này làm cho họ tiến dần đến thuyết “tương đối luận văn hóa” trong nghiên cứu so sánh văn hóa thế giới. Chẳng hạn Herder cho rằng: “Bất kì dân tộc nào mà bên trong nó có tầng lớp tinh anh vững mạnh sẽ giống như mỗi quả cầu đều có một trung tâm dẫn lực”. Ở đây, văn hóa dân tộc bản địa được xem như một chỉnh thể hữu cơ độc lập, nó có tính đối kháng cao. Sự tiếp xúc với văn hóa ngoại lai, văn hóa các dân tộc khác có chăng chỉ là chiều đồng hóa của văn hóa bản địa ấy đối với các nền văn hóa khác, và chỉ có những nền văn hóa đã biến đổi thông qua đồng hóa mới có thể gia nhập vào hạt nhân văn hóa của nền văn hóa bản địa này. Từ nhận định này, có thể nêu lên một phản đề rằng: ở một chừng mực nào đó, trên thế giới không có nền văn hóa của một dân tộc văn minh nào chỉ do hoàn toàn dân tộc đó sáng tạo độc lập. Đừng nói chi là các dân tộc văn minh, ngay cả các thổ dân, văn hóa của họ được hình thành đều phải trải qua quá trình giao lưu tiếp xúc với văn hóa các nhóm tộc người lân cận. Plekhanov…, nhân học đã trở thành khoa học có phạm vi rất rộng. Lĩnh vực gần nhất với nhân học là thần thoại học, bao gồm cả thần thoại học so sánh của Max Müller, phê bình thần thoại… Cải thiện văn hóa dân tộc là quy luật cơ bản của tiến bộ văn minh nhân loại. Trong khi các khoa học mang tính chất văn hóa so sánh phát triển nhanh chóng thì chính chủ nghĩa “dĩ Âu vi trung” lại là một nhân tố gây trở lực. Trong các khoa học này, nhân loại học là một lĩnh vực được nhiều người quan tâm. Ngoài nhân học thể chất, từ nhân học kinh điển của Morgan, Franz Boas, nhân học văn hóa của Malinowski, đến nhân học cấu trúc của Levi-Strauss, nghiên cứu tư duy nguyên thủy của Levy- Bruhl, lý luận nghệ thuật nguyên thủy của Ngày nay, trong xu hướng hội nhập toàn cầu, lý luận cơ bản của văn hoá học so sánh cần thiết có những nghiên cứu tỉ mỉ, những ảnh hưởng quan trọng cu ̉a một nền văn hoá thế giới hội nhập của nhân loại. Loại nghiên cứu này trước mắt có hai phương diện nền tảng: một là văn hóa học so sánh phải cung cấp công cụ khoa học và lý luận cho nghiên cứu văn hóa đa dân tộc, hai là văn hóa học so sánh cũng phải tiến hành nghiên cứu thực tiễn đối với các nền văn hóa, nghiên cứu hình thái thể hiện văn hóa, đặc điểm chung cũng như quy luật của chúng, sau đó căn cứ vào những điểm tương đồng và dị biệt văn hóa để quan sát các mặt đối lập, xung đột hay hài hòa, dung hợp giữa chúng. Cốt lõi của lý luận này là phá bỏ ranh giới văn hóa để nghiên cứu văn hóa, từ đó có thể hình thành các quan niệm về giao lưu văn hóa và đối thoại văn hóa. Loại nghiên cứu này thực chất coi văn hóa thế giới là một chỉnh thể trong nghiên cứu đòi hỏi ở khoa văn hóa học so sánh những yêu cầu càng cao hơn về hệ thống lý luận. Trong lĩnh vực văn hóa, tính ngoại tại chính là chiếc đòn bẩy mạnh nhất. Một nền văn hóa chỉ có thể thể hiện chính mình đầy đủ và sâu sắc nhất trong mắt của một nền văn hóa khác (dĩ nhiên không phải là toàn bộ, vì cùng lúc lại có nhiều nền văn hóa khác cùng tiếp xúc nên sẽ nhìn thấy và hiểu được nhiều thứ hơn từ các nền văn hóa này)… Trong tình huống hai nền văn hóa gặp gỡ đối thoại như thế, giữa chúng sẽ không dung hợp lẫn nhau, cũng không hòa trộn lẫn nhau, mỗi bên tự duy trì tính thống nhất và tính hoàn chỉnh trong khai phóng (cải cách, mở thoáng) của chính mình, từ đó cả hai cùng phong phú lên hơn.[9]

3.4. Vấn đề phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hoá học

Sau gần 100 năm kể từ khi văn hóa trở thành đối tượng nghiên cứu riêng biệt của nhiều chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn, nhiều nhà khoa học đã nhận thấy nhu cầu cấp thiết về một lối tư duy tổng hợp để khắc phục những bất cập của từng cách tiếp cận riêng biệt trong nghiên cứu văn hóa và họ đã đề xuất về việc hình thành một bộ môn khoa học văn hóa mới mang tính tổng hợp mà đặc trưng của nó là phương pháp tiếp cận liên ngành. Các nhà khoa học đã đặt hy vọng ở một bộ môn khoa học mới, có khả năng nghiên cứu văn hóa một cách toàn diện hơn, sâu sắc và khách quan hơn. Tính tổng hợp và tính liên ngành của văn hóa học được thể hiện trước hết ở cách nhìn tổng thể đối với đối tượng khảo cứu (các sự kiện, hiện tượng và các quá trình văn hóa), thậm chí, ngay cả khi đối tượng ấy chỉ là thành tố của một tổng thể thì nó vẫn là một hiện tượng xã hội tổng thể. Do đối tượng nghiên cứu là một hiện tượng tổng thể, nên muốn hiểu nó một cách toàn diện và sâu sắc (cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu), người ta phải sử dụng những phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành khác nhau trong sự phối trí hợp lí. Do nghiên cứu văn hoá học đòi hỏi quan điểm tổng thể và toàn cục cho nên phương pháp liên ngành là nhằm tiếp cận đối tượng bằng nhiều cách thức, dựa trên cứ liệu của nhiều chuyên ngành. Có ba mức độ liên ngành:

– Dùng phương pháp của một ngành ứng dụng vào các ngành khác. Thí dụ khảo cổ học dùng phương pháp xác định niên đại bằng hàm lượng đồng vị phóng xạ C14 của địa chất học. Ngôn ngữ học dùng hàm lượng từ cơ bản để xác định niên đại chia tách các ngôn ngữ, các ngôn ngữ họ hàng gần và họ hàng xa. Đây là phương pháp sơ đẳng nhất của nghiên cứu liên ngành.

– Dùng lý thuyết của ngành A áp dụng vào các ngành B, C, D để xem xét hiệu quả. Nếu thấy đúng thì lý thuyết ấy có giá trị phổ biến, có thể tin cậy được. Thí dụ lý thuyết làn sóng của vật lý học: những làn sóng càng gần nơi phát sinh ra lực thì càng mạnh, càng xa thì càng yếu, được áp dụng vào sinh học, từ đó phát hiện rằng các giống cây trồng càng gần trung tâm càng biến đổi nhiều, càng xa trung tâm càng ít biến đổi. Trong ngôn ngữ học, việc áp dụng lý thuyết làn sóng làm hình thành lý thuyết tâm-biên (càng ở ngoại biên, các phương ngữ càng bảo lưu nhiều yếu tố cổ, ví như người Việt ở Paris bảo thủ hơn người Việt ở Hà Nội).

– Tìm những điểm nổi trội, giao thoa giữa các ngành khoa học. Các ngành khoa học thường có điểm chung nhau, giao thoa với nhau. Thí dụ, tiếp xúc văn hóa giúp phát hiện những dấu ấn, những yếu tố văn hoá nội sinh và ngoại sinh tác động lẫn nhau. Trong văn hóa Việt Nam, các các yếu tố ngoại sinh được Việt Nam hóa, còn các yếu tố nội sinh được hiện đại hóa.

3.5. Văn hoá học như là một khoa học liên ngành và hướng tiếp cận nhân học

Trong khi Racliffe-Brown – nhà nhân học Anh danh tiếng – không thừa nhận một khoa học chung về văn hóa và cho rằng văn hóa là một khái niệm trừu tượng bởi giá trị và chuẩn mực của một xã hội là không thể quan sát được. Hoặc nhiều nhà nghiên cứu theo quan điểm phản thực chứng luận (anti-positivism) thì lại cho rằng: văn hóa của nhân loại là không đồng nhất và vô cùng đa dạng, giữa chúng không có những quy luật chung, vì thế, văn hóa không thể được nghiên cứu theo thực chứng luận (positivism) (tức không thừa nhận một khoa học chung về văn hóa). Có ý kiến ngược lại, cho rằng, thực ra, trước khi xuất hiện thuật ngữ culturology (văn hóa học) đã có nhiều nhà khoa học, cùng nhiều công trình cụ thể đã thực hiện việc nghiên cứu văn hóa theo quan điểm và phương pháp liên ngành (interdisciplin). Nói cách khác, những người này cho rằng: Văn hóa là một tồn tại khách quan, dù các hình thái của nó rất đa dạng nhưng người ta vẫn có thể trắc đạc nó một cách khoa học và có thể so sánh các biểu thị văn hóa để tìm ra những nét tương đồng, những quy luật chung trên cơ sở tính thống nhất tinh thần của nhân loại. Các công trình đi theo hướng đơn ngành không thể nghiên cứu văn hóa một cách toàn diện và lại càng không thể đảm nhận được những nội dung ngày càng phức tạp mà thời đại đặt ra đối với nghiên cứu văn hóa (hàng loạt những vấn đề như: hình thái, bản sắc, quá trình biến đổi và tích hợp văn hóa, thể chế văn hóa, chính sách văn hóa, tính dân tộc, tính hiện đại trong văn hóa, văn hóa và phát triển…). Tính bức thiết của quan điểm và phương pháp nghiên cứu liên ngành trong nghiên cứu văn hóa và đưa ra cách lý giải cũng như khả năng liên kết các quan điểm và các phương pháp nghiên cứu nhằm góp phần vào việc xây dựng cơ sở khoa học trong quá trình hình thành và phát triển môn văn hóa học. Và chỉ với phương pháp nghiên cứu liên ngành mới cho phép có được những nghiên cứu văn hóa học phản ánh đúng cái đối tượng siêu phức tạp của nó là văn hóa. Trong điều kiện còn hạn chế về tư liệu tra cứu, hiện nay ở Việt nam cần thiết có thể dựa vào những quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của một số chuyên ngành tương đối phổ biến như: dân tộc chí, dân tộc học, nhân học, tâm lý học, xã hội học,… trong đó thuận lợi hơn cả là quan điểm và phương pháp nghiên cứu của ngành nhân học.

– Đối tượng khảo sát ở các xã hội cổ truyền thường không bị chia cắt vì chúng mang tính tổng thể – toàn vẹn. Do đó các nhà nhân học có thể tiếp cận đối tượng với tư cách là một sự kiện xã hội tổng thể, không phải qua những khâu trung gian mới có thể hiểu những mối liên hệ xã hội của sự kiện.

– Ở các xã hội chưa phân tầng ấy, các giá trị, chuẩn mực xã hội và những hình thái biểu thị chúng thường nhất quán, đồng đều, nếu muốn tiến hành những nghiên cứu theo quan điểm và phương pháp nhân học người ta sẽ không phải đầu tư lớn về công sức, thời gian và tài chính khi nghiên cứu ấy đòi hỏi mẫu nghiên cứu lớn. Ví dụ, để có thể thu thập được những thông tin, dù là định tính, người ta có thể chỉ dựa vào phương pháp phỏng vấn hay quan sát thâm nhập, dễ dàng ở từng nhóm và cả ở tất cả các nhóm. Trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu không nhất thiết phải sử dụng những phương pháp định lượng kết hợp với định tính của xã hội học.

Tài liệu tham khảo

Tuy nhiên, có một hạn chế của nhân học – khi nghiên cứu các xã hội cổ sơ, cổ truyền – là không phải nhà nghiên cứu nào cũng biết ngôn ngữ của người bản xứ, điều đó trực tiếp gây hạn chế cho toàn bộ nghiên cứu thâm nhập của nhà nhân học (hoặc họ phải lấy và hiểu các thông tin từ người phiên dịch, hoặc họ phải sử dụng những thành quả của những nghiên cứu khác – một nguồn mà không phải lúc nào cũng chính xác, khách quan và đầy đủ).

1. Marx-Engels, Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, T.3.

2. Đoàn Văn Chúc (2004), Văn hóa học, Nxb Lao động.

3. Ngô Văn Lệ (2004), Tộc người và văn hóa tộc người, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM.

4. Bùi Quang Thắng (2003), Hành trình vào văn hóa học, Nxb Văn hóa – Thông tin. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/thu-vien-so-sach-anh-video/tu-sach-van-hoa-hoc/1151-bui-quang-thang-hanh-trinh-vao-van-hoa-hoc-c12.html

5. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb KHXH.

6. Nguyễn Văn Tiệp (2008), Giáo trình nhân học đại cường, Nxb ĐHQGTPHCM.

7. Vũ Minh Tâm (2006), Văn hóa sinh thái-nhân văn và hệ thống tự nhiên-con người-xã hội, Tc. Khoa học xã hội, số 6.2006.

8. Ngô Đức Thịnh , Các trường phái và khuynh hướng nghiên cứu văn hóa vùng, http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/cac-truong-phai-va-khuynh-huong-nghien-cuu-van-hoa-vung.180835.html

9. Phương Hán Văn, Các giai đoạn nghiên cứu so sánh văn hóa, Nguyễn Ngọc Thơ dịch, http://www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=405&Itemid=6

Cập nhật thông tin chi tiết về Giới Thiệu Môn Học Toàn Cầu Hoá trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!