Bạn đang xem bài viết Giá Trị Gia Đình Từ Tiếp Cận Lý Thuyết Và Một Số Vấn Đề Đặt Ra Với Việt Nam Trong Bối Cảnh Xã Hội Đang Chuyển Đổi* được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trang chủ
»
Nghiên cứu Khoa học Xã hội Và Nhân Văn
Giá trị gia đình từ tiếp cận lý thuyết và một số vấn đề đặt ra với Việt Nam trong bối cảnh xã hội đang chuyển đổi*
Trần Thị Minh Thi*
Tóm tắt:
Gia đình là một thiết chế xã hội quan trọng. Trong những thập niên vừa qua, ở nhiều quốc gia trên thế giới, thiết chế gia đình đã và đang có những biến đổi về cấu trúc – chức năng, trong đó cần kể đến sự thay đổi đáng kể về khía cạnh giá trị gia đình. Bài viết tập trung phân tích giá trị gia đình từ các cách tiếp cận lý thuyết, cũng như xem xét cách tiếp cận lý thuyết về giá trị gia đình ở Việt Nam trong bối cảnh xã hội đang chuyển đổi nhanh chóng. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị gia đình có thể được nhìn nhận từ nhiều chiều cạnh như: truyền thống và hiện đại, tính cá nhân và tính tập thể, bình đẳng giới và chế độ gia trưởng… đặc biệt là khía cạnh hôn nhân và mối quan hệ gia đình. Các giá trị gia đình cũng chịu tác động của nhiều nhân tố mang tính cấu trúc như các đặc điểm nhân khẩu xã hội cá nhân và các đặc điểm cấu trúc của gia đình, đặt trong bối cảnh của những thay đổi về chính sách, văn hóa và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Gia đình; Giá trị gia đình; Tiếp cận lý thuyết; Gia đình Việt Nam.
1.Khái niệm
Gia đình là một thiết chế xã hội quan trọng, ảnh hưởng đến các quá trình chính trị, kinh tế, xã hội nói chung. Trong những thập niên qua, gia đình ở nhiều quốc gia trên thế giới đã có những thay đổi như sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ trong kinh tế, chính trị; giảm sinh, tăng tỷ lệ ly hôn và sống chung không kết hôn và đặc biệt là nhiều giá trị gia đình đang có những biến đổi nhanh chóng. Thiết chế xã hội này mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các quốc gia châu Á. Với ảnh hưởng của Khổng giáo, thời kỳ chiến tranh, và vai trò lãnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa, gia đình Việt Nam mang cả những đặc điểm tương đồng với các quốc gia có nền tảng văn hóa tương đồng và cả những đặc trưng riêng có.
Rokeach (1973) cũng đưa ra một định nghĩa khác về giá trị, ít được trích dẫn hơn nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình hình thành giá trị của con người: “Giá trị là sự đại diện và truyền tải nhận thức của những nhu cầu (Rokeach, 1973:20). Có nghĩa là, những gì quan trọng với con người trong cuộc sống phụ thuộc vào việc họ cần điều gì. Giá trị không đơn thuần là cấu trúc nhận thức mà còn bắt nguồn từ nhu cầu.
Rokeach (1979) nhấn mạnh giá trị đi theo thứ bậc ưu tiên, và mỗi giá trị có mối tương quan chặt chẽ với một hệ thống phức tạp các niềm tin và thái độ. Vì thế, hệ thống niềm tin có thể tương đối bền vững, nhưng sự biến đổi một giá trị có thể dẫn đến sự thay đổi của những giá trị khác và trong cả xã hội nói chung. Cá nhân thường có xu hướng duy trì một quan điểm nhất quán, phản ánh chuẩn mực đạo đức và quyền hạn của họ. Khi hành động hay niềm tin của họ mâu thuẫn với tự nhận thức này, cá nhân cảm thấy thất vọng và có thể thay đổi nhằm điều chỉnh hành vi hay niềm tin theo đúng nhận thức đã có. Nội dung, cấu trúc, và tổ chức hệ giá trị con người có sự ổn định tương đối về văn hóa giữa các quốc gia (Schwartz, 1992, 1996), có nghĩa là giá trị có thể thống nhất và mâu thuẫn theo các xã hội và nền văn hóa.
Một trong những tác giả có ảnh hưởng lớn đến các xu hướng nghiên cứu về giá trị trên thế giới gần đây là Schwartz. Theo Schwartz, việc phân biệt giá trị này với giá trị kia phụ thuộc vào mục tiêu và động lực mà nó thể hiện. Lý thuyết giá trị (Schwartz, 1992, 2006) đưa ra khái niệm giá trị với 6 đặc trưng chính được thể hiện như sau:
Giá trị là niềm tin được kết nối chặt chẽ với mức độ ảnh hưởng. Khi giá trị được hình thành, chúng trở thành những cảm nhận, tình cảm. Những người cho độc lập là một giá trị quan trọng sẽ tức giận khi độc lập của họ bị đe họa, ảnh hưởng khi họ không thể bảo vệ giá trị đó, và sẽ hạnh phúc khi có nó.
Giá trị là những mục tiêu mong ước làm động lực cho hành động. Những người coi trật tự xã hội, công bằng, và có ích là những giá trị quan trọng thì sẽ có động lực để đạt những mục tiêu này.
Giá trị vượt lên trên các hành vi cụ thể hay bối cảnh cụ thể. Sự vâng lời, lòng trung thực, ví dụ, có thể được mong đợi ở nơi làm việc, ở trường học, trong kinh doanh cũng như chính trị, với bạn bè cũng như người lạ. Đặc trưng này phân biệt giá trị với những tập quán và thái độ mà thường chỉ những hành động, mục tiêu hay hoàn cảnh cụ thể.
Giá trị đóng vai trò chuẩn mực hay tiêu chuẩn. Giá trị hướng dẫn việc lựa chọn và đánh giá hành vi, chính sách, con người và sự kiện. Con người quyết đinh cái gì là tốt và cái gì là xâu, chính đáng và không chính đáng, đáng làm và nên từ bỏ, dự trên những hệ quả có thể xảy ra của những giá trị. Những anh hướng của giá trị trong các quyết định hàng ngày là khá rõ nét. Giá trị đưa vào nhận thức khi các hành động hay đánh giá được cho là có những tác động mãu thuân với những giá trị mà người đó yêu mến.
Giá trị có trật tự theo mức độ quan trọng. Giá trị của con người hình thành nên một hệ thống trật tự các ưu tiên theo từng đặc điểm cá nhân. Trật tự thứ bậc này của giá trị cũng góp phần phân biệt giá trị với phong tục hay thái độ.
2.Lý thuyết hiện đại hóa và biến đổi gia đình
Trong thập niên vừa qua, lý thuyết hiện đại hóa thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Trong đó, quan điểm của Inglehart coi hiện đại hóa là quá trình biến đổi xã hội gắn liên với công nghiệp hóa (Inglehart và Welzel, 2009) là có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay. Quan điểm chính của lý thuyết này là việc phát triển kinh tế và công nghệ gắn liền với những biến đổi từ các giá trị và phong tục cũ sang một xu hướng hợp lý, khoan dung, tin cậy và có sự tham gia hơn, tạo nên sự thay đổi về chính trị-xã hội (Inglehart &Baker, 2000).
Một khái niệm trung tâm và quan trọng của lý thuyết hiện đại hóa là công nghiệp hóa tạo ra những hệ quả xã hội và văn hóa, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực xã hội. Ví dụ, công nghiệp hóa tạo ra những thành tựu văn hóa xã hội như tăng trình độ học vấn, thay đổi vai trò giới. Công nghiệp hóa được xem như một thành tố chính của quá trình hiện đại hóa, ảnh hưởng đến các thành tố của đời sống xã hội. Một cách ngắn gọn, các nhà nghiên cứu tin rằng phát triển kinh tế gắn liền sau nó những hệ quả văn hóa, chính trị được dự báo trước và mang tính hệ thống (Inglehart and Baker, 2000). Phát triển kinh tế đưa các xã hội vào một định hướng khá rõ ràng, theo đó, công nghiệp hóa dẫn đến chuyên môn hóa nghề nghiệp, tăng trình độ học vấn, thu nhập, và cuối cùng là mang lại những thay đổi xã hội, chẳng hạn như những thay đổi về vai trò, thái độ về quyền lực và tình dục, giảm mức sinh, sự tham gia chính trị rộng rãi, v.v…(Inglehart, 1997; 2008; Inglehart and Baker,2000).
Những khía cạnh chính yếu nhất của quá trình hiện đại hóa bao gồm một số đặc trưng cơ bản như sự hình thành của những giá trị đặc trưng của hiện đại như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa thực dụng.Những thay đổi nhân khẩu học làm thay đổi tận gốc những lối sống từ thế hệ trước và sự tập trung của dân cư đô thị với sự phân công theo chức năng phức tạp, đa dạng văn hóa, và không đồng nhất. Việc tư nhân hóa của cuộc sống gia đình, cách biệt nó khỏi những kiểm soát xã hội của cộng đồng, tách biệt môi trường làm việc và gia đình, và phụ nữ đã được tự do hơn khỏi chế độ gia trưởng. Nói cách khác, tính cá nhân đã thống trị trước tính cộng đồng và tập thể.
Sự chuyển đổi kinh tế, xã hội và chính trị vừa ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của môi trường văn hóa. Các giả định cơ bản của lý thuyết hiện đại hoá là có một xã hội truyền thống trải qua sự phát triển đến một giai đoạn mới của nhà nước phát triển, với nhiều chỉ báo của giá trị phương Tây và chủ nghĩa vật chất.
Lý thuyết hiện đại hóa tìm hiểu sự thay đổi về các đặc điểm của cá nhân với những thay đổi của gia đình và xã hội bên ngoài nhưng dường như không dự đoán được các đặc điểm của các gia đình đương đại (Barbieri and Belanger, 2009). Các gia đình hiện đại, với những đặc trưng là tính cá nhân cao, vị thế phụ nữ tăng lên, hôn nhân tự do tự nguyện, sự độc lập của thế hệ trẻ cao, quy mô gia đình nhỏ mức sinh thấp; và xã hội hiện đại, với những đặc điểm là công nghiệp hóa, đô thị hóa, trình độ học vấn cao, công nghệ cao (Thornton, 2001[U1] ); không chỉ được lý giải đơn thuần bởi lý thuyết hiện đại hóa. Những thay đổi xã hội tạo nên biến đổi gia đình, và biến đổi gia đình tạo nên những biến đổi của xã hội.
Những thay đổi về hôn nhân, gia đình và ly hôn được cho là có quan hệ chặt chẽ với quá trình hiện đại hóa. Ví dụ, các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng, hiện đại hóa dường như có hai tác động trái ngược nhau đến ly hôn. Sự phát triển kinh tế, cùng với hiện đại hóa và đô thị hóa, trong một giai đoạn ban đầu có thể làm giảm ly hôn trước khi góp phần làm tăng ly hôn ở những giai đoạn hiện đại hóa sau. Những thay đổi xã hội đi cùng với hiện đại hóa làm giảm ly hôn bao gồm hôn nhân tự nguyện, tình yêu, tăng tuổi kết hôn, mở rộng cơ hội giáo dục (Goode 1963, 1971, 1993; Hirschman and Teerawichitchainan, 2003; John, 2003, 1997; Lee, 1982). Tuy nhiên các nhà lý thuyết chỉ rõ, xét về lâu dài, xu hướng phát triển đồng đều trong quá trình hiện đại hóa và sự suy giảm của chế độ gia trưởng sẽ mang tác động ngược lại. Goode (1963 and 1993) khẳng định rằng hiện đại hóa là nguyên nhân sâu xa của tỷ lệ ly hôn tăng. Vị thế phụ nữ, trao quyền cho phụ nữ tăng lên tạo ra những môi trường văn hóa xã hội làm cho ly hôn trở nên dễ dàng và được chấp nhận hơn. Sự độc lập về kinh tế của phụ nữ, quy mô gia đình nhỏ hơn, những tư tưởng về sự chủ động trong cuộc sống có thể làm cho các mối quan hệ trở nên kém bền vững hơn. Công nghiệp hóa có thể làm giảm quy mô gia đình, vì thế, làm tăng khả năng ly hôn, vì nó giúp tăng vị trí độc lập xã hội của phụ nữ. Những hôn nhân hiện đại dựa trên tình yêu và cảm xúc có thể ít bền vững hơn những hôn nhân dựa trên những mối quan hệ kinh tế xã hội. Những định kiến hay kỳ thị về ly hôn giảm dần và đến lượt nó làm tăng mức độ ly hôn ở xã hội.
Ngoài những tác động của hiện đại hóa, các giá trị truyền thống và phong tục về hôn nhân và gia đình cũng góp phần quan trọng hình thành nên những khuôn mẫu chuẩn mực mới. Những yếu tố này có thể điều chỉnh những tác động của hiện đại hóa đến hôn nhân và gia đình ở nhiều xã hội. Việc bảo lưu những giá trị truyền thống trong quá trình hiện đại hóa là quan trọng trong bảo vệ hệ thống gia đình khỏi những áp lực của hiện đại hóa (Cho and Yada, 1994).
Tuy nhiên, với trình độ giáo dục ngày càng tăng, các cơ hội việc làm nhiều hơn với phụ nữ, quan điểm về kết hôn muộn hay phụ nữ làm việc trở nên bao dung hơn, vai trò giới theo truyền thống trong hôn nhân dường như đã trở nên lỗi thời. Lý tưởng giới tác động đến quan hệ quyền lực vợ chồng trong hôn nhân trên nhiều phương diện khác nhau. Nhiều phụ nữ ngày nay thích sự độc lập về xã hội và kinh tế mà họ đạt được từ công bằng giới trong giáo dục và thị trường lao động.
3.Lý thuyết biến đổi văn hóa và duy trì giá trị truyền thống
Hiện đại hóa có mối quan hệ chặt chẽ với biến đổi văn hóa. Mối quan hệ này được giải thích trên nhiều tiếp cận khác nhau. Một trường phái nhấn mạnh sự hội tụ của các giá trị như là kết quả của hiện đại hóa, hay những nguồn lực kinh tế chính trị dẫn đến thay đổi văn hóa. Theo đó, trong quá trình hiện đại hóa, những giá trị truyền thống bị suy giảm và được thay bằng những giá trị hiện đại.
Những xã hội chịu ảnh hưởng mạnh của các giá trị truyền thống thường cho thấy mức độ chấp nhận thấp với một số hiện tượng như nạo hút thai, li hôn, tình dục đồng giới, không chăm sóc cha mẹ, không quan tâm đến con cái. Vai trò truyền thống khuyến khích mọi người kết hôn. Các cặp vợ chồng có quan điểm truyền thống luôn có kế hoạch để có con sớm sau khi kết hôn, v.v. Trong truyền thống, tính tập thể, tính cộng đồng là khá rõ nét. Mục tiêu chính của xã hội truyền thống là làm cha mẹ tự hào về bản thân – cá nhân phải luôn yêu thương, tôn trọng cha mẹ, bất kể họ cư xử như thế nào. Ngược lại, cha mẹ phải có trách nhiệm làm hết sức vì con cái dù có phải vất vả thế nào. Con người trong các xã hội truyền thống thích gia đình quy mô lớn (Inglehart & Baker, 2000; Tarkhnishvili & Tevzadze, 2013). Nhìn chung, có thể nói rằng, xã hội này có xu hướng ưa chuộng các hình thức quản trị mang tính quyền lực, thứ bậc và rất chú trọng và quan tâm tới đời sống tâm linh, tôn giáo (Tarkhnishvili & Tevzadze, 2013).
Trong xã hội hiện đại, sự biến đổi giá trị diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, vai trò của người cao tuổi đã giảm sút, ngay cả ở những quốc gia có nền tảng Nho giáo coi trọng đạo hiếu như Hàn Quốc (Inglehart, 1997).
Bên cạnh đó, có trường phái khác nhấn mạnh sự bền vững của các giá trị truyền thống dưới tác động của thay đổi kinh tế, chính trị. Trường phái này cho rằng các giá trị phụ thuộc một cách tương đối vào các điều kiện kinh tế (Inglehart, 1997; Haller, 2002; Tarkhnishvili and Tevzadze, 2013). Theo đó, khó có thể có sự thống trị hoàn toàn của hệ giá trị hiện đại, mà các giá trị truyền thống sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến biến đổi văn hóa dưới tác động của phát triển kinh tế. Những di sản văn hóa lớn của xã hội như Khổng giáo, Thiên chúa giáo, v.v. để lại những dấu ấn giá trị khá vững bền ngay cả trong hiện đại hóa. Mặc dù chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng Nho giáo chi phối khá rõ nét các mối quan hệ gia đình, cộng đồng và nhà nước, ví dụ như quan điểm coi trọng nam giới trong khi phụ nữ ở vị thế thấp kém. Hơn nữa, những khác biệt về giá trị của các cá nhân thuộc các nhóm nhỏ trong xã hội thường nhỏ hơn các khác biệt giá trị liên quốc gia. Một khi đã được hình thành, những khác biệt liên văn hóa trở thành nền văn hóa của dân tộc được nền giáo dục và truyền thông truyền tải (Inglehart & Baker, 2000).
Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh, sự thay đổi văn hóa không diễn ra theo đường thẳng. Theo Inglehart và Baker (2000), khi quá trình công nghiệp hóa được gắn liền với tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, các xã hội sẽ dần quan tâm đến chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường, và những giá trị tự thể hiện bản ngã. Nói cách khác, sẽ xuất hiện những hệ quả an sinh xã hội của phát triển kinh tế.
4.Lý thuyết về giá trị gia đình
Giá trị gia đình và các mối quan hệ gia đình là thiết chế quan trọng. Các quyết định kinh tế, vốn đầu tư con người, thị trường lao động, thị trường tín dụng, chẳng hạn như loại hình công việc, tiền lương và cơ hội nghề nghiệp, sở hữu nhà ở và tài sản tài chính – được diễn ra trong gia đình và phụ thuộc rất nhiều vào giá trị gia đình.
Mặc dù trong vài thập kỷ qua, ở nhiều xã hội đã chứng kiến nhiều thay đổi trong gia đình về quy mô, chức năng, các mối quan hệ trong gia đình, và các giá trị gia đình; thì gia đình vẫn là một thiết chế, là cốt lõi của hầu hết các hoạt động kinh tế và xã hội. Ở nhiều xã hội, nhất là những xã hội đang trong thời kỳ chuyển đổi từ truyền thống đến hiện đại, từ nông nghiệp sang công nghiệp, gia đình là một thiết chế được tin là chịu ảnh hưởng lớn từ thay đổi xã hội. Nói cách khác, gia đình đang thay đổi mạnh mẽ trên mọi phương diện.
Điểm đặc trưng trong sự biến đổi giá trị về các quan hệ gia đình chính là những thay đổi căn bản về vai trò giới trong phân công lao động trong gia đình. Xu hướng phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động và nam giới chia sẻ làm việc nhà đang tăng lên. Những thay đổi về cách ứng xử của nam giới và phụ nữ ở nhà và nơi làm việc đã có tác động đến đời sống gia đình nói chung và hệ giá trị quan hệ vợ chồng nói riêng. Khi độc lập về kinh tế, người phụ nữ có nhiều lựa chọn cho cuộc sống cá nhân mình hơn: kết hôn, kết hôn và làm mẹ, sống một mình, làm mẹ đơn thân, hoặc theo đuổi sự nghiệp cá nhân. Mối quan hệ vợ chồng cũng thay đổi khi người phụ nữ phải cố gắng để cân bằng giữa đời sống gia đình và công việc. Điều này có nghĩa là họ phải đối mặt với những vai trò mới trong hôn nhân, hoàn toàn khác xa với mô hình hôn nhân truyền thống. Điều đó đòi hỏi những người phụ nữ này có những chiến lược phù hợp để giải quyết xung đột trong hôn nhân nhằm duy trì chất lượng và sự bền vững của cuộc hôn nhân (Rhoden, 2003).
Chẳng hạn, một khảo sát ở Australia năm 1989 cho thấy đã có sự thay đổi về quan niệm đối với việc đi làm bên ngoài của phụ nữ. Theo quan điểm trước đây thì gia đình và người con nhỏ sẽ chịu những thiệt thòi nếu người mẹ đi làm kiếm tiền bên ngoài. Tuy nhiên, kết quả điều tra chỉ ra rằng, mặc dù vẫn còn một bộ phận đáng kể người Australia cho rằng khó mà nuôi con nhỏ tốt nếu cả cha và mẹ đều đi làm cả ngày, phần lớn người trả lời khẳng định mối liên hệ tình cảm, tình yêu thương với con cái sẽ không bị ảnh hưởng nếu người mẹ đi làm (Vandenheuvel, 1991).
Những thay đổi về niềm tin đối với cách ứng xử của nam giới và phụ nữ ở nhà và nơi làm việc đã có tác động đến đời sống gia đình. Hôn nhân là một thiết chế truyền thống nên người ta cho rằng thái độ đối với vai trò giới sẽ ảnh hưởng đến khả năng kết hôn. Becker[U2] (1991) cho rằng vai trò truyền thống khuyến khích mọi người kết hôn. Phụ nữ và nam giới theo quan điểm truyền thống cũng muốn có con. Các cặp vợ chồng có quan điểm truyền thống luôn có kế hoạch để có con sớm sau khi kết hôn. Ngược lại, những người có quan điểm giới cởi mở hơn thường ít có áp lực sinh con hơn so với những người có quan điểm truyền thống (Kaufman, 2000).[U3]
Các lý thuyết về giới đề cập đến quan hệ xã hội của nữ giới và nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mối quan hệ đó thể hiện ở vai trò với những chức năng và nhiệm vụ nhất định của nam và nữ trong đời sống gia đình và xã hội. Sự phân công vai trò xuất phát từ sự thuận lợi về mặt sinh học và sự phân công của xã hội. Ngoài ra phân công lao động theo giới còn gắn liền với các giá trị và chuẩn mực xã hội, đặc trưng về văn hóa và thích nghi với những thay đổi của điều kiện gia đình. Vì vậy, việc đảm bảo cho hai giới có những cơ hội và điều kiện thực hiện các chức năng của mình chính là cơ sở của công bằng xã hội và hiệu quả xã hội.
5.Hiện đại “rút ngắn” ở Việt Nam
Xã hội Việt nam truyền thống thường chỉ giai đoan phong kiến thuộc địa trước năm 1945 và xã hội Việt Nam hiện đại thường chỉ quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một nền hiện đại “rút ngắn”, vì không chỉ mang đặc điểm là bỏ qua một giai đoạn phát triển trong lịch sử, là chủ nghĩa tư bản, mà còn chỉ những đặc điểm cơ bản của hiện đại hóa và công nghiệp hóa ở Việt Nam, là chiến lược “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian, một quá trình chuyển đổi nhanh từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và tận dụng lợi thế của “người đi sau” để phát triển nền kinh tế xã hội. Trong một thời gian khá dài, tốc độ hiện đại hóa và công nghiệp hóa của Việt Nam bị chậm lại do chiến tranh và khủng hoảng kinh tế xã hội đầu những năm 1980, và quá trình này đã được đẩy nhanh và mạnh hơn từ sau đổi mới năm 1986. Cụm từ công nghiệp hóa và hiện đại hóa trở thành một khái niệm phổ biến và quen thuộc trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cũng nhưng trong các phương tiện truyền thông đại chúng (Trần Thị Minh Thi, 2014).
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hình thành và điều chỉnh những khuôn mẫu hôn nhân và gia đình bằng việc ban hành những văn bản pháp luật và những chính sách phát triển kinh tế xã hội. Luật pháp, quy định, các phong trào xã hội, các chiến dịch tuyên truyền về hôn nhân đã trực tiếp tác động đến hành vi hôn nhân của cá nhân, trong khi các chính sách kinh tế xã hội có những tác động gián tiếp. Các yếu tố hiện đại hóa ảnh hưởng đến khuôn mẫu hôn nhân và li hôn chủ yếu thông qua sự phát triển kinh tế, phát triển hệ thống giáo dục và việc làm, giao lưu văn hóa dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế (Trần Thị Minh Thi, 2014).
Quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam đang chứng kiến sự duy trì của những giá trị truyền thống và sự xuất hiện của những giá trị hiện đại mới (Trịnh Duy Luân và cộng sự, 2011). Từ cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội đầu năm 1980 đến Đổi mới sang nền kinh tế thị trường và chính sách mở cửa những năm cuối 1980, những chính sách của nhà nước với gia đình đã thích nghi với những quá trình tồn tại và thỏa hiệp trong đó gia đình trải qua những chuyển biến quan trọng làm thay đổi các mối quan hệ và hành vi của gia đình, trong đó, gia đình vừa thay đổi,vừa bảo lưu các giá trị cũ. Trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình, dòng họ, quá trình hiện đại hóa bao gồm cả việc duy trì những giá trị truyền thống và sự xuất hiện của những giá trị mới. Nói cách khác, gia đình, như một đơn vị xã hội cơ bản của xã hội Việt Nam, đang trong giai đoạn chuyển đổi, có nghĩa là gia đình phải điều chỉnh, thích nghi, tương thích, và làm quen với những bối cảnh và đặc điểm mới của cuộc sống (Barbieri and Belanger, 2009). Chẳng hạn, gia đình hạt nhân đang tăng lên trong khi gia đình mở rộng cũng không mất đi hoàn toàn.
6.Tiếp cận lí thuyết về giá trị gia đình ở Việt Nam
Các nghiên cứu về giá trị gia đình Việt Nam đã được đề cập tương đối sớm và nằm rải rác trong các nghiên cứu, khảo sát về hôn nhân, gia đình Việt Nam theo từng thời kỳ khác nhau. Hôn nhân và gia đình Việt Nam đang trải qua sự chuyển đổi quan trọng, từ mô hình truyền thống đến những đặc điểm hiện đại và cởi mở hơn.
Gia đình Việt Nam thường được chia làm hai dạng cơ bản: gia đình truyền thống và gia đình hiện đại. Gia đình truyền thống là một cụm từ khá quen thuộc, chỉ những kiểu gia đình trong thời kỳ phong kiên, khoảng trước 1950. Hôn nhân gia đình hiện đại bắt đầu xuất hiện từ năm 1959, với sự ra đời của bộ luật đầu tiên về hôn nhân gia đình, với những đặc trưng như bình đẳng giới và hôn nhân tự nguyện.
Ở Việt Nam, hiện đại hóa là một quá trình biến đổi xã hội từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, để đạt được những tăng trưởng và phát triển kinh tế, để cải cách thể chế và cấu trúc xã hội hướng tới một nền kinh tế xã hội phát triển, đã làm tăng tự do cá nhân. Hiểu khái niệm về tính tập thể, tính cộng đồng (collectivism)] và tính cá nhân (individualism) trong tương quan với gia đình và hiện đại hóa là hết sức cần thiết trong việc lý giải những hành vi hôn nhân, gia đình và ly hôn ở Việt Nam. Gia đình là một đơn vị cơ bản của xã hội Việt nam và là trung tâm của các mối quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng và nhà nước. Văn hóa tập thể của Việt nam có nguồn gốc từ hệ tư tưởng Nho giáo, vốn coi trọng gia đình và cộng đồng. Khái niệm tập thể trong hầu hết các khía cạnh đời sống được đẩy lên cao hơn trong nhiều thế hệ do nhu cầu cần có sức mạnh và ý chí tập thể trong cuộc kháng chiến gian khổ dành độc lập và tự do dân tộc trong nhiều thập kỷ. Theo Đỗ Long và Phan Thị Mai Hương (2002), mặc dù có những tương tác văn hóa với những dân tộc khác, tính tập thể vẫn trội hơn tính cá nhân ở người Việt nam so với nhiều dân tộc khác, tính tập thể của phụ nữ cao hơn nam giới, cho dù hệ thống giá trị và hành vi của người Việt khác nhau trong từng hoàn cảnh và trong từng nền văn hóa của mỗi dân tộc.
Tính cá nhân là một chiều cạnh so sánh văn hóa với chủ nghĩa gia đình. Nền tảng cơ bản của tính cá nhân nằm ở chỗ quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân. Mưu cầu này cần có sự tự do, chủ động, và tự chịu trách nhiệm. Về mặt chính trị, tính cá nhân thực sự là nhận ra mỗi người có quyền có cuộc sống và hạnh phúc riêng. Nhưng điều đó cũng có nghĩa kết hợp với những cá nhân khác để đấu tranh và bảo vệ các thể chế cho phép quyền đó. Tính cá nhân đánh giá cao sự độc lập, riêng tư và tôn trọng người khác. Tính cá nhân coi mỗi người như một cá thể độc lập, một thực tế tối cao chiếm hữu quyền không thể chuyển nhượng với chính cuộc sống của mình, quyền được sống một cách hợp lý theo lẽ tự nhiên. Trong một nền văn hóa đề cao tính cá nhân, gia đình trở nên mờ hơn vì không còn giữ vị trí trung tâm và nhiều chức năng của gia đình đã bị mất đi. Gia đình hiện đại, cũng từ bỏ nhiều chức năng vốn được hình thành trước đây (Trần Thị Minh Thi, 2014, 2015).
Thể chế và nhà nước thiết lập lại những khuôn mẫu gia đình để phù hợp với những bối cảnh chính trị và kinh tế. Với Việt Nam, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho thấy những biện pháp khác nhau mà nhà nước thực hiện để tái cấu trúc các hình thức gia đình, quan hệ gia đình và chức năng gia đình trong quá trình thay đổi và phát triển xã hội.
Những đổi thay trong giá trị và chuẩn mực đã tác động mạnh mẽ đến thái độ và cách ứng xử của mỗi cá nhân trong xã hội ngày nay. Ví dụ, theo truyền thống văn hóa Việt Nam, ly hôn không được khuyến khích, thậm chí bị hạn chế. Hiện nay, ly hôn đang tăng lên nhanh chóng sau Đổi mới từ cuối những năm 1980 với những nguyên do và hậu quả khác nhau. Việc tồn tại cùng lúc các mức độ khác nhau của các giá trị truyền thống và hiện đại trong bối cảnh cái mới chưa hoàn thiện và cái cũ chưa mất hoàn toàn là khuôn mẫu chung của nhiều khía cạnh hôn nhân và gia đình Việt Nam (Trần Thị Minh Thi, 2014).
Giá trị gia đình có thể được nhìn nhận từ chiều cạnh truyền thống và hiện đại, tính cá nhân và tính tập thể, bình đẳng giới và chế độ gia trưởng, v.v. trên một số khía cạnh như ý nghĩa của hôn nhân và gia đình; giá trị kinh tế (việc làm, sự giàu có, tài sản, v.v); giá trị con cái (số con, giới tính của con, ý nghĩa của việc có con, đạo hiếu, v.v); giá trị hạnh phúc (tình yêu, trinh tiết, sự chung thủy; sự quan tâm, tôn trọng, trách nhiệm và cam kết); giá trị của các mối quan hệ vợ chồng, người cao tuổi và con cháu, và tác động của các nhân tố mang tính cấu trúc như tuổi, giới tính, địa bàn cư trú, học vấn, nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc, mức sống, và các đặc điểm cấu trúc của gia đình, đặt trong bối cảnh của những thay đổi về chính sách, văn hóa và hội nhập quốc tế.
Tài liệu trích dẫn
Barbieri, Magali and Belanger Daniele. 2009. Reconfiguring Families in Contemporary Vietnam. Contemporary Issues in Asia and the Pacific. Stanford University Press.
Becker, G. S. 1991. A treatise on the family (enlarged ed.). Cambridge, MA: Harvard University Press White, L. (1991). Determinants of divorce: A review of research in the eighties. In A. BoothEd. Contemporary families: Looking forward, looking back (pp. 141-149). Minneapolis, MN: National Council on Family Relations.
Cho, Lee-Jay and Yada, Moto. 1994. Tradition and change in the Asian family. Honolulu: East West Center. University of Hawaii Press.
Đỗ Long, Phan Thị Mai Hương. 2002. Collectivism, Individualism and “the self” of the Vietnamese Today. Edited by. 316 pages, Hanoi: Chinh Tri Quoc Gia Publisher.
Goode, William J. 1971. “Family disorganization” Pp. 467-544 in Robert K. Merton and Robert Nisbet eds., Contemporary Social Problems 3rd ed.. New York: Harcourt Brace Jovanovich.
Goode, W.J. 1970. World Revolution and Family Patterns: New York; Free Press. Pp. 92-98
Goode, W.J. 1993. World Changes in Divorce Patterns. New Haven: Yale University Press.
Goode, William J. 1963. World Revolution and Family Patterns. New York: Free Press.
Haller, Max. 2002. Theory and Method in the Comparative Study of Values: Critique and Alternative to Inglehart. European Sociological Review, Vol.18, No.2, 2002.
Hechter, M. 1993. Values research in the social and behavioral sciences. In M. Hechter, L. Nadel, & R. E. Michod (Eds.), The origin of values (pp. 1–28). New York: Aldine de Gruyter.
Hirschman, C and Teerawichitchainan, Bussarawan. 2003. Cultural and Socioeconomic Influences on Divorce during Modernization: Southeast Asia: 1940s to 1960s. Population and Development Review, Vol. 29, No. 2, pp. 215-253
Homer, Pamela M. 1993. GeneticTransmission of human values: A cross-cultural investigation of generalization and reciprocal influence effects.Social, and General Psychology Monographs, Vol 119(3), Aug 1993, 343-367.
Inglehart and Welzel. 2009. Development and Democracy: What We Know about Modernization Today. Foreign Affairs, March, 2009
Inglehart, R. 1997. Modernization and Postmodernization: Cultural, Economic and Political Change in Societies. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Inglehart, Ronald F. 2000. Globalization and Postmodern Values. The Washington Quarterly, Vol.23, No.1, 2000.
Inglehart, Ronald F. 2008. Changing Values among Western Publics from 1970-2006. Western European Politics, Vol 31, Nos 1-2, pp.130-146, Routledge, 2008.
Inglehart, Ronald F. and Baker, Wayne E. 2000. Modernization, Cultural Change, and the Persistance of Traditional Values. American Sociological Review, Vol 65, Feb 2000.
Jones, G. W. 2003. The ‘Flight from Marriage’ in South-East and East Asia pp.14. Singapore: Asian MetaCentre for Population and Sustainable Development Analysis.
Jones, Gavin W. 1997. Modernization and Divorce: Contrasting Trends in Islamic Southeast Asia and the West. Population and Development Review, Vol. 23, No. 1, pp. 95-114.
Kaufman, G. (2000). Do Gender Role Attitudes Matter?: Family Formation and Dissolution Among Traditional and Egalitarian Men and Women. Journal of Family Issues, Vol21, pp.128-144.
Lee, Gary. 1982. Family Structure and Interaction: A Comparative Analysis 2nd ed.. Minneapolis: University of Minnesota Press.
Rhoden, J. L. (2003). Marital Cohesion, Flexibility, and Communication in the Marriages of Nontraditional and Traditional Women. The Family Journal: Conselling and Therapy for Couples and Families, Vol11, pp.248-256.
Rohan, M. J., & Zanna, M. P. 1996. Value transmission in families. In C. Seligman, J. M. Olson, & M. P. Zanna (Eds.), The Ontario symposium: The psychology of values (Vol. 8, pp. 253–276). Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates, Inc.
Rokeach, Milton (1973). The Nature of Human Values. New York: Free Press.
Rokeach, Milton 1979. Understanding Human Values: Individual and Societal, New York: Free Press.
Schwartz, S. H. 1992. Universals in the content and structure of values: Theory and empirical tests in 20 countries. In M. Zanna (Ed.), Advances in experimental social psychology (Vol. 25, pp. 1-65). New York: Academic Press
Schwartz, S. H. 2005. Basic human values: Their content and structure across countries. In A. Tamayo & J. B. Porto (Eds.), Valores e comportamento nas organizacões [Values and behavior in organizations] pp. 21-55. Petrópolis, Brazil: Vozes.
Schwartz, S. H. 2006. Value orientations: Measurement, antecedents and consequences across nations. In Jowell, R., Roberts, C., Fitzgerald, R. & Eva, G. (Eds.) Measuring attitudes cross-nationally – lessons from the European Social Survey (pp.169-203). London, UK: Sage.
Schwartz, S.H. 1996. Value priorities and behavior: Applying a theory of integrated value systems. In C. Seligman, J. M. Olson, & M. P. Zanna (Eds.), The psychology of values: The Ontario symposium (Vol. 8, pp. 1-24). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
Schwartz, Shalom H. 2012. An Over view of the Schwartz Theory of BasicValues. Online Readings in Psychology and Culture. http://dx.doi.org/10.9707/2307-0919.1116
Tarkhnishvili, Levan and Tevzadze, Gigi. 2013. Theoretical Aspects of World Value Survey: Main Principles, Challenges and Critics. Asian Social Science; Vol. 9, No. 11.
Thornton, Arland. 2001. The Development Paradigm: Reading History Sideways, and Family Change. Demography 38:449-465.
Trần Thị Minh Thi. 2014. “Một số tiếp cận lý thuyết về giá trị hiện nay”. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, Số 4.
Tran Thi Minh Thi. 2015. Divorce prevalence under the forces of individualism and collectivism in ‘shortcut’ modernity in Vietnam. In Atsufumi, Kato (ed). Weaving Women’s Spheres in Vietnam: The Agency of Women in Family, Religion and Community. Brill Publishers Asian Studies. The Netherlands.
Trịnh Duy Luân, Helle Rydstroom, and Wil Burhoorn (editors). 2011. Rural Families in Doimoi period, English and Vietnamese Edition. Publishing House of Social Sciences. 2011
Vandenheuvel, A. 1991. The Most Important Person in the World: A Look at Contemporary Family Values. Family Matters, pp.7-13.
* Viện Nghiên cứu gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới. Số 1,2017, tr33-45
Các tin đã đưa ngày:
Giá Trị Gia Đình Từ Tiếp Cận Lý Thuyết Và Một Số Vấn Đề Đặt Ra Với Việt Nam Trong Bối Cảnh Xã Hội Đang Chuyển Đổi
Trang chủ
»
Nghiên cứu Khoa học Xã hội Và Nhân Văn
Giá trị gia đình từ tiếp cận lý thuyết và một số vấn đề đặt ra với Việt Nam trong bối cảnh xã hội đang chuyển đổi
Trần Thị Minh Thi, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Tóm tắt:
Gia đình là một thiết chế xã hội quan trọng. Trong những thập niên vừa qua, ở nhiều quốc gia trên thế giới, thiết chế gia đình đã và đang có những biến đổi về cấu trúc – chức năng, trong đó cần kể đến sự thay đổi đáng kể về khía cạnh giá trị gia đình. Bài viết tập trung phân tích giá trị gia đình từ các cách tiếp cận lý thuyết, cũng như xem xét cách tiếp cận lý thuyết về giá trị gia đình ở Việt Nam trong bối cảnh xã hội đang chuyển đổi nhanh chóng. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị gia đình có thể được nhìn nhận từ nhiều chiều cạnh như: truyền thống và hiện đại, tính cá nhân và tính tập thể, bình đẳng giới và chế độ gia trưởng… đặc biệt là khía cạnh hôn nhân và mối quan hệ gia đình. Các giá trị gia đình cũng chịu tác động của nhiều nhân tố mang tính cấu trúc như các đặc điểm nhân khẩu xã hội cá nhân và các đặc điểm cấu trúc của gia đình, đặt trong bối cảnh của những thay đổi về chính sách, văn hóa và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Gia đình; Giá trị gia đình; Tiếp cận lý thuyết; Gia đình Việt Nam.
1.Khái niệm
Gia đình là một thiết chế xã hội quan trọng, ảnh hưởng đến các quá trình chính trị, kinh tế, xã hội nói chung. Trong những thập niên qua, gia đình ở nhiều quốc gia trên thế giới đã có những thay đổi như sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ trong kinh tế, chính trị; giảm sinh, tăng tỷ lệ ly hôn và sống chung không kết hôn và đặc biệt là nhiều giá trị gia đình đang có những biến đổi nhanh chóng. Thiết chế xã hội này mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các quốc gia châu Á. Với ảnh hưởng của Khổng giáo, thời kỳ chiến tranh, và vai trò lãnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa, gia đình Việt Nam mang cả những đặc điểm tương đồng với các quốc gia có nền tảng văn hóa tương đồng và cả những đặc trưng riêng có.
Rokeach (1973) cũng đưa ra một định nghĩa khác về giá trị, ít được trích dẫn hơn nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình hình thành giá trị của con người: “Giá trị là sự đại diện và truyền tải nhận thức của những nhu cầu (Rokeach, 1973:20). Có nghĩa là, những gì quan trọng với con người trong cuộc sống phụ thuộc vào việc họ cần điều gì. Giá trị không đơn thuần là cấu trúc nhận thức mà còn bắt nguồn từ nhu cầu.
Rokeach (1979) nhấn mạnh giá trị đi theo thứ bậc ưu tiên, và mỗi giá trị có mối tương quan chặt chẽ với một hệ thống phức tạp các niềm tin và thái độ. Vì thế, hệ thống niềm tin có thể tương đối bền vững, nhưng sự biến đổi một giá trị có thể dẫn đến sự thay đổi của những giá trị khác và trong cả xã hội nói chung. Cá nhân thường có xu hướng duy trì một quan điểm nhất quán, phản ánh chuẩn mực đạo đức và quyền hạn của họ. Khi hành động hay niềm tin của họ mâu thuẫn với tự nhận thức này, cá nhân cảm thấy thất vọng và có thể thay đổi nhằm điều chỉnh hành vi hay niềm tin theo đúng nhận thức đã có. Nội dung, cấu trúc, và tổ chức hệ giá trị con người có sự ổn định tương đối về văn hóa giữa các quốc gia (Schwartz, 1992, 1996), có nghĩa là giá trị có thể thống nhất và mâu thuẫn theo các xã hội và nền văn hóa.
Một trong những tác giả có ảnh hưởng lớn đến các xu hướng nghiên cứu về giá trị trên thế giới gần đây là Schwartz. Theo Schwartz, việc phân biệt giá trị này với giá trị kia phụ thuộc vào mục tiêu và động lực mà nó thể hiện. Lý thuyết giá trị (Schwartz, 1992, 2006) đưa ra khái niệm giá trị với 6 đặc trưng chính được thể hiện như sau:
Giá trị là niềm tin được kết nối chặt chẽ với mức độ ảnh hưởng. Khi giá trị được hình thành, chúng trở thành những cảm nhận, tình cảm. Những người cho độc lập là một giá trị quan trọng sẽ tức giận khi độc lập của họ bị đe họa, ảnh hưởng khi họ không thể bảo vệ giá trị đó, và sẽ hạnh phúc khi có nó.
Giá trị là những mục tiêu mong ước làm động lực cho hành động. Những người coi trật tự xã hội, công bằng, và có ích là những giá trị quan trọng thì sẽ có động lực để đạt những mục tiêu này.
Giá trị vượt lên trên các hành vi cụ thể hay bối cảnh cụ thể. Sự vâng lời, lòng trung thực, ví dụ, có thể được mong đợi ở nơi làm việc, ở trường học, trong kinh doanh cũng như chính trị, với bạn bè cũng như người lạ. Đặc trưng này phân biệt giá trị với những tập quán và thái độ mà thường chỉ những hành động, mục tiêu hay hoàn cảnh cụ thể.
Giá trị đóng vai trò chuẩn mực hay tiêu chuẩn. Giá trị hướng dẫn việc lựa chọn và đánh giá hành vi, chính sách, con người và sự kiện. Con người quyết đinh cái gì là tốt và cái gì là xâu, chính đáng và không chính đáng, đáng làm và nên từ bỏ, dự trên những hệ quả có thể xảy ra của những giá trị. Những anh hướng của giá trị trong các quyết định hàng ngày là khá rõ nét. Giá trị đưa vào nhận thức khi các hành động hay đánh giá được cho là có những tác động mãu thuân với những giá trị mà người đó yêu mến.
Giá trị có trật tự theo mức độ quan trọng. Giá trị của con người hình thành nên một hệ thống trật tự các ưu tiên theo từng đặc điểm cá nhân. Trật tự thứ bậc này của giá trị cũng góp phần phân biệt giá trị với phong tục hay thái độ.
2.Lý thuyết hiện đại hóa và biến đổi gia đình
Trong thập niên vừa qua, lý thuyết hiện đại hóa thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Trong đó, quan điểm của Inglehart coi hiện đại hóa là quá trình biến đổi xã hội gắn liên với công nghiệp hóa (Inglehart và Welzel, 2009) là có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay. Quan điểm chính của lý thuyết này là việc phát triển kinh tế và công nghệ gắn liền với những biến đổi từ các giá trị và phong tục cũ sang một xu hướng hợp lý, khoan dung, tin cậy và có sự tham gia hơn, tạo nên sự thay đổi về chính trị-xã hội (Inglehart &Baker, 2000).
Một khái niệm trung tâm và quan trọng của lý thuyết hiện đại hóa là công nghiệp hóa tạo ra những hệ quả xã hội và văn hóa, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực xã hội. Ví dụ, công nghiệp hóa tạo ra những thành tựu văn hóa xã hội như tăng trình độ học vấn, thay đổi vai trò giới. Công nghiệp hóa được xem như một thành tố chính của quá trình hiện đại hóa, ảnh hưởng đến các thành tố của đời sống xã hội. Một cách ngắn gọn, các nhà nghiên cứu tin rằng phát triển kinh tế gắn liền sau nó những hệ quả văn hóa, chính trị được dự báo trước và mang tính hệ thống (Inglehart and Baker, 2000). Phát triển kinh tế đưa các xã hội vào một định hướng khá rõ ràng, theo đó, công nghiệp hóa dẫn đến chuyên môn hóa nghề nghiệp, tăng trình độ học vấn, thu nhập, và cuối cùng là mang lại những thay đổi xã hội, chẳng hạn như những thay đổi về vai trò, thái độ về quyền lực và tình dục, giảm mức sinh, sự tham gia chính trị rộng rãi, v.v…(Inglehart, 1997; 2008; Inglehart and Baker,2000).
Những khía cạnh chính yếu nhất của quá trình hiện đại hóa bao gồm một số đặc trưng cơ bản như sự hình thành của những giá trị đặc trưng của hiện đại như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa thực dụng.Những thay đổi nhân khẩu học làm thay đổi tận gốc những lối sống từ thế hệ trước và sự tập trung của dân cư đô thị với sự phân công theo chức năng phức tạp, đa dạng văn hóa, và không đồng nhất. Việc tư nhân hóa của cuộc sống gia đình, cách biệt nó khỏi những kiểm soát xã hội của cộng đồng, tách biệt môi trường làm việc và gia đình, và phụ nữ đã được tự do hơn khỏi chế độ gia trưởng. Nói cách khác, tính cá nhân đã thống trị trước tính cộng đồng và tập thể.
Sự chuyển đổi kinh tế, xã hội và chính trị vừa ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của môi trường văn hóa. Các giả định cơ bản của lý thuyết hiện đại hoá là có một xã hội truyền thống trải qua sự phát triển đến một giai đoạn mới của nhà nước phát triển, với nhiều chỉ báo của giá trị phương Tây và chủ nghĩa vật chất.
Lý thuyết hiện đại hóa tìm hiểu sự thay đổi về các đặc điểm của cá nhân với những thay đổi của gia đình và xã hội bên ngoài nhưng dường như không dự đoán được các đặc điểm của các gia đình đương đại (Barbieri and Belanger, 2009). Các gia đình hiện đại, với những đặc trưng là tính cá nhân cao, vị thế phụ nữ tăng lên, hôn nhân tự do tự nguyện, sự độc lập của thế hệ trẻ cao, quy mô gia đình nhỏ mức sinh thấp; và xã hội hiện đại, với những đặc điểm là công nghiệp hóa, đô thị hóa, trình độ học vấn cao, công nghệ cao (Thornton, 2001[U1] ); không chỉ được lý giải đơn thuần bởi lý thuyết hiện đại hóa. Những thay đổi xã hội tạo nên biến đổi gia đình, và biến đổi gia đình tạo nên những biến đổi của xã hội.
Những thay đổi về hôn nhân, gia đình và ly hôn được cho là có quan hệ chặt chẽ với quá trình hiện đại hóa. Ví dụ, các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng, hiện đại hóa dường như có hai tác động trái ngược nhau đến ly hôn. Sự phát triển kinh tế, cùng với hiện đại hóa và đô thị hóa, trong một giai đoạn ban đầu có thể làm giảm ly hôn trước khi góp phần làm tăng ly hôn ở những giai đoạn hiện đại hóa sau. Những thay đổi xã hội đi cùng với hiện đại hóa làm giảm ly hôn bao gồm hôn nhân tự nguyện, tình yêu, tăng tuổi kết hôn, mở rộng cơ hội giáo dục (Goode 1963, 1971, 1993; Hirschman and Teerawichitchainan, 2003; John, 2003, 1997; Lee, 1982). Tuy nhiên các nhà lý thuyết chỉ rõ, xét về lâu dài, xu hướng phát triển đồng đều trong quá trình hiện đại hóa và sự suy giảm của chế độ gia trưởng sẽ mang tác động ngược lại. Goode (1963 and 1993) khẳng định rằng hiện đại hóa là nguyên nhân sâu xa của tỷ lệ ly hôn tăng. Vị thế phụ nữ, trao quyền cho phụ nữ tăng lên tạo ra những môi trường văn hóa xã hội làm cho ly hôn trở nên dễ dàng và được chấp nhận hơn. Sự độc lập về kinh tế của phụ nữ, quy mô gia đình nhỏ hơn, những tư tưởng về sự chủ động trong cuộc sống có thể làm cho các mối quan hệ trở nên kém bền vững hơn. Công nghiệp hóa có thể làm giảm quy mô gia đình, vì thế, làm tăng khả năng ly hôn, vì nó giúp tăng vị trí độc lập xã hội của phụ nữ. Những hôn nhân hiện đại dựa trên tình yêu và cảm xúc có thể ít bền vững hơn những hôn nhân dựa trên những mối quan hệ kinh tế xã hội. Những định kiến hay kỳ thị về ly hôn giảm dần và đến lượt nó làm tăng mức độ ly hôn ở xã hội.
Ngoài những tác động của hiện đại hóa, các giá trị truyền thống và phong tục về hôn nhân và gia đình cũng góp phần quan trọng hình thành nên những khuôn mẫu chuẩn mực mới. Những yếu tố này có thể điều chỉnh những tác động của hiện đại hóa đến hôn nhân và gia đình ở nhiều xã hội. Việc bảo lưu những giá trị truyền thống trong quá trình hiện đại hóa là quan trọng trong bảo vệ hệ thống gia đình khỏi những áp lực của hiện đại hóa (Cho and Yada, 1994).
Tuy nhiên, với trình độ giáo dục ngày càng tăng, các cơ hội việc làm nhiều hơn với phụ nữ, quan điểm về kết hôn muộn hay phụ nữ làm việc trở nên bao dung hơn, vai trò giới theo truyền thống trong hôn nhân dường như đã trở nên lỗi thời. Lý tưởng giới tác động đến quan hệ quyền lực vợ chồng trong hôn nhân trên nhiều phương diện khác nhau. Nhiều phụ nữ ngày nay thích sự độc lập về xã hội và kinh tế mà họ đạt được từ công bằng giới trong giáo dục và thị trường lao động.
3.Lý thuyết biến đổi văn hóa và duy trì giá trị truyền thống
Hiện đại hóa có mối quan hệ chặt chẽ với biến đổi văn hóa. Mối quan hệ này được giải thích trên nhiều tiếp cận khác nhau. Một trường phái nhấn mạnh sự hội tụ của các giá trị như là kết quả của hiện đại hóa, hay những nguồn lực kinh tế chính trị dẫn đến thay đổi văn hóa. Theo đó, trong quá trình hiện đại hóa, những giá trị truyền thống bị suy giảm và được thay bằng những giá trị hiện đại.
Những xã hội chịu ảnh hưởng mạnh của các giá trị truyền thống thường cho thấy mức độ chấp nhận thấp với một số hiện tượng như nạo hút thai, li hôn, tình dục đồng giới, không chăm sóc cha mẹ, không quan tâm đến con cái. Vai trò truyền thống khuyến khích mọi người kết hôn. Các cặp vợ chồng có quan điểm truyền thống luôn có kế hoạch để có con sớm sau khi kết hôn, v.v. Trong truyền thống, tính tập thể, tính cộng đồng là khá rõ nét. Mục tiêu chính của xã hội truyền thống là làm cha mẹ tự hào về bản thân – cá nhân phải luôn yêu thương, tôn trọng cha mẹ, bất kể họ cư xử như thế nào. Ngược lại, cha mẹ phải có trách nhiệm làm hết sức vì con cái dù có phải vất vả thế nào. Con người trong các xã hội truyền thống thích gia đình quy mô lớn (Inglehart & Baker, 2000; Tarkhnishvili & Tevzadze, 2013). Nhìn chung, có thể nói rằng, xã hội này có xu hướng ưa chuộng các hình thức quản trị mang tính quyền lực, thứ bậc và rất chú trọng và quan tâm tới đời sống tâm linh, tôn giáo (Tarkhnishvili & Tevzadze, 2013).
Trong xã hội hiện đại, sự biến đổi giá trị diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, vai trò của người cao tuổi đã giảm sút, ngay cả ở những quốc gia có nền tảng Nho giáo coi trọng đạo hiếu như Hàn Quốc (Inglehart, 1997).
Bên cạnh đó, có trường phái khác nhấn mạnh sự bền vững của các giá trị truyền thống dưới tác động của thay đổi kinh tế, chính trị. Trường phái này cho rằng các giá trị phụ thuộc một cách tương đối vào các điều kiện kinh tế (Inglehart, 1997; Haller, 2002; Tarkhnishvili and Tevzadze, 2013). Theo đó, khó có thể có sự thống trị hoàn toàn của hệ giá trị hiện đại, mà các giá trị truyền thống sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến biến đổi văn hóa dưới tác động của phát triển kinh tế. Những di sản văn hóa lớn của xã hội như Khổng giáo, Thiên chúa giáo, v.v. để lại những dấu ấn giá trị khá vững bền ngay cả trong hiện đại hóa. Mặc dù chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng Nho giáo chi phối khá rõ nét các mối quan hệ gia đình, cộng đồng và nhà nước, ví dụ như quan điểm coi trọng nam giới trong khi phụ nữ ở vị thế thấp kém. Hơn nữa, những khác biệt về giá trị của các cá nhân thuộc các nhóm nhỏ trong xã hội thường nhỏ hơn các khác biệt giá trị liên quốc gia. Một khi đã được hình thành, những khác biệt liên văn hóa trở thành nền văn hóa của dân tộc được nền giáo dục và truyền thông truyền tải (Inglehart & Baker, 2000).
Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh, sự thay đổi văn hóa không diễn ra theo đường thẳng. Theo Inglehart và Baker (2000), khi quá trình công nghiệp hóa được gắn liền với tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, các xã hội sẽ dần quan tâm đến chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường, và những giá trị tự thể hiện bản ngã. Nói cách khác, sẽ xuất hiện những hệ quả an sinh xã hội của phát triển kinh tế.
4.Lý thuyết về giá trị gia đình
Giá trị gia đình và các mối quan hệ gia đình là thiết chế quan trọng. Các quyết định kinh tế, vốn đầu tư con người, thị trường lao động, thị trường tín dụng, chẳng hạn như loại hình công việc, tiền lương và cơ hội nghề nghiệp, sở hữu nhà ở và tài sản tài chính – được diễn ra trong gia đình và phụ thuộc rất nhiều vào giá trị gia đình.
Mặc dù trong vài thập kỷ qua, ở nhiều xã hội đã chứng kiến nhiều thay đổi trong gia đình về quy mô, chức năng, các mối quan hệ trong gia đình, và các giá trị gia đình; thì gia đình vẫn là một thiết chế, là cốt lõi của hầu hết các hoạt động kinh tế và xã hội. Ở nhiều xã hội, nhất là những xã hội đang trong thời kỳ chuyển đổi từ truyền thống đến hiện đại, từ nông nghiệp sang công nghiệp, gia đình là một thiết chế được tin là chịu ảnh hưởng lớn từ thay đổi xã hội. Nói cách khác, gia đình đang thay đổi mạnh mẽ trên mọi phương diện.
Điểm đặc trưng trong sự biến đổi giá trị về các quan hệ gia đình chính là những thay đổi căn bản về vai trò giới trong phân công lao động trong gia đình. Xu hướng phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động và nam giới chia sẻ làm việc nhà đang tăng lên. Những thay đổi về cách ứng xử của nam giới và phụ nữ ở nhà và nơi làm việc đã có tác động đến đời sống gia đình nói chung và hệ giá trị quan hệ vợ chồng nói riêng. Khi độc lập về kinh tế, người phụ nữ có nhiều lựa chọn cho cuộc sống cá nhân mình hơn: kết hôn, kết hôn và làm mẹ, sống một mình, làm mẹ đơn thân, hoặc theo đuổi sự nghiệp cá nhân. Mối quan hệ vợ chồng cũng thay đổi khi người phụ nữ phải cố gắng để cân bằng giữa đời sống gia đình và công việc. Điều này có nghĩa là họ phải đối mặt với những vai trò mới trong hôn nhân, hoàn toàn khác xa với mô hình hôn nhân truyền thống. Điều đó đòi hỏi những người phụ nữ này có những chiến lược phù hợp để giải quyết xung đột trong hôn nhân nhằm duy trì chất lượng và sự bền vững của cuộc hôn nhân (Rhoden, 2003).
Chẳng hạn, một khảo sát ở Australia năm 1989 cho thấy đã có sự thay đổi về quan niệm đối với việc đi làm bên ngoài của phụ nữ. Theo quan điểm trước đây thì gia đình và người con nhỏ sẽ chịu những thiệt thòi nếu người mẹ đi làm kiếm tiền bên ngoài. Tuy nhiên, kết quả điều tra chỉ ra rằng, mặc dù vẫn còn một bộ phận đáng kể người Australia cho rằng khó mà nuôi con nhỏ tốt nếu cả cha và mẹ đều đi làm cả ngày, phần lớn người trả lời khẳng định mối liên hệ tình cảm, tình yêu thương với con cái sẽ không bị ảnh hưởng nếu người mẹ đi làm (Vandenheuvel, 1991).
Những thay đổi về niềm tin đối với cách ứng xử của nam giới và phụ nữ ở nhà và nơi làm việc đã có tác động đến đời sống gia đình. Hôn nhân là một thiết chế truyền thống nên người ta cho rằng thái độ đối với vai trò giới sẽ ảnh hưởng đến khả năng kết hôn. Becker[U2] (1991) cho rằng vai trò truyền thống khuyến khích mọi người kết hôn. Phụ nữ và nam giới theo quan điểm truyền thống cũng muốn có con. Các cặp vợ chồng có quan điểm truyền thống luôn có kế hoạch để có con sớm sau khi kết hôn. Ngược lại, những người có quan điểm giới cởi mở hơn thường ít có áp lực sinh con hơn so với những người có quan điểm truyền thống (Kaufman, 2000).[U3]
Các lý thuyết về giới đề cập đến quan hệ xã hội của nữ giới và nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mối quan hệ đó thể hiện ở vai trò với những chức năng và nhiệm vụ nhất định của nam và nữ trong đời sống gia đình và xã hội. Sự phân công vai trò xuất phát từ sự thuận lợi về mặt sinh học và sự phân công của xã hội. Ngoài ra phân công lao động theo giới còn gắn liền với các giá trị và chuẩn mực xã hội, đặc trưng về văn hóa và thích nghi với những thay đổi của điều kiện gia đình. Vì vậy, việc đảm bảo cho hai giới có những cơ hội và điều kiện thực hiện các chức năng của mình chính là cơ sở của công bằng xã hội và hiệu quả xã hội.
5.Hiện đại “rút ngắn” ở Việt Nam
Xã hội Việt nam truyền thống thường chỉ giai đoan phong kiến thuộc địa trước năm 1945 và xã hội Việt Nam hiện đại thường chỉ quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một nền hiện đại “rút ngắn”, vì không chỉ mang đặc điểm là bỏ qua một giai đoạn phát triển trong lịch sử, là chủ nghĩa tư bản, mà còn chỉ những đặc điểm cơ bản của hiện đại hóa và công nghiệp hóa ở Việt Nam, là chiến lược “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian, một quá trình chuyển đổi nhanh từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và tận dụng lợi thế của “người đi sau” để phát triển nền kinh tế xã hội. Trong một thời gian khá dài, tốc độ hiện đại hóa và công nghiệp hóa của Việt Nam bị chậm lại do chiến tranh và khủng hoảng kinh tế xã hội đầu những năm 1980, và quá trình này đã được đẩy nhanh và mạnh hơn từ sau đổi mới năm 1986. Cụm từ công nghiệp hóa và hiện đại hóa trở thành một khái niệm phổ biến và quen thuộc trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cũng nhưng trong các phương tiện truyền thông đại chúng (Trần Thị Minh Thi, 2014).
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hình thành và điều chỉnh những khuôn mẫu hôn nhân và gia đình bằng việc ban hành những văn bản pháp luật và những chính sách phát triển kinh tế xã hội. Luật pháp, quy định, các phong trào xã hội, các chiến dịch tuyên truyền về hôn nhân đã trực tiếp tác động đến hành vi hôn nhân của cá nhân, trong khi các chính sách kinh tế xã hội có những tác động gián tiếp. Các yếu tố hiện đại hóa ảnh hưởng đến khuôn mẫu hôn nhân và li hôn chủ yếu thông qua sự phát triển kinh tế, phát triển hệ thống giáo dục và việc làm, giao lưu văn hóa dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế (Trần Thị Minh Thi, 2014).
Quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam đang chứng kiến sự duy trì của những giá trị truyền thống và sự xuất hiện của những giá trị hiện đại mới (Trịnh Duy Luân và cộng sự, 2011). Từ cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội đầu năm 1980 đến Đổi mới sang nền kinh tế thị trường và chính sách mở cửa những năm cuối 1980, những chính sách của nhà nước với gia đình đã thích nghi với những quá trình tồn tại và thỏa hiệp trong đó gia đình trải qua những chuyển biến quan trọng làm thay đổi các mối quan hệ và hành vi của gia đình, trong đó, gia đình vừa thay đổi,vừa bảo lưu các giá trị cũ. Trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình, dòng họ, quá trình hiện đại hóa bao gồm cả việc duy trì những giá trị truyền thống và sự xuất hiện của những giá trị mới. Nói cách khác, gia đình, như một đơn vị xã hội cơ bản của xã hội Việt Nam, đang trong giai đoạn chuyển đổi, có nghĩa là gia đình phải điều chỉnh, thích nghi, tương thích, và làm quen với những bối cảnh và đặc điểm mới của cuộc sống (Barbieri and Belanger, 2009). Chẳng hạn, gia đình hạt nhân đang tăng lên trong khi gia đình mở rộng cũng không mất đi hoàn toàn.
6.Tiếp cận lí thuyết về giá trị gia đình ở Việt Nam
Các nghiên cứu về giá trị gia đình Việt Nam đã được đề cập tương đối sớm và nằm rải rác trong các nghiên cứu, khảo sát về hôn nhân, gia đình Việt Nam theo từng thời kỳ khác nhau. Hôn nhân và gia đình Việt Nam đang trải qua sự chuyển đổi quan trọng, từ mô hình truyền thống đến những đặc điểm hiện đại và cởi mở hơn.
Gia đình Việt Nam thường được chia làm hai dạng cơ bản: gia đình truyền thống và gia đình hiện đại. Gia đình truyền thống là một cụm từ khá quen thuộc, chỉ những kiểu gia đình trong thời kỳ phong kiên, khoảng trước 1950. Hôn nhân gia đình hiện đại bắt đầu xuất hiện từ năm 1959, với sự ra đời của bộ luật đầu tiên về hôn nhân gia đình, với những đặc trưng như bình đẳng giới và hôn nhân tự nguyện.
Ở Việt Nam, hiện đại hóa là một quá trình biến đổi xã hội từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, để đạt được những tăng trưởng và phát triển kinh tế, để cải cách thể chế và cấu trúc xã hội hướng tới một nền kinh tế xã hội phát triển, đã làm tăng tự do cá nhân. Hiểu khái niệm về tính tập thể, tính cộng đồng (collectivism)] và tính cá nhân (individualism) trong tương quan với gia đình và hiện đại hóa là hết sức cần thiết trong việc lý giải những hành vi hôn nhân, gia đình và ly hôn ở Việt Nam. Gia đình là một đơn vị cơ bản của xã hội Việt nam và là trung tâm của các mối quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng và nhà nước. Văn hóa tập thể của Việt nam có nguồn gốc từ hệ tư tưởng Nho giáo, vốn coi trọng gia đình và cộng đồng. Khái niệm tập thể trong hầu hết các khía cạnh đời sống được đẩy lên cao hơn trong nhiều thế hệ do nhu cầu cần có sức mạnh và ý chí tập thể trong cuộc kháng chiến gian khổ dành độc lập và tự do dân tộc trong nhiều thập kỷ. Theo Đỗ Long và Phan Thị Mai Hương (2002), mặc dù có những tương tác văn hóa với những dân tộc khác, tính tập thể vẫn trội hơn tính cá nhân ở người Việt nam so với nhiều dân tộc khác, tính tập thể của phụ nữ cao hơn nam giới, cho dù hệ thống giá trị và hành vi của người Việt khác nhau trong từng hoàn cảnh và trong từng nền văn hóa của mỗi dân tộc.
Tính cá nhân là một chiều cạnh so sánh văn hóa với chủ nghĩa gia đình. Nền tảng cơ bản của tính cá nhân nằm ở chỗ quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân. Mưu cầu này cần có sự tự do, chủ động, và tự chịu trách nhiệm. Về mặt chính trị, tính cá nhân thực sự là nhận ra mỗi người có quyền có cuộc sống và hạnh phúc riêng. Nhưng điều đó cũng có nghĩa kết hợp với những cá nhân khác để đấu tranh và bảo vệ các thể chế cho phép quyền đó. Tính cá nhân đánh giá cao sự độc lập, riêng tư và tôn trọng người khác. Tính cá nhân coi mỗi người như một cá thể độc lập, một thực tế tối cao chiếm hữu quyền không thể chuyển nhượng với chính cuộc sống của mình, quyền được sống một cách hợp lý theo lẽ tự nhiên. Trong một nền văn hóa đề cao tính cá nhân, gia đình trở nên mờ hơn vì không còn giữ vị trí trung tâm và nhiều chức năng của gia đình đã bị mất đi. Gia đình hiện đại, cũng từ bỏ nhiều chức năng vốn được hình thành trước đây (Trần Thị Minh Thi, 2014, 2015).
Thể chế và nhà nước thiết lập lại những khuôn mẫu gia đình để phù hợp với những bối cảnh chính trị và kinh tế. Với Việt Nam, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho thấy những biện pháp khác nhau mà nhà nước thực hiện để tái cấu trúc các hình thức gia đình, quan hệ gia đình và chức năng gia đình trong quá trình thay đổi và phát triển xã hội.
Những đổi thay trong giá trị và chuẩn mực đã tác động mạnh mẽ đến thái độ và cách ứng xử của mỗi cá nhân trong xã hội ngày nay. Ví dụ, theo truyền thống văn hóa Việt Nam, ly hôn không được khuyến khích, thậm chí bị hạn chế. Hiện nay, ly hôn đang tăng lên nhanh chóng sau Đổi mới từ cuối những năm 1980 với những nguyên do và hậu quả khác nhau. Việc tồn tại cùng lúc các mức độ khác nhau của các giá trị truyền thống và hiện đại trong bối cảnh cái mới chưa hoàn thiện và cái cũ chưa mất hoàn toàn là khuôn mẫu chung của nhiều khía cạnh hôn nhân và gia đình Việt Nam (Trần Thị Minh Thi, 2014).
Giá trị gia đình có thể được nhìn nhận từ chiều cạnh truyền thống và hiện đại, tính cá nhân và tính tập thể, bình đẳng giới và chế độ gia trưởng, v.v. trên một số khía cạnh như ý nghĩa của hôn nhân và gia đình; giá trị kinh tế (việc làm, sự giàu có, tài sản, v.v); giá trị con cái (số con, giới tính của con, ý nghĩa của việc có con, đạo hiếu, v.v); giá trị hạnh phúc (tình yêu, trinh tiết, sự chung thủy; sự quan tâm, tôn trọng, trách nhiệm và cam kết); giá trị của các mối quan hệ vợ chồng, người cao tuổi và con cháu, và tác động của các nhân tố mang tính cấu trúc như tuổi, giới tính, địa bàn cư trú, học vấn, nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc, mức sống, và các đặc điểm cấu trúc của gia đình, đặt trong bối cảnh của những thay đổi về chính sách, văn hóa và hội nhập quốc tế.
Tài liệu trích dẫn
Barbieri, Magali and Belanger Daniele. 2009. Reconfiguring Families in Contemporary Vietnam. Contemporary Issues in Asia and the Pacific. Stanford University Press.
Becker, G. S. 1991. A treatise on the family (enlarged ed.). Cambridge, MA: Harvard University Press White, L. (1991). Determinants of divorce: A review of research in the eighties. In A. BoothEd. Contemporary families: Looking forward, looking back (pp. 141-149). Minneapolis, MN: National Council on Family Relations.
Cho, Lee-Jay and Yada, Moto. 1994. Tradition and change in the Asian family. Honolulu: East West Center. University of Hawaii Press.
Đỗ Long, Phan Thị Mai Hương. 2002. Collectivism, Individualism and “the self” of the Vietnamese Today. Edited by. 316 pages, Hanoi: Chinh Tri Quoc Gia Publisher.
Goode, William J. 1971. “Family disorganization” Pp. 467-544 in Robert K. Merton and Robert Nisbet eds., Contemporary Social Problems 3rd ed.. New York: Harcourt Brace Jovanovich.
Goode, W.J. 1970. World Revolution and Family Patterns: New York; Free Press. Pp. 92-98
Goode, W.J. 1993. World Changes in Divorce Patterns. New Haven: Yale University Press.
Goode, William J. 1963. World Revolution and Family Patterns. New York: Free Press.
Haller, Max. 2002. Theory and Method in the Comparative Study of Values: Critique and Alternative to Inglehart. European Sociological Review, Vol.18, No.2, 2002.
Hechter, M. 1993. Values research in the social and behavioral sciences. In M. Hechter, L. Nadel, & R. E. Michod (Eds.), The origin of values (pp. 1–28). New York: Aldine de Gruyter.
Hirschman, C and Teerawichitchainan, Bussarawan. 2003. Cultural and Socioeconomic Influences on Divorce during Modernization: Southeast Asia: 1940s to 1960s. Population and Development Review, Vol. 29, No. 2, pp. 215-253
Homer, Pamela M. 1993. GeneticTransmission of human values: A cross-cultural investigation of generalization and reciprocal influence effects.Social, and General Psychology Monographs, Vol 119(3), Aug 1993, 343-367.
Inglehart and Welzel. 2009. Development and Democracy: What We Know about Modernization Today. Foreign Affairs, March, 2009
Inglehart, R. 1997. Modernization and Postmodernization: Cultural, Economic and Political Change in Societies. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Inglehart, Ronald F. 2000. Globalization and Postmodern Values. The Washington Quarterly, Vol.23, No.1, 2000.
Inglehart, Ronald F. 2008. Changing Values among Western Publics from 1970-2006. Western European Politics, Vol 31, Nos 1-2, pp.130-146, Routledge, 2008.
Inglehart, Ronald F. and Baker, Wayne E. 2000. Modernization, Cultural Change, and the Persistance of Traditional Values. American Sociological Review, Vol 65, Feb 2000.
Jones, G. W. 2003. The ‘Flight from Marriage’ in South-East and East Asia pp.14. Singapore: Asian MetaCentre for Population and Sustainable Development Analysis.
Jones, Gavin W. 1997. Modernization and Divorce: Contrasting Trends in Islamic Southeast Asia and the West. Population and Development Review, Vol. 23, No. 1, pp. 95-114.
Kaufman, G. (2000). Do Gender Role Attitudes Matter?: Family Formation and Dissolution Among Traditional and Egalitarian Men and Women. Journal of Family Issues, Vol21, pp.128-144.
Lee, Gary. 1982. Family Structure and Interaction: A Comparative Analysis 2nd ed.. Minneapolis: University of Minnesota Press.
Rhoden, J. L. (2003). Marital Cohesion, Flexibility, and Communication in the Marriages of Nontraditional and Traditional Women. The Family Journal: Conselling and Therapy for Couples and Families, Vol11, pp.248-256.
Rohan, M. J., & Zanna, M. P. 1996. Value transmission in families. In C. Seligman, J. M. Olson, & M. P. Zanna (Eds.), The Ontario symposium: The psychology of values (Vol. 8, pp. 253–276). Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates, Inc.
Rokeach, Milton (1973). The Nature of Human Values. New York: Free Press.
Rokeach, Milton 1979. Understanding Human Values: Individual and Societal, New York: Free Press.
Schwartz, S. H. 1992. Universals in the content and structure of values: Theory and empirical tests in 20 countries. In M. Zanna (Ed.), Advances in experimental social psychology (Vol. 25, pp. 1-65). New York: Academic Press
Schwartz, S. H. 2005. Basic human values: Their content and structure across countries. In A. Tamayo & J. B. Porto (Eds.), Valores e comportamento nas organizacões [Values and behavior in organizations] pp. 21-55. Petrópolis, Brazil: Vozes.
Schwartz, S. H. 2006. Value orientations: Measurement, antecedents and consequences across nations. In Jowell, R., Roberts, C., Fitzgerald, R. & Eva, G. (Eds.) Measuring attitudes cross-nationally – lessons from the European Social Survey (pp.169-203). London, UK: Sage.
Schwartz, S.H. 1996. Value priorities and behavior: Applying a theory of integrated value systems. In C. Seligman, J. M. Olson, & M. P. Zanna (Eds.), The psychology of values: The Ontario symposium (Vol. 8, pp. 1-24). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
Schwartz, Shalom H. 2012. An Over view of the Schwartz Theory of BasicValues. Online Readings in Psychology and Culture. http://dx.doi.org/10.9707/2307-0919.1116
Tarkhnishvili, Levan and Tevzadze, Gigi. 2013. Theoretical Aspects of World Value Survey: Main Principles, Challenges and Critics. Asian Social Science; Vol. 9, No. 11.
Thornton, Arland. 2001. The Development Paradigm: Reading History Sideways, and Family Change. Demography 38:449-465.
Trần Thị Minh Thi. 2014. “Một số tiếp cận lý thuyết về giá trị hiện nay”. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, Số 4.
Tran Thi Minh Thi. 2015. Divorce prevalence under the forces of individualism and collectivism in ‘shortcut’ modernity in Vietnam. In Atsufumi, Kato (ed). Weaving Women’s Spheres in Vietnam: The Agency of Women in Family, Religion and Community. Brill Publishers Asian Studies. The Netherlands.
Trịnh Duy Luân, Helle Rydstroom, and Wil Burhoorn (editors). 2011. Rural Families in Doimoi period, English and Vietnamese Edition. Publishing House of Social Sciences. 2011
Vandenheuvel, A. 1991. The Most Important Person in the World: A Look at Contemporary Family Values. Family Matters, pp.7-13.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới. Số 1, 2017, trang 33-45.
Các tin đã đưa ngày:
Các Lý Thuyết Tiếp Cận Nghiên Cứu Gia Đình Và Văn Hóa Gia Đình Trong Xã Hội Hiện Nay
Khi nghiên cứu thực nghiệm một vấn đề nào đó trong xã hội, việc tiếp cận lý thuyết giúp chúng ta nhiều điều: 1. Cung cấp các khái niệm mà ta dùng để phân tích; 2. Gợi ý những câu hỏi để hỏi vào hiện thực, hướng ta chú ý tới những loại sự kiện nào đó; 3. Gợi ra cách trả lời những câu hỏi bằng cách định hướng các giả thuyết và chỉ dẫn quan sát; 4. Giúp ta kiến giải các sự kiện có ý nghĩa, giúp ta nhìn rõ hơn, và sắp xếp cơ cấu quá trình tri giác của chúng ta.
Gia đình và văn hóa gia đình là một trong những đề tài được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội trong nhiều chuyên ngành quan tâm. Tùy thuộc vào chuyên ngành và nền tảng tri thức sẵn có của mình, mỗi nhà nghiên cứu lại có cách tiếp cận riêng. Tuy nhiên, gia đình và văn hóa gia đình là những vấn đề phức tạp, cần phải dựa trên cách tiếp cận tổng hợp, tức kết hợp nhiều hướng tiếp cận khác nhau nhưng không loại trừ nhau.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ chọn lọc một số cách tiếp cận lý thuyết chính được sử dụng trong các nghiên cứu về gia đình và văn hóa gia đình trong xã hội hiện nay. Với mong muốn sẽ góp phần hữu ích cho các nhà nghiên cứu quan tâm đến bản chất của gia đình, văn hóa gia đình ở Việt Nam.
Từ khóa: Lý thuyết nghiên cứu, gia đình, văn hóa…
Cách tiếp cận thuyết cấu trúc chức năng
Các luận điểm gốc của thuyết chức năng cấu trúc đều nhấn mạnh tính cân bằng, ổn định và khả năng thích nghi của cấu trúc. Lý thuyết này cho rằng, một xã hội tồn tại, phát triển được là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kỳ một sự thay đổi nào ở thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác. Theo nghĩa đó, gia đình được coi là một thành phần trong cấu trúc của xã hội, thực hiện những chức năng cơ bản của xã hội, đáp ứng nhu cầu của các thành viên gia đình và góp phần ổn định xã hội.
Khi nghiên cứu gia đình như một hiện tượng xã hội và theo cách tiếp cận cấu trúc chức năng, chúng ta sẽ có hai bình diện nghiên cứu: 1) Quan hệ giữa gia đình với xã hội; 2) Các mối quan hệ bên trong gia đình. Hai bình diện nghiên cứu này tương ứng với với hai hướng nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu gia đình như một thiết chế xã hội. Người ta nghiên cứu xem gia đình tồn tại nhằm mục đích gì, thực hiện chức năng gì đối với xã hội, mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Hướng nghiên cứu này sẽ trả lời cho các câu hỏi: “Các chức năng của gia đình là gì?” (Câu hỏi này đề cập đến những đóng góp của gia đình vào việc duy trì xã hội. Nó cho rằng xã hội có những đòi hỏi tiên quyết về chức năng (hay những nhu cầu cơ bản) cần đáp ứng để xã hội có thể tồn tại và vận hành có hiệu quả. Gia đình được xem xét dưới góc độ nó đáp ứng những nhu cầu cơ bản này); “Quan hệ chức năng giữa gia đình và các bộ phận khác của xã hội là gì? (Câu hỏi này đề cập đến mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, mối quan hệ và tác động lẫn nhau giữa gia đình và các thiết chế xã hội khác như Nhà nước, kinh tế, tôn giáo, giáo dục… Nghiên cứu sự tác động qua lại giữa gia đình và xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng của nó, quan hệ gia đình và các tập hợp xã hội khác như nhà trường, làng xóm, bạn bè, đồng nghiệp, các tổ chức chính trị, văn hóa…).
Thứ hai, nghiên cứu gia đình như một nhóm xã hội đặc thù. Người ta nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại giữa các cá nhân trong đời sống gia đình như quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ – con cái, những mối quan hệ tiền hôn nhân, những nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn bạn đời, địa vị, vai trò của các thành viên gia đình, phân công lao động theo giới trong gia đình, mâu thuẫn, xung đột giữa các thành viên trong gia đình, những nguyên nhân tan rã của mối liên hệ hôn nhân và gia đình,…” [3]. Tính đặc thù của nhóm xã hội gia đình do được hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về tình cảm, trách nhiệm và quyền lợi.
Đối với thuyết cấu trúc chức năng, hai tác giả được coi là đại biểu chính là George Murdock và Talcott Parsons Goode.
George Murdock giải thích tính phổ biến của gia đình do gia đình thực hiện 4 chức năng cơ bản không thể thiếu được cho sự tiếp nối thành công của xã hội. Đó là các chức năng: tình dục, tái sinh sản, giáo dục và kinh tế. Ông cho rằng những chức năng này là hoàn toàn cần thiết cho cả cá nhân và xã hội. Và chỉ có gia đình mới có thể thực hiện thành công những chức năng này. Vì thế, gia đình là tất yếu và phổ biến – chúng ta không thể tồn tại mà không có gia đình. Nếu gia đình không thực hiện đầy đủ các chức năng của nó thì những mục tiêu rộng lớn của xã hội cũng sẽ không đạt được.
Cách tiếp cận cấu trúc chức năng được thịnh hành trong những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng có những hạn chế nhất định. Bởi nó được coi là quá lý tưởng hóa gia đình, coi gia đình là một đơn vị thống nhất về lợi ích, coi trẻ em là đối tượng tiếp nhận thụ động văn hóa và tri thức từ người lớn tuổi, đề cao vai trò của người đàn ông là chủ gia đình và đẩy người phụ nữ vào tình trạng bị phụ thuộc, hợp pháp hóa hình thức phân công lao động theo giới tính trong gia đình, có lợi cho việc duy trì quyền lợi của nam giới. Mặt khác, cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc chức năng được coi là có tính chất bảo thủ vì nó không nhìn thấy hoặc không chấp nhận những mặt trái của cuộc sống gia đình như mâu thuẫn, xung đột, ly hôn; hay sự thay đổi vai trò của người phụ nữ, sự giải phóng người phụ nữ ra khỏi công việc gia đình. Nó cũng không lý giải được những mâu thuẫn về nhu cầu và lợi ích giữa những cá nhân, thành viên trong gia đình với nhau và mâu thuẫn, xung đột nhu cầu, lợi ích giữa gia đình với xã hội [7]. Ví dụ, xã hội Việt Nam đang thi hành luật và chính sách kế hoạch hóa gia đình nhằm giảm mức sinh và hạn chế số con, để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống và sức khỏe con người… Đó là những đòi hỏi mới về chức năng sinh đẻ của gia đình. Nhưng trong thực tế, nhiều bậc cha mẹ không muốn hạn chế số con do họ có nhu cầu và giá trị khác với xã hội. Các tiếp cận cấu trúc chức năng không thể lý giải được hiện tượng này.
Như vậy, về mặt phương pháp luận, cần lưu ý rằng quan điểm cấu trúc chức năng là chỉ của các nhà nghiên cứu, không phải của các thành viên gia đình bình thường. Nói cách khác, quan điểm này là của người ngoài cuộc, nên khá xa với cách nhìn của đối tượng nghiên cứu.
Cách tiếp cận thuyết xung đột
Cách tiếp cận xung đột không coi gia đình là nhân tố đóng góp cho sự ổn định của xã hội mà là tấm gương phản chiếu sự bất bình đẳng về của cải và quyền lực của một xã hội rộng lớn hơn. Cách tiếp cận này coi xã hội về cơ bản không mang tính hợp tác, mà chia rẽ. Các cá nhân và nhóm xung đột với nhau, và các nhà nghiên cứu cố gắng tìm ra và nhận diện những lực lượng cạnh tranh, xung đột nhau này.
Trong xã hội hiện đại, khi con người có tự do về tình yêu và hôn nhân, mà hôn nhân thì dựa trên cơ sở về tình yêu, nhưng không vì thế mà xung đột gia đình mất đi. Những người theo cách tiếp cận này cho rằng tình yêu là một yếu tố quan trọng trong hôn nhân và gia đình, nhưng mâu thuẫn, xung đột và quyền lực cũng hết sức cơ bản. Mâu thuẫn trong các mối quan hệ tương tác giữa con người với nhau là một điều tự nhiên, khó tránh khỏi. Bởi gia đình bao gồm những cá nhân có nhân cách, lý tưởng, giá trị, sở thích và mục đích khác nhau. Mỗi người không phải bao giờ cũng hài hòa với mọi người khác trong gia đình. Các gia đình thường có bất đồng, từ nhỏ đến lớn, chỉ khác về tần số, mức độ, tính chất và cách giải quyết xung đột. Chính vì vậy, cách tiếp cận xung đột không tin xung đột là tồi tệ, mà coi nó là một bộ phận tự nhiên của đời sống gia đình. Từ đó, người ta tập trung nghiên cứu về nguồn gốc của xung đột gia đình, cách kiểm soát và giải quyết các xung đột gia đình.
Theo cách tiếp cận xung đột, một yếu tố rất quan trọng đó là quyền lực. Theo B. Strong, quyền lực được thể hiện qua vị trí trong gia đình, tiền bạc mà các cá nhân giành được, cưỡng bức về thể xác và tinh thần. Thông thường trong gia đình cá nhân nào nắm quyền lực cao nhất sẽ đạt được mục đích của mình trong cuộc xung đột. Vì xung đột được coi là bình thường, giải pháp cho nó là ở giao tiếp, mặc cả và thương lượng [3].
Lý thuyết xung đột khắc phục được những hạn chế của thuyết chức năng, nhưng khi vận dụng nghiên cứu, chúng ta cần lưu ý những khó khăn sau đây:
Lý thuyết xung đột dựa quá nhiều vào quan niệm về chính trị, nơi lợi ích riêng, thói vị kỷ và cạnh tranh là những yếu tố chủ đạo, nhưng trong gia đình, ngoài xung đột, con người ta còn có sự tự hi sinh và hợp tác. Gia đình không thể tồn tại nếu xung đột lấn át sự hi sinh và hợp tác;
Cách tiếp cận này cho rằng những khác biệt dẫn đến xung đột, nhưng thực ra khác biệt có thể được chấp nhận mà không nhất thiết phải dẫn đến xung đột;
Việc đo lường xung độ gia đình không dễ dàng, nhất là với người ngoài (nhà nghiên cứu) [3].
Cách tiếp cận thuyết nữ quyền
Nữ quyền được hiểu một cách đơn giản là những tư tưởng, học thuyết, những hoạt động đấu tranh cho quyền chính đáng của phụ nữ chống lại chế độ phụ quyền. Thuyết nữ quyền bao gồm các lý thuyết xã hội khác nhau, giải thích nguyên nhân của việc phụ nữ bị áp bức trong xã hội, tìm ra các biện pháp để thay đổi quan hệ giới, tiến tới bình đẳng và công bằng trong gia đình và xã hội. Hay nói cách khác, đặc điểm đặc thù của các lý thuyết nữ quyền là sự nhấn mạnh đến vấn đề quyền lực, xung đột, và biến đổicủa hệ thống gia đình.
Năm 1965, Betty Friedan, một tác giả nữ quyền người Mỹ đã viết về “vấn đề không tên”, tức là sự cô lập và nhàm chán của nhiều phụ nữ Mỹ, những người chỉ làm nội trợ với chu kỳ không dứt là quanh đi quẩn lại chỉ chăm con và làm việc nhà. Tiếp nối bà, nhiều tác giả khác lên tiếng. Trong những năm 1970 và 1980, cách tiếp cận nữ quyền làm chủ hầu hết các cuộc tranh luận và nghiên cứu về gia đình ở Mỹ và Anh.
Đối với thuyết nữ quyền, gia đình không phải là một thiết chế có tính tất yếu về sinh học mà là một thiết chế xã hội, một hệ tư tưởng, một hệ thống mang tính thiết chế của các quan hệ xã hội và các ý nghĩa văn hóa. Vì vậy, theo cách tiếp cận này thì khái niệm phù hợp trong việc phân tích gia đình, những khác biệt và tương đồng giữa nam và nữ cần phải là khái niệm giới (gender) chứ không phải giới tính (sex). Hệ thống gia đình hiện tồn đã được tạo ra bởi con người, và nó được tạo ra theo cách thức đã mang lại rất nhiều lợi thế cho nam giới với cái giá làm giảm quyền của phụ nữ. Những người theo thuyết nữ quyền xem quyền lực của nam giới đối với phụ nữ như nguồn gốc của sự bất bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội. Họ lập luận rằng việc kiểm soát quyền lực cho phép nam giới tạo ra một diện rộng các vai trò của nam giới và thu hẹp đáng kể những lựa chọn dành cho phụ nữ. Kết quả là những địa vị có lợi nhất trong cấu trúc xã hội đã được giữ riêng cho nam giới. Việc phân chia vai trò được xem như điểm mấu chốt trong khung lý thuyết của phái nữ quyền. Họ cho rằng bất bình đẳng giới trong gia đình cần phải được giải thích dưới dạng sự phân công các vai trò giới mà đến lượt mình chỉ có thể hiểu được “bằng việc chúng ta đã nuôi dạy con cái như thế nào, bằng sự phân công lao động theo giới tính, bằng các định nghĩa văn hóa về cái gì là thích hợp đối với mỗi giới, và bằng các sức ép xã hội mà chúng ta đặt lên mỗi một trong hai giới” [3].
Cách tiếp cận phát triển (đường đời)
Chúng ta biết rằng, các gia đình đều có đường đời (gồm các giai đoạn: thành lập, mở rộng, ly hôn (đối với một số người), chia tách và tan rã), nhưng không phải mọi gia đình đều theo cùng một chuỗi và dãy các sự kiện.
Paul Glich và Evelyn Duvall là những người đầu tiên đề xuất cách tiếp cận phát triển ở Mỹ. Các lý thuyết cụ thể thuộc hướng tiếp cận này vừa mang tính vĩ mô, vừa mang tính vi mô. Gia đình được coi như một nhóm xã hội tồn tại theo thời gian, thể hiện trong đó một quá trình lịch sử tác động qua lại trong nội bộ cũng như tác động qua lại với xã hội. Cách tiếp cận phát triển là đưa ra một khung phân tích lịch đại hay dài hạn để nghiên cứu gia đình. Những nghiên cứu này không chỉ phỏng vấn các thành viên trong gia đình một lần rồi thôi, mà là những nghiên cứu lặp lại sau một thời khoảng nào đó (nghiên cứu lịch đại) đã theo dõi cá nhân và các gia đình theo thời gian. Nói cách khác, cách tiếp cận này không coi gia đình như một cấu trúc tĩnh mà gia đình là một cấu trúc luôn phát triển và biến đổi theo thời gian [3].
Tiếp cận phát triển khảo sát sự diễn biến, phát triển và thay đổi của các gia đình trong bối cảnh kinh tế xã hội cụ thể, và xem xét động thái giữa các đoạn đời khác nhau của các thành viên. Đường đời một cá nhân có khi không phù hợp với đường đời các thành viên khác trong gia đình. Cách tiếp cận này đặc biệt bổ ích trong việc nghiên cứu các hiện tượng, quan hệ giữa các thế hệ trong bối cảnh các thời kỳ lịch sử khác nhau, đồng thời giúp cho việc phân tích các giai đoạn của vòng đời gia đình gắn với những biến chuyển của lịch sử [3]. Như vậy, cách tiếp cận này cho thấy hành vi của cá nhân và gia đình bị ảnh hưởng bởi những biến đổi lịch sử ở cấp độ xã hội do các yếu tố bên ngoài mang lại.
Cách tiếp cận thuyết vùng văn hóa
Với đại diện là F. Boas (1858-1942) – một nhà nhân chủng học có ảnh hưởng lớn đến các khuynh hướng nghiên cứu văn hoá Mỹ vào nửa đầu thế kỷ XX. Theo F. Boas, một mặt ông thừa nhận tính thống nhất và quy luật chung của phát triển văn hoá nhân loại; nhưng mặt khác, cũng khẳng định một cách hoàn toàn có lý rằng, văn hoá của mỗi dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử gắn liền với môi trường xã hội nhất định và trong điều kiện địa lý cụ thể.
Hiểu một cách cụ thể hơn, vùng văn hóa được hiểu là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt hoàn cảnh tự nhiên, dân cư ở đó lâu đời đã có những mối quan hệ nguồn gốc lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế – xã hội; giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân. Vùng văn hóa được hình thành và tồn tại là kết quả tác động của nhiều nhân tố tự nhiên, xã hội và lịch sử trong đó quan hệ giao lưu và ảnh hưởng qua lại có vai trò quan trọng hàng đầu. Trong vùng văn hóa có một hoặc nhiều tộc người cùng sinh sống, giữa các tộc người luôn có sự giao tiếp lâu dài về văn hóa, dẫn tới sự biến đổi một số đặc điểm, thậm chí là tổng thể văn hóa của các cộng đồng. Thực tế lịch sử cho thấy, bất kỳ một cộng đồng tộc người nào cũng có mối quan hệ với các tộc người xung quanh. Sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa là nhân tố kích thích và hình thành, nảy nở các hiện tượng văn hóa mới. Một cồng đồng phát triển hay tiêu vong văn hóa tùy thuộc vào yếu tố nội sinh – truyền thống của chính cộng đồng ấy trong giao tiếp. Khi yếu tố nội sinh đủ mạnh, nó tự lựa chọn và bản địa hóa những yếu tố văn hóa mới tiếp thu được từ cộng đồng khác làm phong phú thêm văn hóa của cộng đồng mình [5].
Rõ ràng là, giữa vùng văn hoá – lịch sử với các loại cộng đồng kể trên có mối quan hệ gắn bó, bởi lẽ, trong một không gian địa lý nhất định (miền, vùng, tiểu vùng) có thể sinh sống những nhóm cư dân thuộc các chủng tộc nhất định, nói các ngôn ngữ xác định, thuộc về các dân tộc hay theo các tôn giáo nào đó. Tuy vậy, phạm vi giữa vùng văn hoá – lịch sử với phạm vi các cộng đồng kể trên không nhất thiết trùng khớp nhau. Thường là trong một vùng văn hoá – lịch sử có thể là nơi sinh sống của các nhóm cư dân thuộc các loại hình nhân chủng khác nhau, nói các ngôn ngữ khác nhau, tự nhận mình thuộc các tộc người khác nhau, thậm chí theo những tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Điều quan trọng nhất không phải là sự trùng khớp kể trên, mà là mối quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa họ trong quá trình lịch sử như thế nào, để giữa họ hình thành nên những đặc trưng chung về văn hoá và lối sống.
Vận dụng cách tiếp cận này đặc biệt hữu ích cho những nghiên cứu về văn hóa gia đình. Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã cho thấy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá gia đình Việt Nam vẫn được bảo vệ, gìn giữ và đang truyền tiếp trong các thế hệ gia đình tại các vùng miền, thể hiện ở sự đùm bọc, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên các thế hệ gia đình, trong tình thương yêu của huyết thống dòng họ, với sự gắn bó linh thiêng giữa những người đang sống và những người đã khuất. Từ đó, cho thấy những bản sắc văn hóa của từng vùng miền qua việc đi sâu tìm hiểu nếp sống, gia phong của gia đình, khu biệt các tiêu chí để phân định và làm nổi bật nét riêng đặc sắc của văn hóa gia đình giữa các vùng miền.
Cách tiếp cận thuyết giao lưu – tiếp biến văn hóa
Lý thuyết này dùng để diễn giải quá trình thay đổi hoặc biến đổi một số loại hình văn hóa của cả hai nền văn hóa diễn ra do sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn hóa khác nhau.
Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa là quá trình một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng từ một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy. Vì thế, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó là sự trao đổi của những đặc tính văn hóa nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục.
Tiếp biến văn hóa còn có thể được cấu trúc rõ ràng về mặt xã hội như trong trường hợp xâm lược hay trong các tình trạng bất bình đẳng về mặt xã hội hoặc chính trị khác định hướng dòng chảy của các yếu tố văn hóa. Tiếp biến văn hóa bao gồm các quá trình khác nhau, gồm khuyếch tán, thích nghi mang tính ứng phó, các loại hình thái tổ chức xã hội và văn hóa khác nhau sau tiếp xúc và giải văn hóa hay phân giải văn hóa. Một loạt các điều chỉnh phát sinh, gồm việc có được sự tự trị đáng kể văn hóa hay điển hình hơn, là sự đồng hóa của nhóm tiếp xúc yếu hơn bởi nhóm tiếp xúc mạnh hơn và sự hỗn dung văn hóa, nhờ đó hai văn hóa có thể trao đổi các yếu tố để sau đó tạo ra một nền văn hóa riêng [6].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, của văn hóa, gắn bó với tiến hóa xã hội và cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa. Giao lưu và tiếp biến văn hóa vừa là kết quả của sự trao đổi văn hóa, vừa là chính bản thân của sự trao đổi ấy, do đó sự giao lưu tiếp biến văn hóa có một tầm quan trọng trong lịch sử nhân loại. Nói cách khác, giao lưu, tiếp biến văn hóa là quy luật tồn tại và phát triển của mọi nền văn hóa và mọi xã hội từ xưa đến nay.
Lý thuyết này được vận dụng nhiều trong nghiên cứu về văn hóa gia đình. Cụ thể, cách tiếp cận thuyết này sẽ lý giải sự biến đổi các nghi lễ trong gia đình. Sự biến đổi của các nghi lễ gia đình còn được xem xét dưới tác động của sự biến đổi môi trường tự nhiên – xã hội và sự biến đổi nội sinh. Như chúng ta đã biết, văn hóa không phải là cái bất biến mà nó luôn vận động, biến đổi để duy trì và phát triển yếu tố truyền thống. Đặc biệt là trong thời điểm hiện nay, dưới tác động của quá trình phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập thì sự biến đổi của gia đình và văn hóa gia đình đang diễn ra ngày càng rộng lớn về quy mô và nhanh, mạnh về cường độ.
Lời kết
Những cách tiếp cận trên cho thấy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề gia đình và văn hóa gia đình tùy theo mục đích, đối tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học, của các quan điểm nhận thức. Mỗi cách tiếp cận lý thuyết thường chỉ giải thích được một số khía cạnh nhất định của đời sống gia đình. Sẽ không có một lý thuyết nào có thể lý giải cho toàn bộ các vấn đề của gia đình, hay nói cách khác, một số khía cạnh của đời sống gia đình chỉ thích hợp với việc vận dụng lý thuyết này mà không thích hợp với việc vận dụng lý thuyết kia.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi nghiên cứu về gia đình, văn hóa gia đình thì việc chọn một cách tiếp cận lý thuyết sẽ ảnh hưởng đến cách diễn giải dữ liệu, cũng như các kết luận khác nhau dù cùng một chất liệu. Có trường hợp khi lựa chọn kết hợp một vài cách tiếp cận sẽ đưa ra những lý giải sâu sắc và đầy đủ, bổ sung cho cho nhau. Hoặc khi hai cách tiếp cận có thể trái ngược nhau thì các nhà nghiên cứu hoàn toàn có thể kiểm nghiệm cách tiếp cận nào đúng bằng cách xét xem các sự kiện xã hội hỗ trợ cách tiếp cận nào. Từ đó, các nhà nghiên cứu sẽ có những quyết định lựa chọn cách tiếp cận các lý thuyết phù hợp với mục đích, đối tượng cũng như quan điểm nghiên cứu của chính mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cheal, D (1991), Family and the State of Theory, Hertfordshire: Harvester Wheatsheaf.
Goode, William J (1992), Housewives and Employed Wives: Demographic and Attitudinal Change, 1972-1986. Journal of Marriage and the Family, vol. 54, pp. 559-569.
Mai Huy Bích (2011), Xã hội học gia đình, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Hồ Ngọc Đại (1990), “Tam giác gia đình”, Tạp chí Xã hội học, số 3. Tr. 35.
Nguyễn Thị Song Hà (2011), Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Mường ở Hòa Bình, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Từ điển Nhân học, bản dịch tiếng Việt, tập 1 – 2, lưu tại Thư viện Dân tộc học, Hà Nội, ký hiệu TĐ 86, TĐ 89.
Lê Ngọc Văn, 2011, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phát triển số 17, tháng 3/2016
Tiền Ảo Và Một Số Vấn Đề Pháp Lý Đặt Ra Ở Việt Nam Hiện Nay
Tóm tắt: Với các công nghệ mang tính đột phá, cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra nhiều vấn đề pháp lý mới, trong đó có vấn đề tiền ảo. Thông qua việc tìm hiểu chính sách, pháp luật Việt Nam hiện hành về tiền ảo, bài viết đưa ra các đánh giá về mức độ đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của pháp luật nước ta về vấn đề này; từ đó, đề xuất một số kiến nghị mang tính định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật cho phù hợp.
Sự phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học, công nghệ và được đánh dấu bằng các cuộc cách mạng công nghiệp lớn. Các cuộc cách mạng công nghiệp này tạo ra nhiều thành tựu và mang lại nhiều lợi ích cho con người, giúp giải phóng sức lao động, nâng cao năng suất lao động và giá trị cuộc sống…*
1. Chính sách, pháp luật Việt Nam hiện hành về tiền ảo
– Thông cáo báo chí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tiền ảo
Ngày 27/2/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lần đầu tiên ra thông cáo báo chí về tiền ảo[1]. Nội dung của Thông cáo tập trung vào một số vấn đề cơ bản như sau:
Thứ nhất, khẳng định Bitcoin là một dạng tiền kỹ thuật số (tiền ảo), không được phát hành bởi Chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo ra và vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng.
Thứ hai, khẳng định sự xuất hiện của Bitcoin đã gây ra nhiều tác hại, rủi ro cho người sử dụng như: Có thể trở thành công cụ cho tội phạm như rửa tiền, buôn bán ma túy, trốn thuế, giao dịch, thanh toán tài sản phi pháp; nguy cơ bị tấn công, đánh cắp, thay đổi dữ liệu hoặc bị ngừng giao dịch là rất lớn; hoạt động đầu tư vào Bitcoin ẩn chứa nhiều nguy cơ về bong bóng tài chính, gây thiệt hại cho người đầu tư; giao dịch Bitcoin không bị chi phối và kiểm soát bởi cơ quan quản lý nhà nước nào, do đó, người sở hữu Bitcoin sẽ chịu toàn bộ rủi ro vì không có cơ chế bảo vệ quyền lợi.
Thứ ba, việc sử dụng Bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự khác) làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Các tổ chức tín dụng không được phép sử dụng Bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự khác) như một loại tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán khi cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
Thứ tư, việc sở hữu, mua bán, sử dụng bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự khác) như một loại tài sản tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho người dân và không được pháp luật bảo vệ.
Tiếp theo Thông cáo báo chí ngày 27/2/2014, sáng ngày 28/10/2017, trong văn bản gửi cơ quan báo chí, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã khẳng định Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Theo đó, việc phát hành, cung ứng, sử dụng Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác làm phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm tại Việt Nam[2].
(i) Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản nhằm giải quyết thực tiễn tất yếu đang tồn tại và sẽ diễn ra;
Đồng thời, việc hoàn thiện khung pháp lý này hướng tới ba mục tiêu:
(i) Nghiên cứu, nhận diện đầy đủ, chính xác bản chất của tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo theo kinh nghiệm nước ngoài và thực tiễn Việt Nam; mối quan hệ với tài sản thực, tiền thực; vai trò của tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo và tác động của tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo tới pháp luật;
– Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tiền ảo
1.2. Đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về tiền ảo
Thứ nhất, về khái niệm tiền ảo
Thứ hai, trong lĩnh vực pháp luật dân sự
Trong giao lưu dân sự, tài sản là đối tượng chủ yếu của các quan hệ giữa những chủ thể được pháp luật dân sự điều chỉnh. Theo quan điểm của chúng tôi, đối chiếu với quy định của pháp luật dân sự hiện hành thì tiền ảo không được coi là tài sản hay hàng hoá, bởi lẽ:
Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bảo gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Theo định nghĩa trên, tài sản chỉ tồn tại ở một trong bốn dạng:
– Vật: Là một bộ phận của thế giới vật chất tồn tại dưới dạng rắn, lỏng, khí và con người có thể chiếm hữu, kiểm soát được; ví dụ như nhà, xe, bàn ghế…
– Tiền: Là phương tiện thanh toán do Ngân hàng Nhà nước phát hành, được Nhà nước bảo hộ dùng để định giá các loại tài sản khác. Tiền bao gồm tiền nội tệ và ngoại tệ. Tiền có thể tồn tại dưới dạng giấy, polymer, xu hoặc tiền điện tử (e-money).
– Giấy tờ có giá: Là loại giấy tờ trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá phải do các chủ thể được phép phát hành. Giấy tờ có giá bao gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, hối phiếu, công trái…
– Quyền tài sản: Là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác như quyền đòi nợ, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt…
Như vậy, đối chiếu với quy định trên, tiền ảo không được coi là tài sản vì nó không thuộc bất kỳ loại nào trong bốn loại nêu trên.
Về bản chất pháp lý của tiền ảo dưới góc độ pháp luật dân sự, cũng có quan điểm cho rằng, tiền ảo có thể coi là một loại quyền tài sản. Cụ thể: “Căn cứ vào những đặc trưng của tài sản mã hóa (hay tài sản ảo nói chung), có thể thấy đây đều là những “tài sản” không có đặc tính vật lý (được hình thành từ các thông tin tồn tại dưới dạng các đoạn mã máy tính), được trị giá bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Như vậy, quyền đối với tài sản mã hóa (hay tài sản ảo nói chung) là một loại quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”[4].
Theo chúng tôi, quan điểm trên mới chỉ đưa ra nhận định “quyền đối với tài sản ảo” là “quyền tài sản” chứ chưa có kết luận “tiền ảo hoặc tài sản ảo” là loại tài sản gì trong số bốn loại tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Ở đây, “tiền ảo” là đối tượng của quyền mà quan điểm trên nhận định chứ bản thân “tiền ảo” không phải là quyền.
Nếu kết luận tiền ảo là quyền tài sản thì có lẽ cũng là một nhận định cần nghiên cứu thêm, bởi lẽ quyền luôn là xử sự được phép của chủ thể mang quyền được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quyền tài sản là một loại tài sản vô hình, nên xét về lý luận, nếu có hành vi xâm phạm đến quyền tài sản thì không thể áp dụng phương thức “kiện đòi lại tài sản” hay “kiện vật quyền” như đối với vật, mà chỉ có thể áp dụng phương thức khác như kiện yêu cầu chấm dứt hành vi hoặc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, đối với tiền ảo thì đây hoàn toàn không phải là xử sự, bởi tiền ảo thực chất là một thuật toán (dãy số) trên nền tảng công nghệ Blockchain. Hơn nữa, khi bị chiếm đoạt, chủ thể bị xâm phạm mong muốn đòi lại số tiền ảo đó. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, tiền ảo hiện nay không phải là một loại tài sản được công nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Thiết nghĩ, trong thời gian tới, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về nội dung này.
Thứ ba, trong lĩnh vực pháp luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, rửa tiền được hiểu là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm cả hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định, hành vi được coi là phạm tội rửa tiền có thể là: “Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có”. Ở đây, giao dịch khác không được xác định cụ thể là giao dịch gì nên có thể hiểu mọi giao dịch (ngoài giao dịch tài chính, ngân hàng) nhằm mục đích đã được xác định tại quy định trên đều là phạm tội rửa tiền. Tuy nhiên, động cơ của tội phạm này phải nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có. Trong khi đó, tiền ảo lại chưa được công nhận là tiền hay tài sản ở Việt Nam, nên tuỳ từng trường hợp, chủ thể có thể bị xác định là phạm tội rửa tiền hoặc không. Ví dụ, một người nhận hối lộ bằng tiền ảo và sau đó thực hiện các hoạt động rửa số tiền này thì không phạm tội; nhưng một người nhận hối lộ bằng tiền thật sau đó đổi sang tiền ảo rồi và thực hiện các hoạt động rửa tiền khác thì lại có thể phạm tội rửa tiền. Điều này cho thấy sự bất hợp lý trong quy định của pháp luật khi cùng một hành vi nhưng lúc thì không, lúc thì có bị coi là hành vi phạm tội.
Trường hợp cá nhân, tổ chức sử dụng các giao dịch tiền ảo nhằm mục đích rửa tiền sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội rửa tiền được quy định tại Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Theo quy định tại Điều này, cá nhân là người phạm tội có thể phải chịu mức hình phạt tù lên đến 15 năm, đồng thời có thể bị phạt tiền lên đến 100 triệu đồng, bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội này thì có thể bị phạt tiền lên đến 5 tỷ đồng.
Thứ tư, trong lĩnh vực pháp luật thuế
Một minh chứng cụ thể đó là ngày 21/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã ra phán quyết với nội dung huỷ Quyết định 714 của Chi cục Thuế thành phố Bến Tre về việc truy thu hơn 981 triệu đồng tiền thuế giá trị gia tăng và hơn 1,6 tỉ đồng tiền thuế thu nhập cá nhân đối với ông Nguyễn Việt Cường vì ông này tham gia trao đổi tiền ảo (Bitcoin). Theo Hội đồng xét xử, hiện chưa có luật công nhận tiền ảo Bitcoin là hàng hoá. Việc cơ quan thuế ra quyết định truy thu thuế trong trường hợp này là mặc nhiên công nhận loại tiền này là hàng hoá trong khi đề án về khung pháp lý để quản lý, xử lý loại tiền này chỉ mới đang được xây dựng. Việc truy thu thuế không phù hợp sẽ ảnh hưởng đến hoạt động quản lý tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tạo điều kiện để chuyển tiền bất hợp pháp, thanh toán chuyển tiền cho các giao dịch bất hợp pháp… Mặt khác, tại quyết định truy thu thuế, cơ quan thuế có ghi nhận rằng không xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Cường do hình thức kinh doanh mua bán tiền kỹ thuật số trên mạng internet là một loại hình mới phát sinh, các văn bản hướng dẫn áp dụng thu thuế còn chậm. Điều đó thể hiện việc mua bán loại tiền này chưa có văn bản hướng dẫn thi hành…[9].
Thứ năm, trong lĩnh vực pháp luật kinh doanh
Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm. Trường hợp các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh, mua bán, chuyển nhượng, huy động vốn hoặc góp vốn bằng tiền ảo thì không bị cấm bởi đó là quyền mà Luật Doanh nghiệp năm 2014 ghi nhận cho các doanh nghiệp được hưởng.
2. Một số kiến nghị
Xây dựng pháp luật bắt kịp với sự phát triển của khoa học và công nghệ là một thách thức không chỉ với Việt Nam mà với nhiều quốc gia trên thế giới. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển vô cùng nhanh chóng, vượt bậc của khoa học và công nghệ, nền kinh tế ảo trong thế giới mạng cũng phát triển không ngừng. Trong nền kinh tế ảo đó, rất nhiều loại hàng hoá, dịch vụ mới được hình thành, tạo ra những khoảng trống về mặt pháp lý cần có sự điều chỉnh, mà tiền ảo là một ví dụ cụ thể. Để tận dụng những cơ hội to lớn mà khoa học và công nghệ mang lại, Việt Nam cần xây dựng và ban hành mới hoặc là sửa đổi pháp luật để điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ các hình thức giao dịch mới, các loại tài sản mới nhằm hạn chế rủi ro, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, các tổ chức, cá nhân tham gia. Cách mạng công nghiệp 4.0 yêu cầu pháp luật phải có sự điều chỉnh để đáp ứng những đòi hỏi của xã hội hiện đại. Trong quá trình hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh đối với tiền ảo, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần có một định nghĩa rõ ràng cụ thể về tiền ảo
Thứ hai, cần ghi nhận tiền ảo là một loại tài sản mới
Trong thời gian tới, Việt Nam cần ghi nhận tiền ảo là một loại tài sản mới trong Bộ luật Dân sự – tài sản kỹ thuật số. Khái niệm về tài sản tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 cần có sự sửa đổi theo hướng bổ sung thêm“các loại tài sản khác do pháp luật quy định”.
Thứ ba, chưa nên công nhận tiền ảo là phương tiện thanh toán
Trong tương lai, khi nền tảng công nghệ, thị trường tài chính đã phát triển, sự tồn tại và phát triển của đồng tiền ảo đã ổn định thì lúc đó Việt Nam mới tính đến việc cân nhắc, xem xét tiền ảo có là một phương tiện thanh toán hay không.
Thứ tư, cần coi tiền ảo là một loại tài sản đặc biệt lưu thông có điều kiện
Như đã phân tích, do không công nhận là tài sản, Việt Nam không tiến hành thu thuế đối với các hoạt động kinh doanh và giao dịch tiền ảo. Điều này làm giảm thiểu một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Khi chúng ta đã công nhận tiền ảo là tài sản thì nó cũng trở thành hàng hoá (theo quy định của Luật Thương mại) và khi đó tiền ảo sẽ trở thành đối tượng chịu thuế theo quy định của pháp luật thuế.
Thứ sáu, cho phép và kiểm soát các hoạt động phát hành tiền ảo ra công chúng (ICO)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2018) thì:
“Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán;
c) Hợp đồng góp vốn đầu tư;
d) Các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định”.
Khi pháp luật điều chỉnh các hoạt động ICO đối với tiền ảo được rõ ràng, các hoạt động này trên thực tế sẽ được kiểm soát. Khi đó, các doanh nghiệp phát hành tiền ảo ra công chúng sẽ phải đảm bảo đủ điều kiện và được cấp phép. Điều này sẽ góp phần hạn chế rất lớn các hoạt động ICO đa cấp, mang tính chất lừa đảo, đồng thời hạn chế được các rủi ro khác.
Thứ bảy, cho phép thành lập và kiểm soát các sàn giao dịch tiền ảo
Tương tự với các loại chứng khoán khác, khi được công nhận là chứng khoán thì tiền ảo cũng có thể được giao dịch thông qua các sàn giao dịch chứng khoán được phép hoạt động. Tuy nhiên, do đặc trưng của tiền ảo là chỉ tồn tại trên môi trường kỹ thuật số, có tính ẩn danh rất cao, các giao dịch về tiền ảo được thực hiện trên một nền tảng công nghệ mới – công nghệ Blockchain, Việt Nam nên thành lập các sàn giao dịch tiền ảo độc lập và riêng biệt để các chủ thể giao dịch tiền ảo tại các sàn này. Sàn giao dịch tiền ảo đòi hỏi một hạ tầng công nghệ thông tin khác biệt, trình độ cao, có sự quản lý đặc thù. Khi đã thiết lập các sàn này, Nhà nước cần kiểm soát thông qua việc yêu cầu đăng ký tài khoản cá nhân cũng như đăng ký kinh doanh đối với chủ thể tham gia giao dịch tiền ảo, từ đó mới có thể kiểm soát được chặt chẽ số lượng các giao dịch tiền ảo.
Văn Hóa Chính Trị Trong Đảng Và Một Số Vấn Đề Đặt Ra Hiện Nay
Văn hóa chính trị trong Đảng và một số vấn đề đặt ra hiện nay
Văn hóa chính trị thời nào cũng có và luôn vận động, thay đổi. Dù có thăng trầm, thoái bộ hay tiến bộ, thì dòng chảy văn minh chính trị vẫn luôn tồn tại, thậm chí trong nhiều thời kỳ còn đóng vai trò là “dòng chảy” chủ đạo, mang tính định hướng, dẫn dắt các “dòng chảy” khác. Từ khi ra đời, sự vận động chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy rất rõ tính tiếp biến của văn hóa chính trị, tuy có thăng, có trầm, nhưng căn bản là ngày càng hoàn thiện, ngày càng tạo dựng được vị thế chính trị – xã hội trong lòng nhân dân.
Văn hóa chính trị trong Đảng ngày càng tạo dựng được vị thế chính trị – xã hội trong lòng nhân dân (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm hỏi đồng bào ở buôn Nui, xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông). Nguồn: chinhphu.vn
Văn hóa chính trị trong Đảng hiện nay
Văn hóa có rất nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, có những điểm tương đồng, nhất quán cơ bản là: văn hóa là cái đẹp, là giá trị được tích lũy từ hoạt động lao động của con người, hướng tới sự hoàn thiện.
Văn hóa trong Đảng cũng bao hàm các giá trị hướng đến cái đẹp, hướng đến sự hoàn thiện, nhất là trong hoạt động của từng đảng viên và tổ chức đảng. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi ra đời và trong suốt 90 năm qua, những nét văn hóa chính trị đặc trưng được thể hiện ở chỗ vừa có sự kế thừa, sàng lọc, mang tính tiếp biến của văn hóa chính trị các thời kỳ, vừa có sự kết tinh của những giá trị văn hóa, khoa học chính trị tiên tiến của thời đại. Bài viết đề cập đến một số góc nhìn về văn hóa chính trị cụ thể:
Một là tính thẩm mỹ, nghĩa là phù hợp với phạm trù “cái đẹp”, thỏa mãn nhu cầu giải trí, tinh thần. Nếu xét sinh hoạt đảng dưới giác độ văn hóa chứa đựng yếu tố thẩm mỹ thì đó là thẩm mỹ chính trị. Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo là một trong những biểu hiện sinh động về văn hóa chính trị dưới giác độ thẩm mỹ. Nó đẹp vì tính đại chúng (dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm theo) của ngôn từ, vì tính nhân bản (hướng tới đời sống tốt đẹp của người lao động) của nội dung, và là sản phẩm trí tuệ của một nhân cách lớn, được ngưỡng mộ (chứng minh bằng sự tôn vinh của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc – UNESCO).
Hai là tính tích tụ giá trị theo dòng thời gian. Những giá trị văn hóa được lưu giữ từ đời này qua đời khác. Theo thời gian, cái đẹp sẽ tự lọc bỏ những yếu tố “phản văn hóa”. Các công trình hàng ngàn năm khi được tu sửa cần theo nguyên tắc bảo tồn tối đa mới có giá trị. Thời gian là thước đo, là thử thách của những giá trị lao động và giao tiếp của con người. Khách du lịch đến quốc gia nào cũng đều rất chú ý thăm quan các di tích lịch sử, văn hóa bởi ở đó tích tụ văn hóa đặc trưng nhất cho thấy đặc điểm văn hóa, con người trong từng giai đoạn, của từng dân tộc. Nhìn chung, văn hóa chính trị của Đảng được thể hiện đậm nét thông qua các giá trị văn hóa cả vật thể và phi vật thể, trong các di tích lịch sử - văn hóa, các bảo tàng lịch sử… trên cả nước.
Ba là tính tiếp biến văn hóa. Tiếp biến là sự ổn định nhưng có phát triển, sàng lọc và có bổ trợ, tiếp nhận và có truyền bá giá trị văn hóa nhân loại. Tiếp biến cũng là phạm trù động, nghĩa là luôn có sự vận dụng và cải cách. Đây cũng chính là sự vận động trong đời sống chính trị của Đảng ta. Tính tiếp biến hướng tới sự hoàn thiện của con người – chủ thể các giá trị văn hóa, thể hiện ngay trong cộng đồng, địa phương, nội bộ các sắc tộc và có tính quốc tế. Hiện tượng lan tỏa quốc tế về văn hóa có từ lâu, trong đó có văn hóa chính trị, văn hóa đảng phái.
Trong thực tiễn xã hội, nhóm lợi ích tồn tại theo các cộng đồng, các lực lượng khác nhau, có nhóm theo tiêu chí giới (đàn ông và đàn bà), theo thế hệ (lớp già và lớp trẻ), theo nghề nghiệp, tầng lớp (như nông dân, công nhân, trí thức…) và theo ý thức hệ, nhất là ý thức giai cấp. Nhóm lợi ích muốn bảo vệ lợi ích của nhóm, thì trước hết ngoài sự phải vượt trội về kinh tế, còn phải sử dụng lợi thế chính trị bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có giải pháp trực tiếp tham gia vào bộ máy quyền lực (công quyền, nhà nước). Khi đó pháp luật sẽ hình thành theo hướng có sự chi phối của nhóm lợi ích do các đảng có người đại diện. Vì vậy, mục đích trực tiếp trong xã hội của các đảng chính trị là giành và sử dụng quyền lực nhà nước của nhóm lợi ích giai cấp. Các đảng chính trị đều giống nhau ở bản chất là đại diện cho lợi ích gia cấp nhất định; nhưng khác nhau ở chỗ nhóm lợi ích giai cấp có đồng hành phụng sự dân tộc, đất nước hay không, đồng hành nhiều hay ít, đồng hành bằng chủ trương, chiến lược, giải pháp nào mà thôi. Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời phỏng vấn các nhà báo nước ngoài, ngày 21-1-1946: “… Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam…”(1) là lối nói ẩn dụ chính trị rất hay về văn chương, rất sâu sắc về đạo đức chính trị, phản ánh động cơ, phương hướng, lương tâm chính trị của một đảng viên mà ngày nay Điều lệ Đảng khẳng định: Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ, người sáng lập Đảng nên đó cũng là mong muốn của Người về Đảng, mong muốn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà không thừa nhận tính lợi ích của một đảng. Lợi ích của một đảng chính trị càng đi cùng với lợi ích của dân tộc bao nhiêu thì tính văn hóa của đảng đó càng cao bấy nhiêu.
Nghiên cứu về đảng chính trị ở Việt Nam, trước hết thuộc về khoa học chính trị và luôn cần có những khái niệm căn bản. Nghiên cứu “văn hóa trong đảng” là nghiên cứu các khái niệm, cần, kiệm, liêm, chính (của đảng viên)…, nghiên cứu mặt tích cực, tiến bộ, cái giá trị, như tính tiên phong của Đảng, tính gương mẫu (của đảng viên), sự trung thành (của đảng viên với Đảng và của Đảng với lý tưởng, đường lối đã vạch ra)…. Những khái niệm phản ánh sự đối lập, như “lười nhác” trái với “cần”; “lãng phí” trái với “kiệm”, “luồn cúi” trái với “chính”… chính là việc đi ngược văn hóa trong đảng. Bức tranh tổng quát về sự phát triển của Đảng ta và những đặc sắc văn hóa trong đảng có thể khái quát như sau: Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đã theo đuổi mục tiêu lấy lợi ích của đại đa số những người lao động, lợi ích dân tộc, lấy mục tiêu độc lập, hùng cường, thịnh vượng của dân tộc… làm tiêu chí xây dựng và trưởng thành. Đảng ta đã trải qua không ít gian khó, trải qua các hình thái khác nhau về đấu tranh và xây dựng, khác biệt và thống nhất cao, cam go và thử thách… để có được những giá trị văn hóa tốt đẹp (trong Đảng và các đảng viên) như ngày hôm nay, được thể hiện trên nhiều mặt.
Thứ nhất, là tính “nhất quán chính trị”, đó là nhất quán từ xây dựng thể chế, xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ… và bao trùm lên tất cả là yếu tố văn hóa bởi sự nhất quán này phản ánh và đáp ứng xu thế tiến bộ của con người và của thời đại.
Thứ hai, là tính “nhạy bén chính trị”. Tính nhạy bén thể hiện ngay từ những ngày đầu thành lập và giữ vai trò lãnh đạo của Đảng, đó là sự sáng suốt trong dẫn dắt đất nước đi qua từng giai đoạn, từ chiến tranh đến thống nhất đất nước, là những quyết sách đổi mới kinh tế – xã hội trong hòa bình, những ứng biến trong quan hệ quốc tế…
Thứ ba, là tính đồng hành cùng dân tộc qua sự lắng nghe, tiếp thu phản biện, năng lực giải trình của Đảng mà biểu hiện cụ thể là phẩm chất “tự chỉ trích” nghĩa là dũng cảm thừa nhận những sai lầm, thậm chí sai lầm về chủ trương. Đây đang là một trong những yếu tố văn hóa rất được chú trọng trong Đảng hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng – đây thực sự là một cảnh báo chính trị văn minh. Hiện nay, việc thẳng thắn chỉ ra những khiếm khuyết bằng những khái niệm cốt lõi: “thoái hóa”, “biến chất”, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; … đã cho thấy sự chuyển biến quan trọng về nhận thức.
Một đảng chính trị đạo đức, văn minh phải là một đảng mạnh về tổ chức, có cơ sở triết lý theo đuổi, có khả năng dẫn dắt một dân tộc - quốc gia phát triển bền vững, có tín nhiệm, tạo được sự hài lòng và đồng thuận với nhân dân và củng cố vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Từ quan điểm chứa đựng yếu tố văn hóa nói về Đảng Cộng sản Việt Nam “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” thì thấy các thuộc tính trong quan niệm về đảng văn minh cũng chính là những tiêu chí hoàn thiện của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối xây dựng Đảng và lãnh đạo đất nước chính là thực hiện sứ mệnh chính trị (sứ mệnh cầm quyền) và sự tự hoàn thiện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận thức những vấn đề đặt ra hiện nay cần phải giải quyết thì có nhiều nhưng có thể nêu một số nhóm vấn đề có tính căn bản, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta.
Xem xét yếu tố văn hóa chính trị trong Đảng từ góc độ lãnh đạo, cầm quyền cho thấy:
Vấn đề thứ nhất, văn hóa chính trị của Đảng thể hiện ở sự lãnh đạo của Đảng thông qua Nhà nước, ở việc huy động được sức mạnh toàn dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong lý luận về hình thái kinh tế – xã hội, V.I.Lênin đã chỉ ra, xã hội mới thay thế được xã hội cũ bằng chính năng suất lao động nó đạt được. Có nghĩa là với vị thế một đảng cầm quyền, lực lượng chính trị dẫn dắt xã hội, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng là phải xây dựng một nền kinh tế có năng suất lao động ngày càng cao để bảo đảm tính hơn hẳn của chế độ, đó chính là vấn đề văn hóa chính trị căn bản của Đảng giữ trọng trách cầm quyền.
Vấn đề thứ hai là trong mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia. Hiện nay đã và đang có lúc, có nơi, có nhà nước đặt vấn đề lợi ích dân tộc một cách quá mức đã tạo ra sự xung đột lợi ích. Họ đã bỏ qua các nguyên tắc, các quy định của luật pháp quốc tế bằng nhiều cách thức. Có thể nói, chủ quyền quốc gia là lợi ích tiền đề trong các lợi ích của một dân tộc. Đảng ta luôn quán triệt và thực hiện nguyên tắc bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ theo công pháp quốc tế, và đây là cách hành xử văn minh.
Vấn đề thứ ba, đào tạo nhân tài và tạo môi trường cho nhân tài thể hiện. Nhân tài là ai, làm thế nào để xác định người tài, đó là việc của khoa học và quản lý đất nước mà bất kỳ đảng lãnh đạo nào, nhất là các đảng cầm quyền phải xác định được. Quan điểm về vị trí của nhân tài trong xã hội cũng phải được khẳng định bởi nhân tài quyết định sự phát triển của xã hội về mặt cơ hội, thúc đẩy và dẫn dắt. V.I.Lênin khẳng định, không có lãnh tụ, thì không có phong trào. Lãnh tụ là người tích tụ các yếu tố tài năng, uy tín gương mẫu (không bó hẹp khái niệm lãnh tụ trong hoạt động chính trị mà trong mọi lĩnh vực). Hiện trạng đất nước cho thấy, không chỉ chúng ta thiếu nhân tài, mà còn vì chưa có cơ chế sử dụng người tài một cách hiệu quả. Không thể chỉ lấy bằng cấp, học vị, hay bình xét để xác định nhân tài, mà giá trị kinh tế – xã hội của sản phẩm họ làm ra, sự đóng góp của họ vào sự phát triển của đất nước mới là tiêu chí để đánh giá nhân tài. Muốn có nhân tài phải xây dựng một môi trường văn hóa, nhân văn trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và đó chính là môi trường văn hóa chính trị quan trọng, là nền tảng bền vững, xây dựng niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng.
Xây dựng một môi trường văn hóa, nhân văn trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội là nền tảng bền vững xây dựng niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng (Trong ảnh: Tuổi trẻ Lữ đoàn 382 (Quân khu 1) trong buổi giao lưu văn nghệ với học sinh Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc). Nguồn: qdnd.vn
Xem xét yếu tố văn hóa trong Đảng từ góc độ biểu hiện, hành vi của đảng viên và các tổ chức của Đảng thời gian qua cho thấy có một số vấn đề nổi cộm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên:
Vấn đề thứ nhất là hiện tượng “thờ ơ chính trị”, đó là thái độ, tâm lý bỏ mặc việc xây dựng đảng cho Đảng, cho cấp trên, cho người khác, chỉ lo để bản thân.
Vấn đề thứ hai là vi phạm các tiêu chí “cần, kiệm, liêm, chính”. Từng cá nhân đảng viên phải thể hiện tính công minh, chính trực, sự minh bạch trong từng hoạt động chính trị, trong lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày. “Cần, kiệm, liêm, chính” không phải chỉ là những biểu hiện bên ngoài, mà còn bắt đầu từ tự nhận thức bản thân từ bên trong. Một đảng viên có nhận thức đúng đắn không thể chây lười, vi phạm chữ “cần”, không thể lãng phí để phạm vào chữ “kiệm”, họ phải có trách nhiệm, tự kiềm chế để rèn bản thân theo chữ “liêm”. Tham nhũng là gốc của mọi “khuyết tật” chính trị khác trong đạo đức chính trị của đảng viên. Mà đạo đức luôn đồng hành, tỷ lệ thuận với văn hóa. Người kém đạo đức không thể là người có văn hóa. Trong rèn luyện bản thân đối với đảng viên, chữ nào cũng quan trọng trong các tiêu chí cần, kiệm, liêm, chính nhưng chữ “chính” lại có tác động tới mọi “ngõ ngách” phẩm chất của con người nói chung và của đảng viên nói riêng.
Một số giải pháp cơ bản thời gian tới
Thứ ba, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, đề cao yếu tố văn hóa đạo đức trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực, xây dựng môi trường làm việc, môi trường kinh doanh,… lành mạnh; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa có tài, vừa có đức; tăng cường kiểm tra, giám sát trong Đảng, bảo đảm từng đảng viên, từng tổ chức đảng luôn kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo; luôn trung thành, gắn bó với nhân dân; coi trọng đoàn kết thống nhất trong Đảng, luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “cần, kiệm, liêm, chính”, thực hiện tốt Quy định về những điều đảng viên không được làm…/.
GS, TS. Nguyễn Hữu Khiển Nguyên Phó Giám đốc Học viện Hành chính quốc gia Theo Tạp chí Cộng sản điện tử Tâm Trang (st)
1. Xem “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền ở Việt Nam”, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dang-cam-quyen-o-viet-nam-2421, ngày 07-10-2015
Cập nhật thông tin chi tiết về Giá Trị Gia Đình Từ Tiếp Cận Lý Thuyết Và Một Số Vấn Đề Đặt Ra Với Việt Nam Trong Bối Cảnh Xã Hội Đang Chuyển Đổi* trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!