Bạn đang xem bài viết Giao Tiếp Xã Hội – Phần I được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I/ Dẫn luận
Ai nói – Bộ phát tin (hay người gửi). Chủ thể giao tiếp là người tham gia vào quá trình giao tiếp với các đặc điểm cá nhân như tri thức và trình độ hiểu biết, các đặc điểm ngoại hình, tâm lý và xã hội. Việc chủ thể giao tiếp có tác động tới hiệu quả giao tiếp ở mức độ nào còn phụ thuộc vào cách anh ta nhìn nhận, đánh giá về chính bản thân mình. Nếu chủ thể giao tiếp có hình ảnh tốt về bản thân, cởi mở, làm chủ được cảm xúc và các phản ứng của mình, chủ thể sẽ tự tin trong giao tiếp, từ đó lý giải một cách tích cực các tác động từ người giao tiếp và có khuynh hướng giao tiếp thành công. Sự thành công trong giao tiếp càng củng cố hình ảnh tốt về bản thân. Ngoài ra, các biểu hiện của hành vi không lời đều tham gia vào quá trình giao tiếp như dáng điệu, cử chỉ, ánh mắt, vẻ mặt… thậm chí cả mùi nước hoa.
Bằng cách nào – Kênh truyền tin. Đó là đường truyền dẫn thông điệp giữa những người giao tiếp. Kênh giao tiếp thông dụng nhất là kênh sử dụng lời nói và chữ viết và các phương tiện phi ngôn ngữ khác như cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, đồ vật, cách sử dụng không gian, thời gian. Thực ra, để trao đổi thông tin, suy nghĩ và tình cảm con người thường sử dụng tất cả 5 loại kênh giao tiếp tương ứng với 5 giác quan là thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác. Vì vậy tùy từng tính chất của cuộc giao tiếp mà người ta lựa chọn ngôn từ cũng như việc ăn mặc sao cho phù hợp với đối tượng giao tiếp. Các phương tiện giao tiếp ngày càng trở nên phong phú, đa dạng. Cùng với ngôn ngữ lời nói, cử chỉ, chữ viết, tranh vẽ, điện thoại, phim ảnh, cầu truyền hình, máy vi tính… lần lượt xuất hiện.
Nhằm vào ai – Bộ thu bản tin (người nhận). Hiệu quả giao tiếp không chỉ phụ thuộc vào người nói mà còn phụ thuộc vào người nghe. Nhiều khi các đối tượng giao tiếp nhận thông tin khác xa so với những gì mà chủ thể truyền đạt. Sự khác nhau này phụ thuộc vào những đặc điểm cá nhân như trình độ học vấn, nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính, quan điểm sống, nhu cầu, động cơ cá nhân…Để giao tiếp thành công, chủ thể giao tiếp cần quan sát đối tượng giao tiếp của mình thông qua đó nắm bắt sự đáp ứng của họ và điều chỉnh kịp thời cho phù hợp.
Mục đích gì – Sản phẩm đầu ra. Giao tiếp là một loại hoạt động do đó nó luôn hướng vào mục đích nhất định. Quá trình giao tiếp tạo ra những sản phẩm là những gì đã được hình dung dưới dạng mục đích giao tiếp. Mục đích giao tiếp thường hướng tới việc đáp ứng hay thỏa mãn những nhu cầu nào đó của chủ thể giao tiếp: nhu cầu trao đổi thông tin, nhu cầu chia sẻ tình cảm, nhu cầu giải trí, nhu cầu khẳng định bản thân trước người khác… Khi những người tham gia giao tiếp không xác định rõ mục đích giao tiếp của mình thì hiệu quả giao tiếp không thể có được.
Ngoài năm yếu tố cơ bản trên, hiệu quả của giao tiếp còn phụ thuộc vào một số đặc điểm sau:
+ Hoàn cảnh giao tiếp: Là bối cảnh trong đó diễn ra quá trình giao tiếp, bao gồm cả khía cạnh vật chất, như địa điểm, kích thước không gian gặp gỡ, số người hiện diện, khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, màu sắc đồ vật xung quanh… Đây là những khía cạnh bên ngoài có tác động đến các đối tượng đang giao tiếp.
+ Quy tắc trong giao tiếp: Trong giao tiếp luôn luôn có những quy tắc công khai hoặc ngầm ẩn bất thành văn. Điều này phụ thuộc vào văn hóa, lối sống của người giao tiếp. Khi giao tiếp, các cá nhân có xu hướng đối chiều, so sánh các suy nghĩ, tình cảm, hành động của mình và của người giao tiếp với các quy tắc, chuẩn mực đã quy định, nhằm đạt được một sự an tâm nơi bản thân. Các quy tắc giao tiếp có chức năng thông hiểu, tạo niệm tin cho người giao tiếp; giảm bớt sự hỗn tạp của vấn đề giao tiếp và tránh được xung đột. Các quy tắc này luôn thay đổi trong quá trình giao tiếp. Việc các chủ thể giao tiếp không nắm vững được các quy tắc giao tiếp sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả giao tiếp.
+ Tâm trạng và sự lây truyền cảm xúc giữa những người giao tiếp: Tâm trạng của chủ thể giao tiếp có ảnh hưởng đến thái độ, quan điểm, cách nhìn nhận vấn đề, phong cách ửng xử và xu hướng nhận định, đánh giá vấn đề của họ. Khi tâm trạng của người giao tiếp không thoải mái dễ dẫn đến sự hiểu lầm, mâu thuẫn. Ngoài ra, một đặc trưng quan trọng không thể không nhắc tới trong giao tiếp xã hội là sự lây lan (lan truyền) các cảm xúc, tâm trạng. Sự biểu cảm thân thiện thể hiện đầu tiên bằng nét mặt, phản ánh khả năng đồng cảm và ảnh hưởng lẫn nhau của con người. Sự lây truyền cảm xúc giúp cho quá trình giao tiếp đem lại hiệu quả cao.
Một yếu tố nữa không thể bỏ qua, đó là sự phản hồi. Đối với cá nhân, phản hồi một cách trung thực sẽ giúp quá trình giao tiếp đạt hiệu quả. Việc thiếu phản hồi trong các mâu thuẫn dễ dẫn đến chia rẽ, bất hợp tác, giao tiếp thất bại.
Hai chức năng quan trọng nhất trong giao tiếp xã hội đó là chức năng thông tin liên lạc và chức năng điều chỉnh hành vi. Chức năng thông tin liên lạc bao quát mọi quá trình truyền và nhận thông tin, có cả ở người và động vật. Tuy nhiên, con người với ngôn ngữ – hệ thống tín hiệu thứ hai, quá trình truyền tin được phát huy đến tối đa tác dụng và kết quả là họ có khả năng truyền đi bất cứ thông tin, tín hiệu gì mình muốn. Với chức năng điều chỉnh hành vi, các cá nhân tham gia giao tiếp không hcỉ có khả năng điều chỉnh hành vi của mình, mà còn có thể điều chỉnh hành vi của những người khác. Chức năng này chỉ có ở người với sự tham gia của quá trình nhận thức, của ý chí và tình cảm. Chức năng điều chỉnh hành vi còn thể hiện khả năng thích nghi lẫn nhau, tính mềm dẻo, linh hoạt của các phẩm chất tâm lý cá nhân trong giao tiếp. Hơn thế nữa, nó cũng đóng vai trò tích cực của các chủ thể trong quá trình giao tiếp.
Có nhiều hình thức giao tiếp trong xã hội, nhưng các nhà khoa học thường phân thành hai loại là giao tiếp bằng ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ. Trong giao tiếp, khó có thể tách rời ngôn ngữ nói và phi ngôn ngữ. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ ra rằng: 7% nội dung thông điệp là do ý nghĩa của các từ, trong khi 38% là do cách các từ được phát ra và có tới 55% bằng biểu cảm nét mặt.
Giao tiếp ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc thù chỉ có ở con người, thông qua lời nói và chữ viết. Ở mỗi cá nhân, khả năng trí tuệ được thể hiện rõ nét ở cách trình bày câu văn, cách sử dụng và ý nghĩa của câu trong giao tiếp. Các nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ em thất học thường nói ngọng, nói tiếng thổ ngữ, lượng từ thường nghèo nàn, lặp từ khi giải thích, trình bày không rõ ý hoặc nghĩa, diễn đạt từ trừu tượng kém. Trong khi với trẻ em có học vấn phù hợp với lứa tuổi thường có vốn từ phong phú, mức độ biểu đạt thông tin tượng trưng cao hơn. Việc sử dụng ngôn ngữ nói và viết trong giao tiếp là hết sức khác nhau, phụ thuộc vào vốn kinh nghiệm, tri thức, hiểu biết của mỗi người. Nghệ thuật diễn đạt ngôn ngữ của các cá nhân, hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ, định hướng hành vi ngôn ngữ vào những mục tiêu khác nhau, cũng như bản sắc ngôn ngữ được sử dụng ảnh hưởng lớn đến giao tiếp.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – SCDRC
Share this:
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…
Xã Hội Học Giáo Dục Xhh Giao Duc1 Ppt
ĐỐI TƯỢNG – CƠ CẤU CỦA XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC1. Khái niệm XHHKhoa học nghiên cứu quy luật của sự hình thành, vận động, biến đổi mối quan hệ giữa con người và xã hội.XHH nghiên cứu:Con người tác động và cải biến xã hội ntnXã hội tác động đến hành vi và biến đổi con người XHH quan tâm tới các câu hỏi:Cái gì gắn kết các cá nhânTại sao cá nhân lại hành động như thếTại sao lại phân hóa giầu nghèoTại sao lại có mâu thuẫn xã hộiXã hội đã biến đổi như thế nàoXã hội biến đổi con người như thế nào
Một sô lý thuyết XHH hiện đạiThuyết mâu thuẫnKarl Marx: Mâu thuẫn cơ bản trong xh là mâu thuẫn lợi ích bắt nguồn từ phân hóa xã hội.Các luận điểm gốc:Xã hội bị phân chia thành các nhóm đối lậpMâu thuẫn bắt nguồn từ bất bình đẳng, từ phân công lao động và vai trò trong hệ thống kinh tế.Mẫu thuẫn cũng bắt nguồn từ những yếu tố phi kinh tế (quyền lực, văn hóa, tôn giáo…)Mâu thuẫn gặp ở khắp mọi nơi.Các nhóm xh luôn cạnh tranh vì kinh tế, quyền lực, địa vịGiai tầng nào nắm kinh tế thì thống trị nhóm khác về văn hóa, tư tưởngĐộng lực biến đổi xã hội là đấu tranh giai cấpHướng vận dụng trong nghiên cứu giáo dụcXem xét giáo dục trong mối quan hệ XH – Con người.Mâu thuẫn giữa khả năng thực tế của giáo dục và nhu cầu đào tạoVấn đề bất công bằng trong giáo dụcGiáo dục phản ánh bất bình đẳng và các yếu tố gây ra.
Thuyết chức năngH.Spencer: Luận điểm gốcXã hội là 1 hệ thống, gồm nhiều bộ phận và mỗi bộ phận thực hiện 1 số chức năng riêng biệtChức năng là 1 nhiệm vụ mà một bộ phận xh phải thực hiện để đảm bảo tồn tại xhPhi chức năng là vai trò gây cản trở xã hộiHệ thống xã hội tồn tại bình thường khi còn thực hiện chức năng, sẽ là bất bình thường khi thực hiện phi chức năng
Chức năng của bộ phận xã hội được xác định vởi nhu cầu của cả hệ thống.Sự trật tự xã hội và thống nhất của hệ thống phụ thuộc vào sự tích hợp chức năng và đồng thuận giá trị.Hành vi cá nhân bị quy định bởi vị thế, vai trò trong hệ thốngQuá trình xã hội hóa giúp cá nhân hội nhập với hệ thống thiết chếSự biến đổi xã hội tuân theo quy luật sự thích ứng với môi trường
N/c mối quan hệ tác động qua lại giữa hệ thống giáo dục với xã hội.Xã hội với vai trò tạo dựng hệ thống giáo dụcGiáo dục tác động trở lại xã hội, tạo ra biến đổi xã hộiGiáo dục có vai trò gì đối với sự phân hóa xã hội và phân tầng xã hộiCấu trúc xã hội (phân hóa giầu nghèo) có tác động gì đến bất bình đẳng xã hộiLàm thế nào để giáo dục góp phần xóa đói giảng nghèoBất bình đẳng trong học tập giữa nam và nữ
III. Nhiệm vụ của XHH giáo dụcXét mức độ nhận thức xã hội hoá giáo dục gồm các lĩnh vực sau:Nhiệm vụ nghiên cứu lý luậnNhiệm vụ nghiên cứu thực tiễnNhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệmXét ở góc độ đối tượng nghiên cứu:Mức độ vĩ mô: Giáo dục trong mqh với đời sống…Mức độ vi mô: Giáo dục với người đi học1. phương pháp nghiên cứu lý luận2. phương pháp thu thập và phân tích thông tin2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp:Nghiên cứu những tài liệu được thu thập trên cơ sở thống kê các chỉ báo trong hoạt động giáo dục.Các loại tài liệu thứ cấp:Tài liệu thống kê giáo dục (niên giám thống kê)Trình độ dân sốSố dân làm việc trong nền kinh tếTrình độ học vấnCác nghiên cứu độc lập của các nhà XHHBài báo, hội thảo khoa học về giáo dụcNghị quyết, quan điểm của giai cấp cầm quyền về chính sách giáo dục2. Phương pháp điều tra xhh giáo dụcPhương pháp thu thập thông tin có định hướng.Điều tra bằng bảng hỏiĐiều tra bằng bảng phỏng vấn sâuĐiều tra bằng quan sát có định hướng3. Phương pháp thống kê toán họcSử dụng các phép tình toán mối quan hệ (tương quan, hồi quy…)Góc độ mâu thuẫnMối tương tác giữa cấu trúc xã hội và sự phân hoá trong giáo dụcMối tương tác giữa giáo dục về sản xuất xã hộiSự tiếp cận và kiểm soát xã hội đối với giáo dục và các nguồn lực của giáo dụcVai trò của giáo dục đối với biến đổi xã hội.Góc độ chức năngChức năng giáo dục của các hệ thống xã hộiVai trò của những cải cách xã hộiCác yêu cầu xã hội đối với đổi mới hệ thống giáo dụcVai trò giáo dục đối với sự ổn định và trật tự.Góc độ giớiVai trò và vị trí của phụ nữ và nam giới trong tiếp cận và kiểm soát giáo dụcVai trò của giáo dục trong sự phân công lao động trong xã hội theo giới.Vấn đề công bằng và bất bình đẳng.
HỆ THỐNG XÃ HỘI VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC
1. Hệ thống xã hội1.1. Xã hội là gì?Cộng đồng ngườiSống trên cùng 1 lãnh thổCó chung nền văn hóaChung 1 phương thức sản xuất và sinh hoạtSử dụng trung ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viếtCùng tương tác, có mối quan hệ qua lại dựa trên những chuẩn mực và nguyên tắc chính thức hoặc phi chính thứcCác quan niệm khác nhau về hệ thống xã hộiThuyết mâu thuẫn:Là hệ thống các giai cấp có mâu thuẫn với nhauvề kinh tế và những lợi íchGiai cấp thống trị dùng giáo dục để làm công cụ củng cố địa vị và cấu trúc xã hội.Hệ thống giáo dục phụ thuộc vào hệ thống kinh tếThuyết chức năngXH là 1 hệ thống gồm nhiều thiết chếGiáo dục là 1 thiết chế xã hội thực hiện chức năng truyền đạt KN cho cá nhânThuyết hệ thốngLà tập hợp các quan hệ xh được tổ chức thành khuôn mẫuCấu trúc xh là tập hợp các quy tắc và các nguồn lực mà con người sử dụngGiáo dục quan hệ hữu cơ với các mặt của xhGiáo dục có chức năng duy trì trật tự xã hộiCủng cố khuôn mẫu và chuẩn mựcXã hội hóa cá nhân, xác định chuẩn mực và vai trò.1.2. Hệ thống giáo dụcLà 1 tiểu hệ thống trong tổng thể xã hộiThực hiện chức năng duy trì tồn tại và vận động của xhQuy luật vận động bị chi phối quy luật xã hộiNền kinh tế nào thì nền giáo dục ấyBị quy định bởi hệ thống chính trịCó chức năng xã hội hóa cá nhân
2. Lược sử hệ thống giáo dục Việt Nam2.1. Giáo dục trong thời kỳ Bắc thuộc111 trước CN – 938Chế độ giáo dục sĩ tộcĐào tạo con em quan lạiChế độ khoa cử – đặt học vị tiến sĩ (Đời nhà Đường)ở VN có giáo dục tiểu học (dưới 15) và giáo dục cho người trên 15 (để phục vụ thi cử)Một bộ phận nhỏ người Việt được đi học2.2. Giáo dục thời phong kiến (939 – 1858)939 – 965: Triều đại nhà Ngô, Nhà Đinh (968 – 980); Tiền Lê (980 – 1009): Có một số trường dành cho người ViệtNhà Lý (1009 – 1025)Giáo dục được tập trung ở Thăng Long1070 Thành lập Quốc tử giámĐào tọa con em hoàng tộc1075 tuyển được người đứng đầu1086 mở khoa thi để tuyển vào hàn lâm viện1397, Vua Trần mở các trường công ở các huyện, 1399 Hồ quý Ly mở trường sơ cấp ở các phủ huyện và được hỗ trợ kinh phí.
Đặc trưng:Đã tồn tại trường công, trường tư thụcNội dung giáo dục là các môn thuộc chữ nghĩa và lễ giáoPhương pháp dạy học chủ yếu là bình chú, học thuộcChủ yếu học thuộcHọc trò thụ độngBài tập củng cố trí nhớNguồn gốcXH phong kiến không khuyến khích phê phánXh muốn sự phục tùng tuyệt đối vào trật tự đã có.
2.3. Giáo dục thời kỳ Pháp thuộc1858 – 1919: Duy trì giáo dục phong kiến1919 bãi bỏ kỳ thiĐóng cửa các trường dạy hán ngữChế độ thi cử nho học bỉ bãi bỏÁp dụng mô hình giáo dục kiểu PhápĐào tạo tinh hoa phục vụ bộ máy nhà nướcCơ cấu giáo dụcTiểu học (ở một số ít xã đông dân)Cao đẳng tiểu học (ở các thành phố lớn)Trung học và đại học (3 trường Hà Nội, Huế, Sài Gòn)Đặc trưng:Mô hình giáo dục hình tháp bẹtĐào tạo tinh hoa dành cho thiểu sốChỉ đào tạo 3% dân sốTỷ lệ học sinh trung học thấp (100 học sinh tiểu học, có 2 được học trung học)Nguồn gốcDuy trì chính sách ngu dânĐào tạo nhân tài phục vụ bộ máy đô hộ
2.4. Hệ thống giáo dục quốc dân
Một số lỗi hệ thống trong hệ thống giáo dục VNMô hình giáo dục hình chóp tỏ ra thiếu hiệu quả.Đầu tư hạn chế cho giáo dục mầm nonHệ thống trường THPT dân lập mở tràn lanHệ thống các trường ĐH phục vụ cho số đông người giầu, khá giả. Có sự thiên vị của chính sách giáo dục với người giầu có, khá giả.Bất bình đẳng trong đầu tư giáo dục ở các vùng miềnBất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong hệ thống giáo dụcThiếu sự gắn kết giữa các hệ thống giáo dục nhà trường và các hình thức giáo dục.Hệ thống GD tác rời hệ thống xã hội, phục vụ không hiệu quả nhu cầu xh.Mâu thuẫn giữa hệ thống giáo dục tư và giáo dục công về mục tiêu.4. Hệ thống giáo dục cấp trườnglà một hệ thống xã hội gồm các thành phần khác nhau.Lớp họcCác bộ mônPhòng ban chức năngHọc sinh, giáo viênMối quan hệ được tổ chức thành quan hệ quyền lực và quan hệ chức năng.Sự thăng tiến dựa vào năng lực, phẩm chấtĐánh giá, thưởng phạt dựa vào kết quả hoạt động.Các cách tiếp cận hệ thống nhà trườngThuyết chức năng:Là 1 hệ thống gồm nhiều thiết chếCác chức năng trong nhà trường không đảm bảo sẽ nảy sinh những tổ chức thay thếThực hiện không đúng chức năng của bất kỳ bộ phận có thể cản trở sự tồn tại nhà trường.Đề xuất:Nâng cao tính chuyên nghiệp của các bộ phận chức năngThuyết tương tácLà hệ thống các tương tácQuan trọng nhất là tương tác thày – tròVai trò nhà trườngTạo ra hệ thống giá trị, chuẩn mực, động cơ, khuôn mẫu hành vi học sinh phù hợp với mong muốn của xhSản phẩm giáo dục ảnh hưởng nhiều qua mối tương tác thầy – tròĐề xuất:Tăng cường mối tương tác nhà trường với gia đình, tổ chức xh khácThuyết mâu thuẫn (xung đột)Nhà trường:Là nơi diễn ra các quan hệ lợi ích và cạnh tranh lợi íchLợi ích kỳ vọng giữa học sinh (nhóm đằng sau) với chất lượng giáo dụcLà nơi tạo ra những bất bình đẳng xã hộiĐề xuất:Cần nghiên cứu vai trò nhà nước đối với giáo dục nói chung và giáo dục nhà trường nói riêngCác câu hỏi có thể đặt ra:Ai là người quyết định trong trườngAi là người hưởng lợiHọc sinh đại diện cho giai tầng nào
Chức năng kinh tế:Là chức năng quan trọng nhấtĐảm bảo sự phát triển tối đa năng lực con người trong 1 dạng lao động cụ thể phù hợp với trình độ phát triển của xã hội.Chức năng kinh tế thể hiện ở:Đảm bảo nguồn cung lao động đáp ứng nhu cầu của các lĩnh vực lao động.Đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực (mối quan hệ học vấn và năng lực lao động)
Đảm bảo quá trình phân công lao độngNhân tố nâng cao tính tích cực lao động và hiệu quả sản xuất.Đảm bảo nâng cao năng suất lao động.Góp phần tái sản xuất sức lao động.Nâng cao giá trị của lao động và sản phẩm lao độngSinh viên phân tích mối quan hệ giữa giáo dục và năng suất lao động. Cho ví dụ cụ thể:Muốn tăng năng suất trong lao động thì cần những điều kiện:Khách quanThiết bịMôi trườngChủ quanPhẩm chấtNăng lựcThái độ, tinh thần2. Chức năng phát triển cơ cấu xã hộiGóp phần làm thay đổi cơ cấu xã hội nhằm đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn.Chức năng thể hiện ở:Quản lý sự phát triển cơ cấu xã hội (đào tạo nghề…)Khắc phục những đối lập giữa giai cấp và các nhóm đối lậpCải tạo các nhóm, giai cấpGóp phần dịch chuyển giai cấp, nhóm xã hội3. Chức năng chính trịHệ thống giáo dục gắn chặt với hệ thống chính trịĐảm bảo tính nhất quán về quan điểm, đường lối, hình thức dân chủ trong việc quản lý nhà nước.Tăng cường tính tích cực chính trị của cá nhân trong việc tham gia quản lý nhà nước.Chức năng này thể hiện:Hệ thống giáo dục – đào tạo được tổ chức trên cơ sở đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền.Hệ thống giáo dục phục vụ quyền lợi giai cấp thống trị thông qua giáo dục hướng đến việc giữ gìn, khẳng định sự thống trị của mình.Nội dung giáo dục phù hợp với nhiệm vụ cơ bản trong chính sách xã hội của hệ thống chính trị của đảng cầm quyền.
9. Chức năng đổi mớiThể hiện sự sáng tạo khoa họcCung cấp nền tảng tri thức, kinh nghiệm để thay đổi cái cũ, thực hiện cái mới…Tạo ra động lực cho di động xhCung cấp những tư tưởng tiến bộ, phê phán cái lạc hậu.10. Chức năng chọn lọc:Thực hiện công tác đào tạo và phân luồng trong giáo dụcThực hiện chính sách ganh đuaPhân loại học sinh thể hiện ở việc đánh giá kết quả học tập…Đảm bảo những khả năng cho sự thể hiện một cách hiệu quả nhất tiềm năng
PHÂN HOÁ XÃ HỘI VÀ BÌNH ĐẲNG TRONG GIÁO DỤCKHÁI NIỆM:Là quá trình hình thành cách nhóm xã hội khác nhau về một số đặc điểm, tính chất xh nhất định.CƠ CHẾ VÀ CÁC TÁC ĐỘNGCơ chế tự nhiênSự phân công lao độngTrình độ học vấnĐịa vị xã hộiKhái niệm:Là sự phân hoá xã hội thành các tầng lớp xh khác nhau về vị thế xh trong cấu trúc xã hội.Đặc trưng:Tạo các nhóm có vị thế trên dưới, cao thấp về kinh tế, quyền lực, uy tín xã hội.Cơ chế;Tự nhiênXã hội (gia đình, giáo dục, năng lực, cơ may xã hội…)
1. khái niệm gia đìnhCấu trúc xh, dựa trên hôn nhân, huyết thống và những quan hệ khác để cùng chung sống.2. Vai trò giáo dục của gia đìnhLà môi trường xã hội hóaNơi thỏa mãn nhu cầu học tậpTrang bị kỹ năng sống cho trẻ.Cơ cấu các loại gia đìnhGia đình hạt nhân chiếm tỷ trọng lớnPhần lớn chủ hộ là nam giớiPhụ nữ luôn đóng vai trò giáo dục trẻ emSố lượng con ngày càng ítGiáo dục gia đình phụ thuộc:Quy mô (hạt nhân, mở rộng, số lượng con cái….)Đặc điểm (mức sống, trình độ văn hóa, môi trường sống…)Tính chấtVai trò của gia đình trong giáo dục nhà trường.Đặc điểm giáo dục gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục nhà trường.Điều kiện, hoàn cảnh gia đình ảnh hưởng tới cơ hội và các điều kiện học tập Các kiểu quan hệQuan hệ hợp tácCó sự phối hợp chặt chẽQuan hệ trao đổiGia đình bỏ công sức, tiền bạc để nhận lại sự quan tâm của nhà trường.Quan hệ chuyên mônNhà trường đưa ra lời khuyên đáp ứng nhu cầu học tậpMối quan hệ gia đình, nhà trường dưới tác động cơ chế thị trường.Kiểu mua bán: Xuất hiện thị trường giáo dục (mua bán, trao đổi…)Kiểu đầu tư (gia đình đầu tư tiền bạc, tài chính)Khái niệm vốn con ngườiDùng để chỉ một tập hợp các tri thức và kỹ năng chuyên môn được giáo dục đào tạo.Đầu tư cho giáo dục:Đầu tư cho sự phát triển tương laiĐầu tư càng nhiều càng có cơ hội thu lãi cao (cơ hội việc làm, thu nhập…)Một số quy luật trong đầu tư giáo dụcGia đình đóng vai trò hàng đầu trong phát triển tâm lý, trí tuệ, nhân cách…Trình độ học vấn cha mẹ có ảnh hưởng đến chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻLợi nhuận đầu tư cho trẻ em gái cao hơn trẻ em trai
GIÁO DỤC VÀ XÃ HỘI HÓA1. XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI HÓA XÃ HỘIXã hội hóa:Quá trình biến những hành vi đơn lẻ thành hành vi mang tính xã hộiXem xét ở cấp độ vĩ môXã hội hóa cá nhânBiến cá nhân thành nhân cách (con người xã hội)2. Các giai đoạn xã hội hóa cá nhânGiai đoạn trước khi đến trườngHình thành những hiểu biết, kỹ năng cần thiết để đến trườngChủ yếu hình thành trong gia đìnhVài trò và hành vi người lớn ảnh hưởng mạnh mẽGiai đoạn đi họcGiáo dục nhà trường đóng vai trò chủ yếuGiai đoạn lao độngXHH chủ yếu diễn ra nơi làm việcGiai đoạn sau lao độngXHH ở ngoài cấu trúc nghề nghiệp, học tập để thích nghi3. Một số chức năng của xhh giáo dục
Xung Đột Xã Hội: Chiều Cạnh Triết Học – Phần Iii
Biểu hiện đầy đủ nhất, theo quan điểm của chúng tôi, mối liên hệ của xung đột với sự mâu thuẫn là trong công thức nổi tiếng của Hegel – Marx về thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Xung đột ở đây trực tiếp gắn với cuộc “đấu tranh” giữa các lực lượng và của những khuynh hướng phát triển đối lập nhau với mâu thuẫn giữa chúng. Nhưng những đối lập đây không phải là các lực lượng bên ngoài. Chúng thuộc về khối thống nhất, một chính thể nhất định dù đó là gia đình hay đội sản xuất trong cuộc xung đột của cá thể hay của các nhóm nhỏ, hay đó là xã hội (bộ lạc, bộ tộc, hay một dân tộc hiện đại, thông thường được tổ chức và tự đồng nhất thông qua nhà nước) trong cuộc xung đột của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các tập đoàn tộc người hay nhân khẩu học, của những người lao động của các ngành khác nhau của các nền kinh tế… Ở đây không chỉ nói về các mặt đối lập, mà cả về sự thống nhất về lợi ích, là cái tạo ra cơ sở khách quan để giải quyết xung đột.
Tất nhiên, sự bất đồng của các lợi ích thường nghiêm trọng đến mức sự thống nhất “không chịu đựng nổi” sức ép và bị phá vỡ. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là sự thống nhất mất đi hoàn toàn. Thay thế các gia đình tan vỡ, những gia đình mới được thành lập từ những mảnh vỡ ấy. Sự sụp đổ của nhà nước diễn ra trong khuôn khổ của cộng đồng khu vực rộng lớn hơn và nó được hoàn tất bằng việc xây dựng các quốc gia mới từ những bộ phận hợp thành đó. Kết cục, khi đã chấm dứt một hình thái nhất định thì cuộc đấu tranh của các giai cấp có thể được kết thúc bằng sự diệt vong của các giai cấp (như khi La Mã sụp đổ), nhưng chính từ những con người, trong cuộc cải tổ các quan hệ kinh tế, các giai cấp mới dần dần được hình thành. Theo ý kiến của chúng tôi, việc hình thành các giai cấp mới đang diễn ra ở Nga. Sự hình thành này bắt đầu ngay từ lúc cuộc cải tạo “dân chủ” thành thời kỳ “cải tổ”, nhưng nó thật sự triển khai ngay sau khi Liên bang bị tan rã và đường lối tư bản hóa nhanh chóng đất nước bằng các phương pháp “liệu pháp sốc” được thông qua vào tháng giêng 1992. Xã hội với tư cách là một chỉnh thể vẫn được bảo toàn, và đồng thời một sự thống nhất nào đó về lợi ích vẫn còn, và đó là cơ sở bùng nổ các xung đột.
Xung đột xã hội. Cho đến nay, chúng ta mới xem xét xung đột “nói chung”.. Xung đột có thể gọi là xung đột “về mặt xã hội” nếu như vẫn giữ được ý nghĩa cơ bản của thuật ngữ này, nó đồng nghĩa với thuật ngữ “xung đột của xã hội”. Trong trường hợp này bất kỳ cuộc xung đột nào giữa con người với nhau đều là xung đột xã hội. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ, khái niệm “xã hội” ngay từ thế kỷ thứ XIX có nghĩa khác, hẹp hơn. Công nhân của Paris nổi dậy khởi nghĩa vào năm 1848 họ đã đề ra yêu cầu phải có một cuộc cách mạng xã hội, không chỉ dừng lại ở việc thiết lập sự bình đẳng chính trị, mà còn phải đảm bảo được sự công bằng xã hội, tuy sự công bằng đó được Proudon và Balanc giải thích theo các cách khác nhau. Marx và Engels đã dùng từ này theo nghĩa lúc ấy, “Tuyên ngôn cộng sản” đã xuất hiện ngay trước khi xảy ra cách mạng. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán kinh tế học chính trị” (1859) Marx quan niệm cách mạng xã hội là cuộc cách mạng làm thay đổi tận gốc rễ chế độ kinh tế của xã hội, thành phần giai cấp của nó, đánh dấu sự quá độ từ một hình thái xã hội này sang một hình thái xã hội khác. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là dạng của cách mạng xã hội. Trong lời nhuận xét chủ chốt của Marx: “Phương thức sản xuất ra đời sống vật chất quyết định các quá trình xã hội, chính trị và tinh thần của đời sống nói chung” – cái xã hội rõ ràng được tách ra khỏi cái kinh tế, cái chính trị và cái tinh thần.
Có rất nhiều cách lý giải giáo điều về mối liên hệ các kiểu quan hệ xã hội trên sách báo khoa học Xô viết. Việc phân tích các quan điểm khác nhau đã được trình bày trong một trong những công trình của chúng tôi, ở đây chúng tôi sẽ chỉ nêu lên thực chất. Các quan hệ xã hội theo Marx (và trong sách báo marxist sau này), – là các quan hệ giữa các tập đoàn người, trước hết giữa các giai cấp. Các quan hệ này không được đặt cùng hàng với các quan hệ kinh tế, chính trị, tinh thần, mà là một “lát cắt”, một “khía cạnh”, một “hợp phần” quan trọng nhất của chúng. Chính với nghĩa đó, khái niệm này, khi kết hợp với khái niệm “xung đột”, có nghĩa là xung đột giữa các tập đoàn xã hội các kiểu nói chung.
Xung đột xã hội là đối tượng nghiên cứu xã hội học lý luận, nó thường được định nghĩa là “khoa học về các cộng đồng xã hội, về các cơ chế hình thành, vận hành và, phát triển chúng”. Các cộng đồng như vậy được hiểu trước hết là các tập đoàn xã hội lớn bên trong một cấu thể tộc người hay một cấu thể nhà nước dân tộc, cũng như chính các cấu thể đó. Vì thế, xung đột giữa các cá thể và các tập đoàn xã hội nhỏ nằm ngoài phạm vi đó, chúng thuộc trước hết về tâm lý học, và ở một mức độ nhất định, thuộc luật học, bởi vì chúng phá vỡ các chuẩn mực của lĩnh vực này.
Tất nhiên, ở đây không có ranh giới tuyệt đối. Chúng ta hãy xét ba trường hợp có tính giáp ranh. Trường hợp thứ nhất rất rõ: Xung đột giữa các giai cấp biểu hiện qua sự đối lập giữa chủ xí nghiệp với người công nhân bị sa thải. Nếu như anh ta không vi phạm nội quy và thực hiện tốt các nhiệm vụ sản xuất, thì sự đối lập đó được chuyển thành quan hệ giữa nhà kinh doanh và nghiệp đoàn và do đó sự đối lập này có các nét xung đột giai cấp. Tương tự điều này, cuộc chiến đấu giữa hai người lính trên chiến trường là một phần của cuộc xung đột chung hơn giữa các quốc gia đang giao chiến với nhau… Theo quan điểm của chúng tôi, những chỉ dẫn phương pháp hệ mà các nhà tâm lý học đưa ra để phân tích những tình huống xung đột có tính chất giữa các cá nhân với nhau và những tìm tòi để giải quyết các cuộc xung đột này (kể cả mục đích nhằm để giảng dạy cho sinh viên) có giá trị không nhỏ, nhưng rõ ràng chúng chưa bắc được “chiếc cầu nối” từ xung đột giữa các cá thể hay trong một nhóm nhỏ sang xung đột xã hội thực sự.
Tình huống thứ ba – cuộc xung đột ngay trong tâm hồn con người là dạng xung đột giữ vị trí trung tâm trong các học thuyết tôn giáo và trong nghệ thuật. Tính chất xã hội của nó được các phương hướng khác nhau trong tâm lý học nhấn mạnh. Chẳng hạn theo Freud, giữa các niềm ham muốn say mê của con người và các chuẩn mực xã hội hạn chế chúng, có xung đột và nó chi phối toàn bộ hành vi cá nhân. Do những chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử của xã hội ấy trong thời gian ấy là do chế độ xã hội quy định, xung đột này xét về căn bản là xung đột về mặt xã hội: các hình thức của nó được xác định bởi địa vị của tập đoàn trong hệ thống các quan hệ xã hội.
Luận điểm này được minh chứng rõ nét nhất qua văn học nghệ thuật, trong đó những tính cách và hành vi của các nhân vật là sự tập hợp các nét điển hình của các tầng lớp xã hội nhất định, và các đặc trưng cá tính cụ thể. Số phận của các nhân vật “Sông Đông êm đềm” Grigorij Malekhov, tên sĩ quan – địa chủ Lisnickij và đảng viên Bolsevich Bunchuk thể hiện quan hệ giữa các tập đoàn xã hội khác nhau trong những năm nội chiến, và cả trong những dao động nội tâm và trong những hoài nghi nội tâm của Grigorij cũng thể hiện bản chất xã hội hai mặt của Ca-dắc lao động.
(còn tiếp)
Người dịch: Triệu Thị Ánh
TĐB 94 – 24 & 25
Share this:
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…
Giao Tiếp Không Lời: Giao Tiếp Bằng Cả Ngôn Ngữ Của Cơ Thể
Chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của giao tiếp bằng lời nhưng những buổi diễn thuyết, bữa tiệc hay chỉ đơn thuần là các buổi nói chuyện sẽ trở nên kém hấp dẫn nếu như không có giao tiếp bằng cử chỉ.
Chỉ cần tinh tế một chút trong giao tiếp chúng ta sẽ nhận ra ngay chúng ta không chỉ giao tiếp bằng lời nói mà bằng cả ngôn ngữ của cơ thể.
Không phải lúc nào con người ta cũng có thể dùng lời nói để diễn đạt suy nghĩ của mình. Một chàng trai đã từng viết ” chỉ cần nắm tay, hai mắt gặp nhau và một nụ hôn nhẹ là đã có ý nghĩa với anh hơn cả ngàn lời nói “.
Phải đến thế kỉ 20 giao tiếp phi ngôn ngữ mới được quan tâm một cách thực sự. Giao tiếp phi ngôn ngữ là giao tiếp thông qua các cử chỉ hành động của cơ thể như nét mặt, cách nhìn, điệu bộ,và khoảng cách giao tiếp. Có rất nhiều học thuyết nghiên cứu về loại hình giao tiếp này nhưng nổi bật nhất vẫn là học thuyết tâm lí tinh thần và học thuyết hành vi cư xử.
Trong học thuyết tâm lí tinh thần các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người dù ở bất cứ một nền văn hoá nào cũng đều có sáu trạng thái tâm lí ( hạnh phúc, buồn khổ, giận dữ, sợ hãi, ghét, ngạc nhiên) và tất cả các trạng thái tâm lí đó đều do sự chi phối của não tạo ra những thay đổi trên mặt nhưng theo hai dạng là tự nhiên và xã giao có mục đích.
Trong một thử nghiệm về ảnh hưởng của não đến các nét mặt của con người, thực nghiệm đã cho thấy khi các cơ mặt bị tê liệt người ta không thể cười có mục đích ( như để tạo sự thân mật) nhưng vẫn có thể cười một cách tự nhiên khi có điều làm họ bất ngờ. Và ngược lại cũng có trường hợp một người có thể cười một cách xã giao nhưng lại không thể cười một cách thoải mái được.
Còn đối với học thuyết hành vi cư xử, các nhà khoa học lại cho thấy không có mối xúc cảm cơ bản cũng như không có các biểu hiện cơ bản mà đơn giản chỉ là những hành vi cư xử mang mục đích xã hội. Nét mặt chính là biểu hiện của những việc chúng ta muốn làm hay có ý định làm.
Có thể lấy ví dụ trạng thái tức giận ( như học thuyết tâm lí tinh thần đã nêu) chính là sự mô tả về hành vi sẵn sàng để tấn công đối thủ. Nhưng nói một cách khác, không phải lúc nào cử chỉ của con người cũng mang thông điệp hay chủ đích như vậy. Giả sử như chúng ta đang rất chăm chú đến chương trình biểu diễn nhưng bất chợt chúng ta ngáp, điều này lại khiến cho ban tổ chức nghĩ rằng chúng ta cảm thấy chán, buồn ngủ với nội dung chương trình.
Chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của giao tiếp bằng lời nhưng những buổi diễn thuyết, bữa tiệc hay chỉ đơn thuần là các buổi nói chuyện sẽ trở nên kém hấp dẫn nếu như không có giao tiếp bằng cử chỉ. Bạn mở đầu bài nói của mình bằng một cử chỉ hài hước thì chắc chắn không khí hội trường sẽ thay đổi và cơ hội thành công của bạn sẽ cao hơn.
Trong một nghiên cứu mới đây, có đến 90% sự mở đầu của các bài diễn thuyết có kèm điệu bộ của cơ thể. Mỗi điệu bộ này lại có ý nghĩa rất phong phú. Riêng tư thế của đầu đã bao hàm các dấu hiệu của sự đồng thuận hay không hoặc cũng có thể thay cho các từ như rất ” nhiều“, ” sẵn sàng“, ” tất cả mọi người” hay ” tất cả mọi thứ “. Trên thực tế, chính từ ngữ và điệu bộ đã cùng tạo nên nghĩa của câu.
Giao tiếp phi ngôn ngữ chính là một cách để những người không có khả năng nói giao tiếp với cuộc sống bên ngoài. Họ dùng tay và các hành động của cơ thể để trao đổi thông tin và tình cảm của mình. Họ không còn thấy tự ti và mở rộng lòng mình hơn với mọi người.
Giao tiếp phi ngôn ngữ đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong cuộc sống của con người. Chúng giúp cho giao tiếp của chúng ta thêm hoàn thiện và phong phú. Nếu nắm bắt được những chi tiết của cuộc sống, sẽ chẳng có ai coi thường, phớt lờ những nét mặt, ánh mắt hay điệu bộ của người khác. Mỗi hành vi xã hội đều được dạy và được học, hãy nắm bắt nó như một kĩ năng sống.
Cuộc sống của chúng ta là những quá trình tìm tòi và học hỏi. Không chỉ có những điều lớn lao mới nên tiếp thu mà hãy nên bắt đầu từ những điều nhỏ bé mà quan trọng. Hãy nhìn cuộc sống xung quanh một cách kĩ lưỡng hơn đi bạn sẽ nhận thấy mình biết được những gì.
Theo Doanh Nhân Sài Gòn.
Cập nhật thông tin chi tiết về Giao Tiếp Xã Hội – Phần I trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!