Xu Hướng 6/2023 # Định Lý Bernoulli (Vật Lý) # Top 13 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Định Lý Bernoulli (Vật Lý) # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Định Lý Bernoulli (Vật Lý) được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

nguyên tắc của Bernoulli nói rằng sự gia tăng tốc độ của Hydrodynamica vào phương trình Bernoulli ở dạng thông thường vào năm 1752. Nguyên tắc này chỉ áp dụng cho dòng chảy đẳng hướng: vì vậy khi ảnh hưởng của các quá trình Nguyên tắc của Bernoulli có thể được áp dụng cho các loại dòng chất lỏng khác nhau, dẫn đến các dạng khác nhau của phương trình Bernoulli ; có các dạng khác nhau của phương trình Bernoulli cho các loại dòng chảy khác nhau. Dạng đơn giản của phương trình Bernoulli có giá trị đối với các dòng không thể nén (ví dụ: hầu hết các dòng chất lỏng và khí di chuyển ở số Mach thấp). Các hình thức nâng cao hơn có thể được áp dụng cho các luồng có thể nén ở số Mach cao hơn (xem các đạo hàm của phương trình Bernoulli). Nguyên tắc của Bernoulli có thể bắt nguồn Nguyên tắc của Bernoulli cũng có thể được bắt nguồn trực tiếp từ Định luật Các hạt chất lỏng chỉ chịu áp lực và trọng lượng riêng của chúng. Nếu một chất lỏng chảy theo chiều ngang và dọc theo một phần của dòng, nơi tốc độ tăng thì chỉ có thể là do chất lỏng trên phần đó đã chuyển từ vùng có áp suất cao hơn sang vùng có áp suất thấp hơn; và nếu tốc độ của nó giảm, thì chỉ có thể là do nó đã chuyển từ vùng có áp suất thấp hơn sang vùng có áp suất cao hơn. Do đó, trong một chất lỏng chảy theo chiều ngang, tốc độ cao nhất xảy ra ở nơi áp suất thấp nhất và tốc độ thấp nhất xảy ra ở nơi áp suất cao nhất.

Trong động lực học chất lỏng,nói rằng sự gia tăng tốc độ của chất lỏng xảy ra đồng thời với việc giảm áp suất hoặc giảm năng lượng tiềm năng của chất lỏng. Nguyên tắc này được đặt theo tên của Daniel Bernoulli, người đã xuất bản nó trong cuốn sáchvào năm 1738. Mặc dù Bernoulli đã suy luận rằng áp suất giảm khi tốc độ dòng chảy tăng, nhưng Leonhard Euler đã đưa raở dạng thông thường vào năm 1752. Nguyên tắc này chỉ áp dụng cho dòng chảy đẳng hướng: vì vậy khi ảnh hưởng của các quá trình không thể đảo ngược (như nhiễu loạn) và các quá trình không tính toán (ví dụ bức xạ nhiệt) là nhỏ và có thể bị bỏ qua.Nguyên tắc của Bernoulli có thể được áp dụng cho các loại dòng chất lỏng khác nhau, dẫn đến các dạng khác nhau; có các dạng khác nhau của phương trình Bernoulli cho các loại dòng chảy khác nhau. Dạng đơn giản của phương trình Bernoulli có giá trị đối với các dòng không thể nén (ví dụ: hầu hết các dòng chất lỏng và khí di chuyển ở số Mach thấp). Các hình thức nâng cao hơn có thể được áp dụng cho các luồng có thể nén ở số Mach cao hơn (xem các đạo hàm của phương trình Bernoulli).Nguyên tắc của Bernoulli có thể bắt nguồn từ nguyên tắc bảo tồn năng lượng. Điều này nói rằng, trong một dòng chảy ổn định, tổng của tất cả các dạng năng lượng trong một chất lỏng dọc theo dòng tinh thể là giống nhau ở tất cả các điểm trên dòng đó. Điều này đòi hỏi tổng năng lượng động năng, thế năng và năng lượng bên trong không đổi. Do đó, sự gia tăng tốc độ của chất lỏng – ngụ ý sự gia tăng động năng của nó (áp suất động) – xảy ra với sự giảm đồng thời (tổng của) năng lượng tiềm năng của nó (bao gồm cả áp suất tĩnh) và năng lượng bên trong. Nếu chất lỏng chảy ra khỏi hồ chứa, tổng của tất cả các dạng năng lượng là như nhau trên tất cả các dòng, bởi vì trong hồ chứa năng lượng trên một đơn vị thể tích (tổng áp suất và thế năng hấp dẫn ρ g h) là như nhau ở mọi nơi.Nguyên tắc của Bernoulli cũng có thể được bắt nguồn trực tiếp từ Định luật chuyển động thứ hai của Isaac Newton. Nếu một khối lượng nhỏ chất lỏng chảy theo chiều ngang từ vùng áp suất cao đến vùng áp suất thấp, thì có nhiều áp lực phía sau hơn phía trước. Điều này cung cấp cho một lực ròng trên âm lượng, tăng tốc nó dọc theo dòng.Các hạt chất lỏng chỉ chịu áp lực và trọng lượng riêng của chúng. Nếu một chất lỏng chảy theo chiều ngang và dọc theo một phần của dòng, nơi tốc độ tăng thì chỉ có thể là do chất lỏng trên phần đó đã chuyển từ vùng có áp suất cao hơn sang vùng có áp suất thấp hơn; và nếu tốc độ của nó giảm, thì chỉ có thể là do nó đã chuyển từ vùng có áp suất thấp hơn sang vùng có áp suất cao hơn. Do đó, trong một chất lỏng chảy theo chiều ngang, tốc độ cao nhất xảy ra ở nơi áp suất thấp nhất và tốc độ thấp nhất xảy ra ở nơi áp suất cao nhất.

Triết Học Vật Lý Và Vật Lý

Khoa học và Công nghệ

- Cao Chi

Liệu có đúng như Stephen Hawking đã tuyên bố rằng “triết học đã chết -Philosophy is dead” trong cuốn sách “The grand Design” hay không? Trong cuốn sách “Philosophy of Physics” (Robert P Crease)1 tác giả muốn chứng minh rằng không phải như vậy. Không những triết học không chết mà trái lại còn vô số vấn đề triết học vật lý phải làm song hành với vật lý.

Các nhà khoa học tại Cỗ máy gia tốc hạt lớn LHC sử dụng dữ liệu năng lượng cao mới của họ để nghiên cứu về Higgs boson. Có những vấn đề mà bản thân vật lý không trả lời được: Vì sao Lý thuyết dây là lý thuyết khoa học mặc dầu Lý thuyết dây không tiên đoán được điều thực nghiệm gì? Bản chất cơ học lượng tử là gì? Bản chất không gian, thời gian là gì? Điều gì cấu tạo nên vật lý cơ bản?… Hiện nay, triết học vật lý đi theo ba khuynh hướng truyền thống: Analytic – phân tích hay còn gọi là Anglo-American vì được phát triển bởi các nhà triết học Anh và Mỹ Pragmatic – thực dụng. Hermeneutic – chú giải văn bản (thông diễn học). Triết học phân tích dường như lấn áp các triết học khác. Để hiểu vấn đề ta hình dung một workshop – một phân xưởng, một hội thảo – một môi trường trong đó người ta tạo nên và nghiên cứu mọi hiện tượng và sự cố – Higgs boson, đồng vị phóng xạ hiếm, siêu chảy,… – những điều mà trong thường nhật không xuất hiện hoặc hi hữu xuất hiện hoặc xuất hiện một cách không tường minh. Trong workshop người ta thu được những kết quả tổng quát không phụ thuộc với thế giới bên ngoài. Trong workshop người ta đặt câu hỏi cho thiên nhiên (Galileo) hoặc hỏi thiên nhiên như một chứng nhân tại tòa án (Immanuel Kant). Trong workshop khi cần người ta lại đưa vào nhiều khái niệm mới (như hạt Higgs) làm nhiễu loạn không khí truyền thống. Các nhà triết học vật lý quan tâm đến hành động tương tác của workshop nhưng theo một kiểu cách khác các nhà vật lý. Các nhà triết học tìm hiểu không phải những điều nhà vật lý biết mà là làm thế nào mà họ biết được những điều đó.    Điều này làm cho giữa vật  lý và triết học vật lý có sự khác biệt và đảm bảo rằng triết học vật lý cũng sôi động như bản thân vật lý. Ba khuynh hướng Analytic Những người đi theo khuynh hướng này gồm các nhà logic, vật lý và toán học như Rudolf Carnap, Hans Reichenbach và Bertrand Russell, chú tâm vào logic của khoa học và ý nghĩa của những khái niệm cơ bản. Các chương quan trọng trong analytic là: diễn giải, nhân quả, lý thuyết, phương pháp,… Họ giống như những người quan sát ngay trong lòng workshop. Họ xem việc thử nghiệm như một hoạt động trước đột sinh của lý thuyết. Họ tập trung vào nhận thức luận (epistemology) của khoa học. Cuốn sách Philosophy of Physics và tác giả Robert P Crease.     Có thể nói các nhà triết học phân tích xem các nhà vật lý là những nhà logic học của vũ trụ. Pragmatic Những người đi theo khuynh hướng này có cả Charles Peirce William James và John Dewey, họ quan tâm đến việc các nhà vật lý đã tiếp cận như thế nào, giải nghiệm các bí ẩn vũ trụ và những hệ quả. Họ như đứng ngoài workshop. Họ đi theo khẩu hiệu “chân lý là điều gì hoạt động-the truth is what works”. Họ quan tâm đến hiệu quả hơn là sự mô tả. Tóm lại các nhà triết học thực dụng xem các nhà vật lý như những người giải thích được các bí ẩn của vũ trụ. Hermeneutics Gồm các nhà triết học như Edmund Husserl, Martin Heidegger và Maurice Merleau-Ponty xem các hoạt động của workshop như một cách thức (mode) tồn tại của con người và tri thức khoa học như một con đường để con người tiếp cận được với vũ trụ. Nhân loại phải được luyện tập về mặt khoa học để tiếp cận với vũ trụ. Họ cho rằng sai lầm nếu quên rằng khoa học có nguồn gốc từ một môi trường rộng lớn hơn là vũ trụ sống (lifeworld). Tóm lại các nhà triết học continental xem các nhà vật lý như những người khai phá vũ trụ vì vũ trụ là hiểu được và điều khiển được. Trong thực tế có thể quan sát được hiện tượng pha trộn các triết học nói trên. Nói chung ba triết học trên nhằm ba khuynh hướng: logic, giải các bí ẩn và diễn dịch (the logic, the puzzle-solving, and the interpretative  and selfinterpretative activity). Những vấn đề hiện tại Các nhà triết học vật lý sẽ xét các vấn đề trên không như những đối tượng vật lý mà là một đối tượng rộng hơn trên cơ sở tư duy cơ bản hơn về một đối tượng như vậy (ví dụ vấn đề thời gian). Thế nào là vật lý cơ bản Chúng ta thấy có những chồng chéo trong các nghành vật lý, ví dụ đầu thế kỷ 20 người ta xem vật lý hạt nhân như một vật lý bức xạ hoặc muộn hơn xem vật lý hạt nhân trộn lẫn với vật lý các hạt cơ bản. Cần phân biệt đâu là vật lý cơ bản hơn? Nhiệt động học có quy về vật lý thống kê? Vật lý môi trường đông đặc là cơ bản hay chỉ là một amalgam, một hỗn hợp của vật lý và hóa học? Các nhà triết học vật lý xem đây là một vấn đề quy nạp (reduction) để xác định đâu là vật lý cơ bản. Ở đây cần chú ý đến hiện tượng đột sinh, là hiện tượng xuất hiện những tính chất của một hệ lớn không suy diễn được từ các định luật ở mức thấp hơn. Thế nào là thời gian và không gian Thời gian và không gian được hiểu khác nhau ở trong và ngoài workshop Thời gian Có thể nói vấn đề thời gian phát sinh mạnh mẽ từ sự va chạm giữa Albert Einstein và Henri Bergson (nhà triết học nổi tiếng châu Âu – thuộc phái Continental) năm 1922. Bergson cho rằng thời gian có những khía cạnh không bắt được bởi những biểu diễn khoa học. Những khía cạnh đó chỉ bắt được nhờ những trải nghiệm của chúng ta trong đời sống và cho rằng thời gian không phải là của các nhà vật lý (time is not just for physicists). Ở đây ta có thể nhắc đến các câu thơ mang dáng dấp Bergson: “Tôi từ – phút ấy sang tôi phút – này” (Đi thuyền – Xuân Diệu) “Ngày vui ngắn chẳng tày gang!” (Nguyễn Du) “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!” (Tản Đà) Ngược lại, Einstein cho rằng không tồn tại một thời gian như vậy cho các nhà triết học chỉ có một thời gian khách quan, một thời gian vật lý. Trong một bài viết trên tạp chí Journal of Philosophy (1967), Hilary Putman từ chối mọi thời gian triết học bởi theo ông chỉ có một thời gian trong hình học vật lý của continuum bốn chiều. Các nhà triết học chắc không hẳn đồng ý như vậy về vấn đề thời gian. Không gian Ở đây ta cũng gặp một va chạm giống như va chạm giữa Einstein và Bergson trong vấn đề thời gian. Như ta biết trong cơ học lượng tử không tồn tại một vị trí xác định, trong Lý thuyết trường ta lại có một bọt thăng giáng không thời gian, trong Hấp dẫn lượng tử vòng (Loop Quantum gravity) không gian bị lượng tử hóa, trong Lý thuyết dây không thời gian có thể có đến 10, 11 hoặc 26 chiều. Các nhà triết học vật lý lại quan tâm đến các khía cạnh của không gian: vị trí xác định như trong GPS, vị trí dùng tọa độ (Kant) hoặc sự cảm nhận cơ thể của chúng ta khi chuyển động (đây không là một ý nghĩa toán học), không gian này đi song song với thời gian ta sống. Các nhà triết học cũng cho rằng không gian không phải của riêng các nhà vật lý (Space, in short, is not just for physicists). Phải diễn dịch cơ học lượng tử như thế nào Ngay từ đầu, đặc biệt Niels Bohr và Werner Heisenberg đã hiểu rằng Cơ học lượng tử có nhiều khái niệm và giả định cần bàn cãi. Heisenberg tìm ra hệ thức bất định Heisenberg. Bohr đưa ra khái niệm “bổ sung – complementarity” (Lối diễn dịch cơ học lượng tử của trường phái Copenhague). Cơ học lượng tử quả là khó diễn dịch: trong cơ học lượng tử có hàm sóng dẫn đến xác suất. Một điều khó hiểu là tồn tại những xác suất khác không thể hiện ra nhưng nằm song song trong những vũ trụ khác (Đa vũ trụ) và dẫn đến khái niệm triết học về thực tại. Để tránh một số điều khó hiểu của cơ học lượng tử, các nhà vật lý phát triển Qbism tức lượng tử Bayesian biến tri thức thành xác suất. Nhà triết học Heelan đặt câu hỏi: liệu một thực thể khó hiểu bằng trực giác (nonintuitable) lại có thể “quan sát” được bằng những phép đo trong phòng thí nghiệm và biến thành một thực tế hiện thực tại trong ý nghĩa bản thể học – ontological? (Heelan: ‘Can a quantum entity that is ‘nonintuitable’ but nevertheless ‘observed’ in a laboratory measurement be ‘real’ in the ‘ontological’ sense?’) Bản thân các nhà vật lý cũng chưa đồng thuận trong việc diễn dịch cơ học lượng tử cho nên giữa các nhà vậy lý và triết gia vật lý còn rất nhiều việc phải làm. Lý thuyết dây có là khoa học hay không? Theo một số nhà triết học thì vì Lý thuyết dây không thỏa mãn tiêu chí Popper cho nên không phải là một khoa học. Song ý kiến của nhiều người khác như Richard Dawid chủ trương một tiếp cận được chú ý đến nhiều là phương pháp đánh giá không thực nghiệm (non-empirical assessment). Đây là phương pháp do Richard Dawid, một nhà vật lý lý thuyết sau chuyển thành nhà triết học vật lý (LMU), tác giả cuốn sách nổi tiếng Lý thuyết dây và phương pháp khoa học” (String Theory and the Scientific Method  – Cambridge Univ. Press, 2013). Dawid quan tâm đến việc tại sao các nhà Lý thuyết dây rất tin tưởng ở Lý thuyết dây mặc dầu Lý thuyết dây thiếu cơ sở thực nghiệm “Tại sao họ tin tưởng lý thuyết này?” (Why do they trust the theory?). Lý thuyết dây chứa hạt graviton, như vậy Lý thuyết dây thống nhất được hấp dẫn của Einstein. Song Lý thuyết dây chưa đưa ra được một tiên đoán nào khả dĩ kiểm nghiệm được.

Vấn đề thời gian phát sinh mạnh mẽ từ sự va chạm giữa Albert Einstein và Henri Bergson vào năm 1922. Năm 2000, Dawid đưa ra ba lý lẽ không – thực nghiệm (non-empirical arguments) mang tính triết học tạo nên sự tin tưởng vào Lý thuyết dây. 1. Lý thuyết dây hiện nay là lý thuyết độc nhất có khả năng thống nhất các tương tác theo một cách thích hợp nhất (mặc dầu trong Lý thuyết dây có nhiều biểu diễn toán học). Lý lẽ này có tên là “lý lẽ về không có khả năng nào khác – no alternatives argument NAA”. Một lý thuyết cạnh tranh là Hấp dẫn lượng tử vòng song Hấp dẫn lượng tử vòng không có mục tiêu thống nhất các tương tác. 2. Lý thuyết dây phát triển từ Mô hình Chuẩn (Standard Model) vốn cũng không có khả năng nào khác trong quá trình hình thành và đã được kiểm nghiệm bằng thực nghiệm. Lý lẽ này Dawid gọi là “lý lẽ siêu –quy nạp-meta-inductive argument MIA”. Dawid tin ở khả năng có thể xảy ra là các nhà vật lý không đủ trí lực  để tìm ra những khả năng tồn tại khác (physicists simply aren’t clever enough to find the alternatives that exist ). 3. Lý lẽ thứ ba là Lý thuyết dây đã bất ngờ đưa ra những giải thích đối với nhiều bài toán bên ngoài bài toán thống nhất vốn là mục tiêu chính của Lý thuyết dây. Joe Polchinski (Đại học California, Santa Barbara) đã đưa ra nhiều ví dụ về những “mối liên thông giải thích không ngờ-unexpected explanatory interconnections” này. Lý lẽ này gọi là “lý lẽ các liên thông giải thích bất ngờ – unexpected explanatory interconnections UEA”.Lý thuyết dây đã giải thích được entropy của lỗ đen, điều này lại gắn liền với vật lý hạt cơ bản (nhờ đối ngẫu AdS/CFT). Polchinski đã phát biểu rằng “Lý thuyết dây đã tồn tại, chúng ta chỉ phát hiện ra thôi”.  Polchinski đã sử dụng các lý lẽ không thực nghiệm của Dawid để tính xác suất Bayesianism (Bayesianism odds) để Đa vũ trụ tồn tại là 90%. Lý thuyết dây là khoa học vì có một tác động biến đổi lên giới khoa học. Hiện không có sự đồng thuận của các nhà triết học vật lý về vấn đề này (hội thảo Munich). Kết luận Qua một số vấn đề nêu trên (còn nhiều vấn đề khác) chúng ta thấy rằng  có nhiều vấn đề mà triết học vật lý phải nghiên cứu tiếp tục, như vậy triết học đã không chết như Stephen Hawking nói. Triết học vật lý tồn tại song song với vật lý và tương hỗ trong việc tìm hiểu vũ trụ và tương tác giữa vũ trụ và con người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Robert P Crease,Philosophy of PhysicsRobert P Crease Stony Brook University, New York, US 2. Matin Durrani,Discover why the philosophy of physics is vital http://blog.physicsworld.com/2017/11/16/discover-why-the-philosophy-of-physics-is-vital/

Blog Thủy Lực: Phương Trình Bernoulli Cho Chất Lỏng Lý Tưởng

Với thủy tĩnh học – Định luật Acsimet và Định luật Pascal đóng vai trò nền tảng, còn với thủy động học – vai trò nền tảng xuyên suốt chính là phương trình Bernoulli. Phương trình Bernoulli được Daniel Bernoulli công bố vào năm 1738 – khá là lâu rồi nhỉ các bạn. Phương trình Bernoulli thể hiện mối quan hệ giữa áp suất P, vận tốc V và vị trí Z tại các mặt cắt bất kì của dòng chảy. Về mặt bản chất phương trình Bernoulli dựa trên định luật bảo toàn năng lượng dòng chảy.Phương trình Bernoulli cho chất lỏng lý tưởng

Để hiểu cụ thể hơn Phương trình Bernoulli chúng ta xem xét trường hợp truyền dẫn chất lỏng qua ống có tiết diện thay đổi, được đặt nghiêng với phương ngang một góc β . Lựa chọn 2 mặt cắt 1-1 và 2-2 bất kỳ trên đoạn ống đó. Lưu lượng chảy qua ống là Q. Sử dụng áp kế để đo áp suất chất lỏng tại các mặt cắt. Di chuyển áp kế tới từng mặt cắt sẽ thu được đường áp kế.

Sử dụng ống Pito với phần đầu ống được thiết kế song song và ngược với hướng dòng chảy. Khi đó với chất lỏng lý tưởng sẽ thu được chiều cao cột chất lỏng như nhau tại mọi mặt cắt so với mặt phẳng gốc. Như vậy đường thẳng tạo thành khi di chuyển ống Pito tại các mặt cắt bất kỳ thể hiện mức năng lượng toàn phần của dòng chảy.

Phương trình Bernoulli tại mặt cắt 1-1 và 2-2.

Phương trình Bernoulli tại mặt cắt bất kỳ:

Về mặt năng lượng chúng ta có thể hiểu :

Z – năng lượng riêng thế năng

P/ρg – năng lượng riêng áp suất

V 2/2g – năng lượng riêng động năng

Trong phương trình trên thứ nguyên của H là mét: [H]=m. Và H được gọi là chiều cao cột áp. Từ đó có thêm các tên gọi: Z – chiều cao cột áp hình học, P/ρg – chiều cao cột áp áp suất, V 2/2g – chiều cao cột áp vận tốc.

Phương trình Bernoulli đối với chất lỏng lý tưởng có thể được phát biểu là: tổng chiều cao cột áp hình học, áp suất, và vận tốc là một hằng số. (Trong bài tiếp theo mình sẽ viết về phương trình Bernoulli cho chất lỏng thực)

Điểm 4.6/5 dựa vào 87 đánh giá

Chương V: Định Luật Bernoulli, Ứng Dụng Định Luật Bernoulli

Chương V: Định luật Bernoulli, ứng dụng Định luật Bernoulli

1/ Chuyển động của chất lỏng lí tưởng, đường dòng, ống dòng Chuyển động của chất lỏng được chia làm hai loại chính là

chảy thành dòng ổn định

chảy cuộn xoáy không ổn định.

Chất lỏng lí tưởng là chất lỏng không nén được và chảy ổn định thành dòng. Đường dòng là đường chảy ổn định của các phần tử chất lỏng, các đường dòng không cắt nhau. Ống dòng là một phần của chất lỏng chuyển động có mặt biên tạo bởi các đường dòng.

2/ Lưu lượng chất lỏng, mối liên hệ giữa tốc độ chất lỏng và diện tích ống dòng:

Lưu lượng chất lỏng được định nghĩa bằng biểu thức

Trong đó

A: lưu lượng của chất lỏng (m3/s)

v: tốc độ dòng chảy của chất lỏng (m/s)

S: diện tích của ống dòng (m2)

Liên hệ giữa tốc độ và diện tích của ống dòng

Trong cùng một khoảng thời gian Δt ta có

Các phần tử chất lỏng đi ra khỏi diện tích S1 của ống dòng có tốc độ là v1

Các phần tử chất lỏng đi vào diện tích S2 của ống dòng có tốc độ là v2

Do chất lỏng không nén được nên thể tích chất lỏng dịch chuyển trong khoảng thời gian Δt là không đổi ta có

Tử biểu thức trên ta rút ra được kết luận

3/ Định luật Bernoulli

Vận dụng định luật bảo toàn năng lượng chứng minh Định luật Bernoulli:

Định luật Bernoulli tổng quát: Trong một dòng chảy ổn định tổng mọi dạng năng lượng trong chất lưu dọc theo đường dòng là như nhau tại mọi điểm trên đường dòng đó.

Lưu ý: chất khí cũng có thể chảy được thành dòng nên trong một số trường hợp có thể sử dụng Định luật Định luật Bernoulli cho chất khí giống như chất lỏng.

4/ Ứng dụng của Định luật Bernoulli:

Đặt ống hình trụ hở hai đầu (ống A) sao cho miệng ống song song với dòng chảy. Khi đó áp suất tĩnh trong lòng chất lỏng p = ρgh1 Đặt ống hình trụ hở hai đầu, một đầu được uốn vuông góc (ống B) đặt miệng ống B vuông góc với dòng chảy khi đó áp suất toàn phần trong ống ptp = ρgh2

Sử dụng ống Venturi (có cấu tạo như hình vẽ) để xác định vận tốc của chất lỏng Khi đó vận tốc của chất lỏng tại tiết diện S được xác định bằng biểu thức sau v1=2S2Δpρ(S12−S22)

Ống pitot dùng để đo vận tốc chuyển động của máy bay. Vận tốc được xác định bằng biểu thức

Cấu tạo ống pitot dùng để xác định vận tốc của máy bay

Các ống pitot trên máy bay dùng để xác định vận tốc của máy bay

Thí nghiệm vật lý vui vận dụng Định luật Bernoulli. Sử dụng một máy thổi không khí chuyển động thành dòng bao quanh quả bóng. Do áp suất động bao quanh quả bóng tăng lên làm áp suất tĩnh giảm xuống. Sự trênh lệch áp suất tĩnh của dòng không khí bao quanh của bóng và áp suất tĩnh phía bên ngoài tạo ra lực đẩy giúp quả bóng chuyển động lơ lửng ở không trung mà không rơi xuống.​

Cập nhật thông tin chi tiết về Định Lý Bernoulli (Vật Lý) trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!