Bạn đang xem bài viết Điều Lệ Hội Lhpn Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
(Thông qua tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII)
Phần mở đầu
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội) là tổ chức chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị, có tư cách pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới.
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.
Từ những tổ chức tiền thân cho đến ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chương I Chức năng, nhiệm vụ
Điều 1. Chức năng
1. Đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước.
2. Đoàn kết, vận động phụ nữthực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
Điều 2. Nhiệm vụ
1.
Tuyên truyền, giáo dục phụ nữ về chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống;thực hiệnđường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
2.
Vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ,cải thiện đời sống vậtchất, tinh thần và xây dựng gia đình hạnh phúc;
4.
Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;
5.
Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ trên thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
Chương II Hội viên và tổ chức thành viên
Điều 3. Điều kiện trở thành hội viên
Phụ nữ Việt Nam từ18 tuổi trở lên; không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, nơi làm việc, nơi cư trú; tán thành Điều lệ Hội và tự nguyện tham gia tổ chức Hội thì được công nhận là hội viên.
Điều 4. Hội viên là nữ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân lao động và nữ thanh niên
1. Hội viên là nữ cán bộ, công chức, viên chức và công nhân lao động là lực lượng nòng cốt trong phong trào phụ nữ. Nữ cán bộ, công chức, viên chức và công nhân lao động đang sinh hoạt trong tổ chức Công đoàn là hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; việc thực hiện Nghị quyết và Điều lệ Hội đối với hội viên là đoàn viên Công đoàn do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định.
2. Hội viên là nữ thanh niên là lực lượng xung kích trong phong trào phụ nữ. Việc thực hiện Nghị quyết và Điều lệ Hội đối với hội viên là nữ thanh niên do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quy định.
Điều 5. Hội viên trong lực lượng vũ trang
1. Phụ nữ trong các lực lượng vũ trang là hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
2. Hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức phụ nữ trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam do Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Tổng cục Chính trị Công an nhân dân quy định.
Điều 6. Quyền của hội viên
2.Được Hội hướng dẫn, hỗ trợ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
3.Được ứng cử, đề cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Hội theo quy định.
Điều 7. Nhiệm vụ của hội viên
1. Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân.
2. Chấp hành Điều lệ Hội, tích cực tham gia sinh hoạt và các hoạt động Hội, đóng hội phí theo quy định của Điều lệ.
3. Học tập nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, giữ gìn uy tín và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.
4. Đoàn kết, giúp nhau trong công tác, học tập, lao động, đời sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, phấn đấu thực hiện bình đẳng giới.
Điều 8. Tổ chức thành viên
1. Các tổ chức phụ nữ Việt Nam hợp pháp ở trong nước tán thành Điều lệ Hội và tự nguyện gia nhập Hội thì được công nhận là tổ chức thành viên của
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Đoàn
Chủ tịch
Trung
ương Hội, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh có thẩm quyền xem xét quyết định việc công nhận và thôi công nhậntổ chức thành viên.
2. Hội viên của các tổ chức thành viên là hội viên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
3. Quyền của tổ chức thành viên:
a. Được cử đại diện tham gia ứng cử vào cơ quan lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
b. Được Hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng;
c. Được đóng góp ý kiến đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và được Hội phản ánh nguyện vọng hợp pháp, chính đáng đến Đảng, Nhà nước.
4. Nhiệm vụ của tổ chức thành viên:
a. Thực hiện Điều lệ, Nghị quyết của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
b. Có trách nhiệm xây dựng tổ chức Hội;
c. Tham gia các hoạt động hỗ trợ hội viên, thành viên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
d. Phối hợp với các tổ chức thành viên khác của Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp triển khai các hoạt động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp và xây dựng khối đại đoàn kết các tầng lớp phụ nữ.
Chương III Nguyên tắc tổ chức, hoạt động và hệ thống tổ chức, cơ quan lãnh đạo các cấp Hội
Điều 9. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hành động.
Cơ quan lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp do bầu cử lập ra, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều 10. Hệ thống tổ chức và tư cách pháp nhân của các cấp Hội
1.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam gồm 4 cấp:
a. Cấp Trung ương;
b. Cấp tỉnh (bao gồm Hội Liên hiệp Phụ nữ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương);
c. Cấp huyện (bao gồm Hội Liên hiệp Phụ nữ các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương);
d. Cấp cơ sở (bao gồm Hội Liên hiệp Phụ nữ các xã, phường, thị trấn và tương đương).
2. Trung ương Hội; Hội Liên hiệp Phụ nữ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hội Liên hiệp Phụ nữ các quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ các
xã, phường, thị trấn có tư cách pháp nhân độc lập, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Điều 11. Cơ quan lãnh đạo và cơ quan chuyên trách các cấp Hội
1.
Cơ quan lãnh đạo các cấp Hội:
a.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc.
b.Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp Hội là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội toàn thể hội viên của cấp đó.
c.Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo mỗi cấp Hội là Ban Chấp hành cùng cấp.
d. Giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành, cơ quan lãnh đạo là Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cùng cấp.
2.
Cơ quan chuyên trách các cấp Hội:
Trung ương Hội; Hội Liên hiệp Phụ nữ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hội Liên hiệp Phụ nữ các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cùng cấp.
Điều 12. Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp
1. Đại hội các cấp được tổ chức năm năm một lần. Trường hợp đặc biệt do Hội cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định theo quy định.
2. Đại hội chỉ hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số đại biểu được triệu tập tham dự.
3. Thành phần, số lượng đại biểu đại hội cấp nào do Ban Chấp hành cấp đó quyết định và triệu tập. Thành phần đại biểu chính thức của đại hội mỗi cấp gồm:
a. Ủy viên Ban Chấp hành đương nhiệm;
b. Đại biểu do đại hội cấp dưới trực tiếp bầu hoặc từ chi hội (đối với đại hội cấp cơ sở);
c. Đại biểu chỉ định: số lượng không quá 10% tổng số đại biểu do Ban Chấp hành cấp triệu tập quyết định.
4. Nhiệm vụ của Đại hội cấp cơ sở, cấp huyện và cấp tỉnh:
a. Đánh giá phong trào phụ nữ; kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết đại hội; quyết định phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ tới;
c. Quyết định số lượng, cơ cấu, nhân sự và bầu Ban Chấp hành đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định;
d. Bầu đại biểu dự đại hội cấp trên trực tiếp.
5. Nhiệm vụ của Đại hội toàn quốc:
b. Quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội;
c. Quyết định số lượng, cơ cấu, nhân sự và bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định.
Điều 13. Bầu Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch các cấp Hội
1. Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội cấp nào do Ban Chấp hành cấp đó bầu ra
đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định.
2.
Số lượng, c
ơ cấu, thành phần Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cấp nào do Ban Chấp hành cấp đó quyết định và bầu trong số ủy viên Ban Chấp hành cùng cấp.Số lượng ủy viên Đoàn Chủ tịch không quá 1/5, ủy viên Ban Thường vụ không quá 1/3 tổng số ủy viên Ban Chấp hành cùng cấp.
3.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch được bầu trong số ủy viên Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ Hội cấp đó.
4.
Hội nghị Ban Chấp hành chỉ hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số đại biểu được triệu tập tham dự.
Điều 14. Bầu bổ sung ủy viên Ban Chấp hành, ủy viên Đoàn Chủ tịch hoặc ủy viên Ban Thường vụ và Chủ tịch, Phó Chủ tịch các cấp Hội
1. Ban Chấp hành được quyền bầu bổ sung ủy viên Ban Chấp hành, ủy viên Đoàn Chủ tịch hoặc ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch để đảm bảo đủ số lượng, cơ cấu đã được đại hội quyết định.
2.
Ủy viên Ban Chấp hành, ủy viên Đoàn Chủ tịch hoặc ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Hội các cấp khi có quyết định nghỉ hưu, nghỉ chờ hưu hoặc thay đổi công tác mà không thuộc thành phần cơ cấu thì thôi tham gia Ban Chấp hành.
3.
Khi cần thiết, Ban Chấp hành các cấp được quyền bầu bổ sung thêm ủy viên Ban Chấp hành ngoài số lượng đại hội đã quyết định (cấp Trung ương không quá 5%; cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở không quá 10%).
Điều 15. Hình thức bầu cử và điều kiện trúng cử
1. Hình thức bầu cử: biểu quyết giơ tay hoặc bỏ phiếu kín. Chọn hình thức nào do Đại hội hoặc Hội nghị Ban Chấp hành cùng cấp quyết định.
2.
Người trúng cử phải được trên 50% số đại biểu được triệu tập bầu, tính theo tỷ lệ phiếu bầu từ cao xuống thấp.
Điều 16. Chỉ định ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch các cấp Hội
1. Khi có thay đổi về địa giới hành chính hoặc khi có sự sắp xếp lại về tổ chức bộ máy, Hội cấp trên trực tiếp được quyền chỉ định Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Hội cấp dưới theo quy định.
2.
Nhiệm kỳ của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch được chỉ định không nhất thiết đủ năm năm.
Điều 17. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch Trung ươngHội
1.
Ban Chấp hành Trung ương Hội có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Ban hành Nghị quyết, quyết định, chương trình, kế hoạch nhằm vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc;
b.
Lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và kiểm tra việc chấp hành Nghị quyết, Điều lệ Hội;
d.
Đại diện cho Hội Liên hiệp Phụ nữ, các tầng lớp phụ nữ Việt Nam trong hệ thống chính trị, trong quan hệ với các tổ chức khác trong nước và ngoài nước;
đ. Bầu Đoàn Chủ tịch trong số ủy viên Ban Chấp hành, bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch trong số các ủy viên Đoàn Chủ tịch;
e. Ban Chấp hành họp mỗi năm một lần, khi cần có thể họp bất thường.
2.
Đoàn Chủ tịch có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Hội; triệu tập và chuẩn bị nội dung hội nghị Ban Chấp hành;
b.
Q
uyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể tổ chức Hội cấp dưới trực tiếp và một số vấn đề thuộc tổ chức Hội theo quy định;
c. Đoàn Chủ tịch họp sáu tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
3.
Thường trực Đoàn Chủ tịch (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch) có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành công việc giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch và xử lý công việc hàng ngày của cơ quan Trung ương Hội;
b. Chuẩn bị các nội dung hội nghị Đoàn Chủ tịch;
c.
Lãnh đạo, quản lý toàn diện cơ quan chuyên trách Trung ương Hội; quyết định thành lập, giải thể các ban hoặc đơn vị chuyên môn, tổ công tác, hội đồng tư vấn của cơ quan Trung ương Hội, thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp nhân theo quy định của pháp luật; được sử dụng con dấu của Ban Chấp hành trong điều hành hoạt động của cơ quan Trung ương Hội.
Điều 18. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện
1. Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Ban hành Nghị quyết, chương trình, kế hoạch nhằm vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ cùng cấp và cấp trên;
b.
Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và kiểm tra việc chấp hành Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ cùng cấp và cấp trên;
d. Bầu Ban Thường vụ trong số ủy viên Ban Chấp hành cùng cấp; bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch trong số ủy viên Ban Thường vụ cùng cấp;
đ. Ban Chấp hành họp sáu tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
2. Ban Thường vụ có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Hội cấp trên và cùng cấp; triệu tập và chuẩn bị nội dung hội nghị Ban Chấp hành cùng cấp;
b. Quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể tổ chức Hội cấp dưới trực tiếp và một số vấn đề thuộc tổ chức Hội cùng cấp theo quy định;
c. Ban Thường vụ họp ba tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
3. Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch) có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Thay mặt Ban Thường vụ điều hành công việc giữa hai kỳ họp Ban Thường vụ; xử lý các công việc hàng ngày của cơ quan chuyên trách Hội cùng cấp;
b. Chuẩn bị các nội dung họp Ban Thường vụ cùng cấp;
c. Lãnh đạo, quản lý cơ quan chuyên trách Hội cấp mình; quyết định thành lập, giải thể các ban, đơn vị chuyên môn, tổ công tác, hội đồng tư vấn thuộc cơ quan chuyên trách Hội cùng cấp,thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp nhân theo quy định của pháp luật;được sử dụng con dấu Ban Chấp hành trong điều hành hoạt động cơ quan chuyên trách cùng cấp.
Chương IV Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở
Điều 19. Tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở
1. Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở là nền tảng của tổ chức Hội.
2. Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở quyết định thành lậpcác chi hội; dưới chi hội có thể thành lập tổ phụ nữ. Chi hội, tổ phụ nữ sinh hoạt ít nhấtba tháng một lần.
Điều 20. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở
1.
Ban Chấp hành có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Nắm tình hình đời sống, tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của hội viên, phụ nữ, phản ánh, đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương, Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp trên;
b.
Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Hội, Nghị quyết đại hội, Nghị quyết Ban Chấp hành Hội cùng cấp và Hội cấp trên;
c.
Đại diện cho tổ chức Hội và phụ nữ địa phươngtham gia góp ý xây dựng chính sách, chương trình, kế hoạch, đề án và giám sát việc thực hiện; phát hiện, có biện pháp giải quyết kịp thời khi quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ bị vi phạm;
d. Công nhận hội viên; tuyên truyền, vận động và tổ chức cho hội viên thực hiện đầy đủ các quyền, nhiệm vụ của hội viên theo quy định Điều lệ;
đ. Bầu Ban Thường vụ trong số ủy viên Ban Chấp hành cùng cấp; bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch trong số ủy viên Ban Thường vụ cùng cấp;
e. Ban Chấp hành họp ba tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
2.
Ban Thường vụ có nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Chỉ đạo, tổ chứcthực hiện và kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành; triệu tập và chuẩn bị nội dung họp Ban Chấp hành;
b. Quản lý, phát triển hội viên; xây
dựng, quản lý quỹ hội; thu, chi, trích
nộp hội phí và sử dụng các nguồn thu đảm bảo đúng quy định của pháp luật và quy định của tổ chức Hội;thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp nhân theo quy định của pháp luật.
c. Ban Thường vụ họp một tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường.
3. Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ các xã, phường, thị trấn
là cán bộ chuyên trách chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Hội, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Chương V Công tác kiểm tra, giám sát
Điều 21. Công tác kiểm tra, giám sát
1.
Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của cấp mình và cấp dưới.
2.Đối tượng kiểm tra, giám sát: tổ chức Hội,tổ chức thành viên, cán bộ Hội và hội viên.
3. Nội dung công tác kiểm tra, giám sát:
a. Kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Hội, việc thực hiện Nghị quyết và các quy định của tổ chức Hội các cấp;
b.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, quản lý hội phí, quỹ hội và các nguồn thu khác theo quy định;
c.
Giải quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của Hội.
Chương VI Khen thưởng, kỷ luật
Điều 22. Khen thưởng
1.
Đối tượng khen thưởng: tổ chức Hội, tổ chức thành viên, cán bộ Hội, hội viên, phụ nữ và những tập thể, cá nhân khác cóthành tích đóng góp cho công tác phụ nữ được Hội xét khen thưởng hoặc đề nghị Nhà nước khen thưởng.
2. Hình thức khen thưởng của Hội gồm: kỷ niệm chương, giải thưởng, bằng khen, giấy khen và các hình thức công nhận khác.
Điều 23. Kỷ luật
1.Tổ chức Hội, tổ chức thành viên,
cán bộ Hội, hội viên vi phạm Điều lệ
Hội, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ chịu hình
thức
kỷ luật của Hội.
2.
Hình thức kỷ luật:
a.
Đối với tổ chức Hội: khiển trách, cảnh cáo, giải thể;
b.
Đối với tổ chức thành viên: khiển trách, thôi công nhận;
c.
Đối với cán bộ Hội: khiển trách, cảnh cáo, cách chức hoặc thôi đảm nhiệm chức danh (đối với cán bộ Hội không phải là cán bộ, công chức);
d.
Đối với hội viên: khiển trách.
Chương VII Tài chính của Hội
Điều 24. Tài chính của Hội
1.
Tài chính của Hội gồm:
a.
Ngân sách Nhà nước cấp;
b.
Hội phí: 1000 đồng/hội viên/tháng;
c.
Đóng góp của tổ chức thành viên;
d.
Các nguồn thu hợp pháp khác.
2. Việc quản lý, sử dụng tài chính của Hội phải tuân theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội.
Chương VIII Chấp hành Điều lệ Hội
Điều 25. Chấp hành Điều lệ Hội
1. Cán bộ Hội, hội viên, tổ chức Hội các cấp và các tổ chức thành viên có trách nhiệm chấp hành Điều lệ Hội.
2. Chỉ Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc mới có quyền sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Hội có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Điều lệ Hội.
4. Điều lệ này áp dụng thống nhất trong hệ thống Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Tiến Bộ Xã Hội Ở Việt Nam
Nguyễn Minh Trí1
Tóm tắt: Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện tiến bộ xã hội góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, việc thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam, còn những hạn chế. Bài viết phân tích làm rõ quan điểm về tiến bộ xã hội và thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam trong quá trình đổi mới; qua đó góp phần vào cung cấp thêm các căn cứ khoa học cho những quyết sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm hoàn thiện chính sách thực hiện tiến bộ xã hội ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Tiến bộ xã hội, đổi mới, Việt Nam.
Phân loại ngành: Xã hội học
Abstract: Over the past more than 30 years of renovation, Vietnam has made important achievements in implementing social progress, contributing to improving the material and non- material aspects of life of the people. However, besides the achievements, there are things to be improved in the implementation. In the article, the author analyses to clarify the viewpoint on social progress and its implementation in Vietnam in the renovation process; thereby contributing to providing more scientific bases for the decisions of the Vietnamese Party and State in order to complete the policy for the implementation today.
Keywords: Social progress, renovation, Vietnam.
Subject classification: Sociology
1. Đặt vấn đề
Trong tiến trình phát triển của nhân loại, tiến bộ xã hội là một trong những vấn đề cơ bản của mỗi thời đại, bởi nó được đặt ra cùng với sự tồn tại của con người, gắn với ước mơ, khát vọng vì một cuộc sống hạnh phúc của con người. Vì lẽ đó, việc xác định giá trị đích thực của phát triển, đồng thời tập hợp, sử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn lực thực hiện tiến bộ xã hội trở thành nhu cầu cấp thiết.
Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc thực hiện tiến bộ xã hội ở nước ta vẫn còn những hạn chế, như tình trạng phân hóa giàu nghèo, tỉ lệ thất nghiệp cao, giảm nghèo chưa bền vững, bất bình đẳng trong thu nhập, chênh lệch mức sống ngày càng tăng… Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục nghiên cứu quan điểm về tiến bộ xã hội và thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam trong quá trình đổi mới là một trong những việc làm cần thiết cả về mặt lí luận và thực tiễn. Đây cũng chính là những nội dung chủ yếu của bài viết này.
2. Quan điểm về tiến bộ xã hội
Để có thể nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tiến bộ xã hội, trước hết cần phải làm rõ các quan điểm về tiến bộ xã hội trong dòng lịch sử phát triển của nhân loại. Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, khi đề cập đến tiến bộ xã hội, nhà Triết học Hy Lạp Platon cho rằng, xã hội loài người, trong bản tính của nó sẽ vận động theo chiều hướng đi lên.
Trong sự vận động ấy, chính trị, pháp quyền, nhà nước lần lượt thay đổi các hình thức của chúng và hình thức sau luôn ưu việt hơn hình thức trước, song do ông coi thế giới là một mặt cầu đóng kín nào đó, cho nên trong quan niệm của Platon, sự vận động của xã hội không phải là quá trình vô tận, mà là những đường vòng có giới hạn, ở đó chu kỳ lặp lại những giai đoạn đã qua [2, tr.44-45]. Còn ở phương Đông, Khổng Tử cho rằng, sự suy tàn của chế độ nhà Chu lúc đó biểu hiện sự vận động của xã hội theo hướng suy vong, do đó, ước mơ của ông về xã hội tiến bộ chỉ có thể quay trở về thời vua Thuấn, vua Nghiêu. Trong quan niệm của Khổng Tử, sự suy vong đó chủ yếu trong lĩnh vực quan hệ đạo đức của xã hội, và sự suy đồi đó biểu hiện qua các tệ nạn xã hội như “tiếm ngôi việt vị”, chư hầu chiếm dụng lễ nghĩa của Thiên Tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu. Cùng với nạn “tiếm ngôi việt vị”, chế độ triều cống cũng bị các chư hầu tự ý phá bỏ [1, tr.252]. Do đó, để duy trì một xã hội kỉ cương, đòi hỏi phải luôn chú ý đến thực hiện tiến bộ xã hội, mà cụ thể là “Không sợ thiếu chỉ sợ không đồng đều, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên” (“Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi bất an”) và ông quan niệm “tiên vương”, “tiên thánh” là mẫu mực cho hành vi của thiên hạ, với chủ trương việc noi gương đời xưa, việc bắt chước đạo đức của các bậc tiên thánh, tiên vương được coi là xu hướng vận động tất nhiên của các xã hội. Mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng nếu chúng ta biết kế thừa và phát triển cái hay của Khổng Tử là đề cao sự tu dưỡng đạo đức con người, thì điều đó vẫn có tác dụng thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
Trải qua hơn 1000 năm đêm trường trung cổ, quan điểm tiến bộ xã hội không được tiếp tục phát triển, bởi dưới sự thống trị của nhà thờ Kitô giáo, con người và xã hội loài người đã sa vào những nghịch lí của sự tiến bộ, vì một mặt, con người được xem như Đấng sáng tạo; nhưng mặt khác lại là nô lệ của Chúa, còn các quy luật khách quan của lịch sử thì bị thần học phủ định.
Một trong những nhà triết học tiêu biểu trước C.Mác có công phân tích đầy đủ về mặt triết học về tiến bộ xã hội là G.Hêghen, nhà Triết học cổ điển Đức. Ông cho rằng, tiến bộ xã hội chính là sự vận động tiến về phía trước của cái kém hoàn thiện đến cái hoàn thiện hơn. Theo ông, cái chưa hoàn thiện mang trong mình mặt đối lập của nó – cái hoàn thiện. Cái hoàn thiện tồn tại ngay trong tiềm năng, trong tính xu hướng của cái chưa hoàn thiện. Có thể thấy rằng, điều cốt lõi trong lí thuyết của ông về tiến bộ xã hội là ở chỗ đã nhận ra và lí giải một cách sâu sắc tính biện chứng của sự vận động xã hội, đã xem xét lịch sử xã hội như một quá trình thống nhất và hợp quy luật. Mặc dù đề cao tính đặc thù của mỗi thời đại, song Hêghen vẫn khẳng định rằng, mỗi thời đại là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình phát triển chung của nhân loại; ông xem tiến bộ xã hội chính là quá trình vận động của ý niệm. Thêm vào đó, ngay trong triết học xã hội, Hêghen cũng tự mâu thuẫn với chính mình. Trong khi ông cho rằng, sự phát triển, theo lôgíc nội tại của nó, luôn luôn là vô cùng, vô hạn thì ông lại biện minh rằng sự tồn tại của nhà nước quân chủ lập hiến Phổ là đỉnh cao của sự phát triển lịch sử [2, tr.50].
Trong quan điểm của chủ nghĩa Mác, mặc dù không có một tác phẩm nào trình bày một cách chuyên biệt về tiến bộ xã hội, song những quan điểm ấy được thể hiện gián tiếp qua hệ thống chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong mối quan hệ với phát triển xã hội. C.Mác viết: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên” [7, tr.21], quá trình vận động tiến lên của các hình thái kinh tế – xã hội do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất; quá trình này diễn ra hết sức phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn với những bước quanh co và những bước thụt lùi; song quá trình luôn luôn diễn ra theo hướng tiến bộ, nghĩa là theo hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Điều này cũng đã được V.I.Lênin khẳng định: “Lịch sử thế giới tiến lên một cách đều đặn, bằng phẳng, không có - đôi khi - những bước nhảy lùi lớn, thì là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lí luận” [6, tr.8]. Như vậy, theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, tiến bộ xã hội luôn bao hàm và thể hiện sự vận động liên tục không ngừng. Thông qua sự vận động, tiến bộ xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng đi lên và theo đó thì đời sống xã hội loài người cũng luôn theo xu thế ngày càng được nâng lên. Vận động trong xã hội chính là sự vận động của hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn về chất.
Quan điểm Hồ Chí Minh về tiến bộ xã hội. Bằng sự hiểu biết sâu sắc về thực tiễn cách mạng Việt Nam, trên nền tảng tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản tư tưởng hết sức quý giá, trong đó có quan điểm về tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội của Hồ Chí Minh thể hiện rõ qua quan điểm về chủ quyền dân tộc, độc lập dân tộc, quyền tự do dân tộc, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Trong Tuyên ngôn độc lập, Người đã nhấn mạnh: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu nói ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [8, t.4, tr.4]. Chính sự bình đẳng giữa con người, giữa các dân tộc là tiền đề để thực hiện tiến bộ xã hội và Người khẳng định: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” [8, t.1, tr.461], “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho con người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc…” [8, t.1, tr.461].
Tiến bộ xã hội theo Hồ Chí Minh còn phản ánh mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Người giải thích: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc uống, già không lao động thì được nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” [8, t.9, tr.591]. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của phát triển kinh tế là hướng đến cải thiện đời sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng cao cho nhân dân. Nói cách khác, tiến bộ xã hội có được khi mỗi người ngày càng có điều kiện phát triển, trong đó, điều kiện tiên quyết là được làm chủ vận mệnh của mình và đất nước mình.
Như vậy, thông qua khái quát lịch sử tư duy về tiến bộ xã hội trong lịch sử, có thể nói, tiến bộ xã hội là một phạm trù lịch sử, có nội hàm hết sức phong phú, được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, song các quan điểm trên đều thống nhất ở những điểm cơ bản như sau: Một là, tiến bộ xã hội có nội hàm rộng, phản ánh sự vận động tiến lên trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vì một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, bác ái, tiến bộ tồn tại với đời sống con người. Hai là, tiến bộ xã hội là kết quả hoạt động sáng tạo của con người, thể hiện quá trình tác động tích cực sự phát triển toàn diện phát triển các quan hệ xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Ba là, tiến bộ xã hội là một trong những yếu tố thể hiện đặc trưng cho mỗi cộng đồng người, là thước đo trình độ tiến bộ trong phạm vi từng quốc gia, dân tộc và mở rộng trong phạm vi khu vực, quốc tế, phù hợp với từng thời kì, giai đoạn lịch sử cụ thể.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu trong lịch sử về tiến bộ xã hội, chúng tôi quan niệm: tiến bộ xã hội là phạm trù triết học phản ánh con đường tiến lên của xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, mang lại những giá trị thiết thực về vật chất và tinh thần cho mọi người dân.
Như vậy, tiến bộ xã hội có nội hàm rất rộng phản ánh sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục…, bao quát các phương diện vật chất và tinh thần. Tiến bộ xã hội được xem xét, đánh giá trong từng phạm vi quốc gia, dân tộc, khu vực và quốc tế phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Tiến bộ xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có những tiêu chí như sau [3, tr.142-144]:
– Lực lượng sản xuất phát triển với hàm lượng khoa học ngày càng cao và với quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế tăng trưởng nhanh, có chất lượng cao và bền vững;
– Quyền làm chủ của nhân nhân đối với mọi mặt đời sống xã hội được đảm bảo; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trong sạch vững mạnh. Dân chủ được phát huy, kỷ luật, kỷ cương được tôn trọng;
– Văn hóa, giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ được mở mang, trình độ dân trí phát triển, quan hệ giữa con người với con người lành mạnh; những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội được đẩy lùi. Đây là thước đo trí tuệ và đạo đức của tiến bộ xã hội;
– Môi trường sinh thái được bảo vệ và cải thiện;
– Con người có điều kiện phát triển từng bước về thể chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp; có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc; được cống hiến và hưởng thụ công bằng thành quả của sự phát triển.
Một xã hội vận động theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội là một xã hội ngày càng giàu có về của cải vật chất, đem lại cho con người cuộc sống ngày càng đầy đủ, sung túc hơn. Cái đích hướng tới của tiến bộ xã hội phải là con người, là sự phát triển toàn diện con người.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của tiến bộ xã hội, trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” [4, tr.77-78]. Quan điểm này tiếp tục được các đại hội kế thừa, phát triển và xem con người là trung tâm chiến lược phát triển; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Đại hội Đảng XII đã nêu rõ: “gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân” [5, tr.299].
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến bộ xã hội, là kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Ngày nay, tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội được thể hiện ở các thành tựu phát triển kinh tế, trạng thái chính trị – xã hội, trình độ học vấn, bảo vệ sức khoẻ, lối sống, ý thức đạo đức, thế giới quan, kỷ luật lao động, văn hoá lao động, qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất… Xã hội nào đem lại nhiều khả năng hơn cho sự phát huy sức mạnh và năng lực sáng tạo của con người, hoàn thiện bản chất con người thì xã hội đó được coi là tiến bộ.
3. Thực trạng thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam
3.1. Thành tựu thực hiện tiến bộ xã hội
Thứ nhất, về kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam hơn 30 năm đổi mới đã có những bước phát triển ngoạn mục, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, quy mô nền kinh tế đã lớn hơn rất nhiều so với trước. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm 6,6% giai đoạn 1986-2017 và đạt 7,08% năm 2018. Trong đó, giai đoạn tăng trưởng cao nhất 1992-1997 với mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 8,1%. So với một số quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trên thế giới trong hơn 30 năm qua, bình quân tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc là 9,4%, trên Hàn Quốc và Malaysia là 5,9%, trên Thái Lan là 5,2%, trên Mỹ là 2,6%, Nhật Bản là 1,7% và Đức là 1,8% [12]. Quy mô kinh tế Việt Nam từ chỗ xếp thứ 90 thế giới năm 1990 đã tăng lên 171,2 tỷ USD, xếp thứ 57 thế giới năm 2013. Việt Nam từ một quốc gia thuộc nhóm các nước nghèo nhất thế giới đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp vào năm 2008. Năm 2018, quy mô nền kinh tế đạt 240,5 tỷ USD gấp 34 lần năm 1986, đưa Việt Nam lọt vào top 50 trong bảng xếp hạng các nền kinh tế mạnh nhất thế giới [10].
Cơ cấu kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn. Theo số liệu Tổng cục Thống kê, năm 1986, ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất là 38,1%; dịch vụ 33%, ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất là 28,9%. Đến năm 2018, cơ cấu kinh tế đã có những thay đổi quan trọng: dịch vụ vươn lên trở thành ngành đóng góp cao nhất trong GDP với tỷ trọng 41,1%, sau đó là ngành công nghiệp chiếm 34,3%, ngành nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 14,6%. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng lao động làm việc trong công nghiệp và dịch vụ tăng từ 11,2% và 16,3% (năm 1989) lên 26,6% và 35,2% vào quý 2/2018; trong nông nghiệp giảm từ 71,5% xuống còn 38,2%; tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật (đặc biệt là tỷ lệ người lao động có trình độ cao đẳng và đại học trở lên) tăng nhanh từ 1,9% lên 12,5% cũng tại thời điểm nêu trên [10].
Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, có độ mở và hội nhập cao. Kết quả đó có sự góp phần quan trọng của mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam. Hội nhập quốc tế là một yếu tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Thứ hai, về xã hội. Kết quả tăng trưởng kinh tế cao và ổn định ở Việt Nam trong những năm qua đã tạo điều kiện thuận lợi để Đảng, Nhà nước ta huy động các nguồn lực giải quyết những vấn đề xã hội vì một xã hội văn minh, tiến bộ như:
- Thu nhập bình quân đầu người có nhiều cải thiện. Nếu như từ năm 2007 trở về trước, Việt Nam là nước có thu nhập thấp với bình quân thu nhập đầu người dưới 1.000 USD/người/năm, thì từ năm 2008, Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, với thu nhập bình quân đầu người là 1.154 USD/người/năm và tăng lên 2.540 USD/người/năm vào năm 2018 [9, tr.816]. Thu nhập của người dân tăng qua các năm đã góp phần cải thiện chi tiêu cho đời sống, bình quân đầu người theo giá hiện hành tăng từ 705.000 đồng năm 2008 lên 2.016.000 đồng năm 2016 [9, tr.833]. Như vậy, với tốc độ tăng trưởng cao, việc làm ổn định, thu nhập tăng nên chi tiêu sinh hoạt trong các hộ gia đình ngày càng được cải thiện, góp phần nâng cao, cải thiện chất lượng sống.
- Giải quyết việc làm. Ở Việt Nam, nguồn thu nhập chủ yếu của các hộ gia đình là từ lao động, vì vậy, việc quan tâm giải quyết việc làm là một trong những yếu tố cơ bản của tiến bộ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ thông qua các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện các dự án về tín dụng việc làm với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, gắn dạy nghề với tạo việc làm, nhờ đó tăng cơ hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao động. Nhìn lại những năm qua, công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động đã thu được nhiều kết quả tích cực. Giai đoạn 1991-2000, trung bình hàng năm cả nước giải quyết cho khoảng từ 1-1,2 triệu người có công ăn việc làm; giai đoạn 2001-2005, mức giải quyết việc làm đạt khoảng 1,4-1,5 triệu người và giai đoạn từ năm 2010 – 2015, con số đó đã tăng lên, giải quyết việc làm, tạo việc làm cho khoảng 7,8 triệu người, trong đó lao động ở nước ngoài khoảng 469 nghìn người [5, tr.238]; công tác đào tạo nghề được quan tâm, từng bước phát triển, góp phần đưa tỉ lệ lao động đã qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 tăng lên 51,6% năm 2015 và 56% năm 2017; tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 2,24% [9, tr.153]. Các phiên giao dịch việc làm, hệ thống thông tin thị trường lao động từng bước gắn kết người lao động và người sử dụng lao động.
– Công tác xóa đói, giảm nghèo. Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng hướng vào con người, nhất là những người nghèo. Việt Nam được dư luận quốc tế đánh giá là một trong những nước điển hình trong việc thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỉ về xóa đói, giảm nghèo. Theo chuẩn quốc gia, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 5,8% năm 2016; tính theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều, giảm từ 14,2% năm 2010 xuống còn 7,9% năm 2017, riêng các huyện nghèo giảm 4% [9, tr.837]. Theo báo cáo của Chính phủ về Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2017, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2018, đến nay, hầu hết các đối tượng chính sách xã hội, trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng khó khăn đã có bảo hiểm y tế; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trên 34,3 triệu người, hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho trên 15,1 triệu người. Quyết tâm chính trị trong cuộc đấu tranh giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho mọi người dân thụ hưởng những thành quả của tăng trưởng kinh tế, từ đó vươn lên thoát nghèo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần.
– Giáo dục và đào tạo. Phát triển giáo dục và đào tạo không chỉ có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, mà còn tác động đến sự phát triển cơ bản của người dân, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội bền vững. Nhằm tạo cơ hội và điều kiện cho trẻ em trong các hộ gia đình nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số ở các vùng khó khăn, trẻ em không nơi nương tựa… tiếp cận giáo dục cơ bản, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí và các chính sách ưu đãi khác. Trong những năm qua, giáo dục và đào tạo có sự phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa các loại hình lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học; đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2016- 2017 chiếm 97,94%; tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ toàn quốc là 95,1%; 100% tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non [9, tr.120]. Như vậy, thực hiện tiến bộ xã hội trong giáo dục trong thời kì đổi mới đã được cải thiện, đặc biệt là tạo cơ hội, điều kiện học tập cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, con em gia đình nghèo và trẻ khuyết tật có những bước tiến rõ rệt. Hệ thống giáo dục đã bước đầu được đa dạng hóa cả về loại hình, phương thức và nguồn lực, từng bước hội nhập với xu thế chung của giáo dục thế giới. Từ một hệ thống giáo dục chỉ có các trường công lập và chủ yếu là loại hình chính quy, đến nay đã có các trường ngoài công lập, có nhiều loại hình không chính quy, có các trường mở, có phương thức đào tạo từ xa, phương thức liên kết đào tạo với nước ngoài.
– Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tỉ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81‰ năm 1990 xuống còn khoảng 21,5‰ năm 2017; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 13,4%; tỉ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ các loại vắc xin chiếm 96,4% [9, tr.802]. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,5 tuổi năm 2017. Nếu so sánh công tác chăm sóc sức khỏe với các nước trong khu vực thì đây là một thành tựu rất lớn của chính sách y tế (Thái Lan, tuổi thọ bình quân là 72 tuổi; Malaysia, tỉ suất chết ở trẻ sơ sinh khoảng 16% và tuổi thọ bình quân là 73,3 tuổi). Tính đến năm 2017, cả nước có 13.583 cơ sở khám, chữa bệnh [9, tr.785], tổ chức bộ máy y tế được hoàn thiện từ cơ sở đến các tỉnh, thành phố theo hướng phổ cập, chuyên sâu và hiện đại, chất lượng đội ngũ cán bộ y tế được nâng cao và tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế bao phủ đến 83% dân số (tương đương 7.5915,2 nghìn người) [9, tr.198]. Điều này đã tạo điều kiện chăm sóc tốt hơn về y tế cho các tầng lớp dân cư trong xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Chỉ số phát triển con người (HDI). Cùng với những thành tựu đạt được trong công tác giải quyết việc làm, thu nhập ngày càng tăng, tỉ lệ giảm nghèo nhanh, chăm sóc sức khỏe nhân dân có những chuyển biến tích cực góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, chỉ số HDI ở nước ta không ngừng được cải thiện, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội trong quá trình phát triển. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc: chỉ số HDI của Việt Nam được cải thiện qua các năm, từ mức 0,683 năm 2000 lên mức 0,695 năm 2016 và 0,700 năm 2017 [9, tr.776]. Chỉ số HDI của Việt Nam hiện đang thuộc nhóm trung bình cao. Điều này đã chứng tỏ sự phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta có xu hướng tăng, đời sống nhân dân tiếp tục cải thiện và từng bước đảm bảo tiến bộ xã hội.
– Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc đã đạt được những kết quả đáng trân trọng, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới hoặc được xếp hạng là di sản văn hóa quốc gia (Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Hoàng thành Thăng Long, Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ, Ca trù, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Đờn ca tài tử, Mộc bản triều Nguyễn…) đã được giữ gìn, bảo tồn, tôn tạo. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới” và các phong trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa… đã tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát huy những giá trị nhân văn của dân tộc. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa.
3.2. Hạn chế trong thực hiện tiến bộ xã hội
Một là, nền kinh tế nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Mặc dù tăng trưởng kinh tế cao, bình quân hàng năm đạt 6,3%, nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra của Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm 2011-2020, ở mức 7-8%. Tỉ lệ lao động và vốn góp phần tạo nên tăng trưởng kinh tế vẫn còn ở mức cao (8,4% và 53,3% năm 2018), yếu tố TFP đóng góp vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế, mới ở mức 38,3% năm 2018. Đặc biệt, yếu tố thể chế chưa được cải thiện, nhiều thói quen và cách quản lý cũ vẫn hiện diện trong các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách … Theo Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2018, chất lượng thể chế Việt Nam xếp hạng 94/140 nước trên thế giới [11].
Hai là, mặc dù tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm từ 2,88% năm 2010 còn 2,24% năm 2017 [9, tr.150], nhưng với trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam vẫn còn yếu về chất lượng, thiếu về số lượng, gần 80% lao động chưa qua đào tạo [9, tr.142], một bộ phận lao động đã qua đào tạo hoặc được sử dụng không đúng ngành nghề đào tạo, hoặc phải đào tạo lại mới có thể làm việc trong các doanh nghiệp, thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng,…); số người nghèo, thất nghiệp còn nhiều.
Ba là, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và nhất là tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo còn nhiều. Khoảng cách thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất trong tổng số dân cư đã tăng từ 4,43% lần (1992-1993) lên 9,8 lần (năm 2016) [9, tr.142]. Khoảng cách chênh lệch giữa tầng lớp có thu nhập cao và tầng lớp có thu nhập thấp ngày càng gia tăng do cơ hội và thành quả tăng trưởng kinh tế không được chia sẻ một cách đồng đều, mà lại có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc sống khá giả hơn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nhóm 1 (20% người có thu nhập thấp nhất) là 711.000 đồng/tháng, nhóm 5 (20% người có thu nhập cao nhất) là 7.547.000 đồng/tháng. Hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm 1 và nhóm 5 có xu hướng ngày càng dãn ra - 9,8 lần (năm 1995 là 6,99 lần, năm 2006 là 8,4 lần, năm 2013 là 9,55 lần) [9, tr.825]. Điều này cho thấy khoảng cách thu nhập bình quân ở Việt Nam giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng gia tăng.
Bốn là, nội dung, phương pháp giáo dục còn lạc hậu; chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, bất cập; tỉ lệ lao động có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi còn ít. Ngành nghề đào tạo chưa thật sự gắn kết với nhu cầu thị trường lao động. Một bộ phận lao động trẻ được đào tạo chính quy chưa có việc làm hoặc làm những việc trái với ngành, nghề, lĩnh vực đào tạo. Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực ở một số ngành, lĩnh vực, tổ chức khá phổ biến. Còn tồn tại khá rõ rệt về điều kiện học tập, cơ sở trường lớp giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền ngược.
Năm là, khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân còn hạn chế. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng nhưng phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho người dân. Chất lượng khám, chữa bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm [5, tr.256]. Cơ chế, chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn bất cập. Sự đầu tư và sự hưởng thụ về giáo dục, sức khỏe và các dịch vụ khác ngày càng nghiêng về phía người có nhiều tiền sống ở thành thị.
Sáu là, lối sống ích kỷ, vụ lợi cá nhân cũng bắt đầu hình thành và ngày càng xâm nhập vào nhiều tầng lớp trong xã hội. Lối sống thiên về hưởng thụ, sống gấp đang huỷ hoại dần nhân cách của nhiều người dẫn đến nhiều giá trị truyền thống dần trở nên mai một. Trong khi đó, khủng hoảng niềm tin cũng đang là một trở ngại lớn đối với việc thiết lập các quan hệ xã hội và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị. Cùng với đó, tệ xâm hại tình dục, ngược đãi trẻ em, hành vi lệch chuẩn của học sinh, sinh viên có xu hướng gia tăng; bạo lực học đường phổ biến ở cả những học sinh nữ; một bộ phận thầy, cô giáo suy giảm nhân cách, đạo đức làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh nghề giáo… làm gia tăng sự khủng hoảng niềm tin trong xã hội.
4. Giải pháp thực hiện tốt hơn tiến bộ xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất, quát triệt, nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc việc thực tiến bộ xã hội trong từng bước, từng chiến lược, từng chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung trong toàn bộ hệ thống chính trị của Việt Nam. Từ đó tạo nên sự thống nhất về nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị hướng đến mục tiêu phát triển vì con người.
Thứ hai, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững vì mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Nhà nước thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, huy động tối đa mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế; sử dụng các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại đảm bảo thực hiện an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội.
Thứ ba, giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập, bảo đảm chất lượng đời sống dân cư. Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thiếu việc làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không thể giúp người dân bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Có việc làm và tăng thu nhập sẽ giúp người dân có khả năng đáp ứng được những nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần, giúp họ tiếp cận được với các dịch vụ chất lượng tốt, nâng cao vị thế trong xã hội, hòa nhập với môi trường xung quanh. Đại hội Đảng XII xác định: “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động” [5, tr.135]. Quán triệt tinh thần đó, các cấp, ngành cần đẩy mạnh khuyến khích đầu tư xã hội, tạo ra nhiều việc làm, xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Trong đó, coi trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động phải gắn với quy hoạch kinh tế – xã hội, các chương trình phát triển kinh tế, ngành nghề và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương. Tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hộ lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động là giải pháp quan trọng trong giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, góp phần tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động hiện nay.
Thứ tư, Đảng và Nhà nước cần phải quyết liệt đưa mục tiêu giảm nghèo đa chiều vào nội dung chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Chỉ đạo các tỉnh, thành xây dựng kế hoạch chi tiết chương trình, chính sách giảm nghèo hàng năm theo lộ trình cụ thể với những giải pháp thiết thực, sát nhu cầu trợ giúp của người nghèo với điều kiện cụ thể của tỉnh, thành, tránh đốt cháy giai đoạn; rà soát, phân loại hộ nghèo, cận nghèo một cách khách quan, chính xác để có biện pháp hỗ trợ thích hợp.
Thứ năm, tăng cường quản lý xã hội trên nền tảng dân chủ, thượng tôn pháp luật. Thực thi chính sách phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển y tế ngoài công lập, thí điểm hình thành cơ sở khám, chữa bệnh theo hình thức hợp tác công – tư và mô hình quản lí bệnh viện như doanh nghiệp công ích; đẩy nhanh tiến độ thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; khuyến khích, hỗ trợ cho mọi ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy đổi mới, phát triển, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học – công nghệ, văn hóa, nghệ thuật,…
Sáu là, tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Tích cực đấu tranh, bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy; đồng thời, hạn chế hoặc gạt bỏ những hủ tục để tạo dựng đời sống tinh thần lành mạnh trong nhân dân.
5. Kết luận
Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã thoát ra khỏi nhóm nước nghèo, đời sống vật chất và văn hóa không ngừng được cải thiện, vị thế nước ta không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đã tác động tiêu cực đến cuộc sống của người lao động, như thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng thu nhập… Do đó, việc đảm bảo tiến bộ xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, cần được nhận thức đúng đắn, triển khai thực hiện có hiệu quả, nhằm hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ghi chú:
1 Trường Đại học Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo:
[1] Doãn Chính (2015), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên) (2000), Tiến bộ xã hội: Một số vấn đề lí luận cấp bách, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[3] Ngô Văn Dụ, Hồng Hà (2006), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Nghij quyết Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
[6] V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
[7] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[8] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.1,4,9,12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[9] Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê Việt Nam năm 2017, Nxb Thống kê, Hà Nội.
[10] http://www.gso.gov.vn, truy cập ngày 15-3-2019
[11] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/anh- chinh/item/2892-doi-moi-quan-ly-nha-nuoc- ve-kinh-te-thich-ung-voi-hoi-nhap-quoc-te-va- cach-mang-cong-nghiep-40.html
[12] http://www.brandsvietnam.com/17031-32- nam-doi-moi-Viet-Nam-lot-Top-50-nen-kinh- te-the-gioi, truy cập ngày 15-3-2019
Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 – 2020
Nghiên Cứu Xã Hội Học Ở Việt Nam
Quản lý khoa học
–
Qua việc xem xét (review) các báo cáo khoa học xã hội xuất bản trong các tạp chí chuyên ngành khoa học xã hội ở Việt Nam (Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, Vietnam Social Science Review, Thông tin Khoa học Xã hội, Tạp chí Khoa học Xã hội, v.v.) và trong các tạp chí chuyên ngành xuất bản ở ngoài Việt Nam, có thể nhận định rằng chưa có sự nối liền nghiên cứu xã hội học giữa Việt Nam và thế giới.
Nhiều nguyên nhân có thể đưa đến việc thiếu sự liên kết của xã hội học ở Việt Nam với xã hội học thế giới. Trước hết, phần lớn các nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam chưa được thực hiện trên quan điểm coi kiến thức (knowledge) là sự tích lũy các hiểu biết (understandings) được khám phá ra bằng nghiên cứu để giải đáp các câu hỏi về thực tế xã hội. Phần lớn các báo cáo khoa học xã hội xuất bản ở Việt Nam thường thiếu phần xem xét tổng quan tài liệu (literature review) vốn được dùng làm nền tảng cho các đề tài nghiên cứu. Các đề tài nghiên cứu thường là các vấn đề cá biệt của xã hội Việt Nam nhưng ít khi được đặt trong khung cảnh kiến thức chung của xã hội học. Các nghiên cứu xã hội ở Việt Nam cũng thường ít sử dụng lý thuyết (theory) hay các hệ qui chiếu quan điểm (research paradigm) trong quan sát và phân tích nên thường không đi xa hơn việc mô tả (description) sự kiện thực tế, nhưng chưa đi đến trình độ giải thích (explain) thực tế bằng kiểm chứng giải thuyết (hypothes is testing) hay bằng lý thuyết. Do đó, kết quả nghiên cứu thường chỉ có giá trị thông tin (information) chứ không đưa ra các hiểu biết (understandings) mới để đóng góp vào kiến thức xã hội học nói chung (trường hợp ngoại lệ là các báo cáo khoa học xã hội xuất ban trong các tập san chuyên ngành quốc tế).
Trong các bài báo cáo về nghiên cứu khoa học xuất bản ở Việt Nam, phương pháp nghiên cứu thường được trình bày rất sơ sài và không đủ để độc giả thẩm định được chất lượng (quality) của việc lấy mẫu và dữ liệu nghiên cứu, cũng như cách đo lường các khái niệm (concept measurement) và quá trình phân tích (analytical procedure). Các nghiên cứu định lượng thường sử dụng các mẫu nghiên cứu rất nhỏ (dưới 100 trường hợp) và thường không mang tính đại diện và tiêu biểu. Kỹ thuật phân tích dùng cho nghiên cứu định lượng còn đơn giản với kỹ thuật phân tích từng biến số một (univariate analysis) dùng cho hệ thống mô tả (descriptive statistics) như phần trăm (percentage) hay tỷ lệ (rate). Sự liên hệ giữa các yếu tố xã hội với hiện tượng quan sát vốn được dùng để giải thích các hiện tượng xã hội thường không được đề cập đến vì thiếu các kỹ thuật phân tích phức tạp dùng hai hay nhiều biến số một lúc (bivariate analysis và multivariate analysis).
Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, xã hội Việt Nam đã trải qua rất nhiều thay đổi, không ít vấn đề phức tạp nảy sinh trong mối liên hệ giữa xã hội và con người. Đó là cơ hội quý giá để xã hội học Việt Nam đóng góp vào kiến thức xã hội học nói chung qua việc xuất bản các nghiên cứu xã hội và các khám phá mới từ nghiên cứu trong các tạp chí chuyên ngành quốc tế (tạp chí có độc giả trên thế giới). Muốn vậy trước hết hoạt động nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam cần được nâng cao với sự chú trọng đặc biệt tới phương pháp nghiên cứu.
Tổng Quan Về Hội Nông Dân Việt Nam
1. Sự ra đời của Nông Hội đỏ, tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay
Vào đầu năm 1920, sau khi dập tắt các cuộc khởi nghĩa của nông dân, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt gần 1 triệu ha ruộng đất của nông dân, địa chủ phong kiến chỉ với 2% dân số cả nước nhưng chiếm 51% ruộng đất canh tác. Nông dân chiếm trên 90% dân số nhưng chỉ có 36% ruộng đất, trong đó gần 60% số hộ không có ruộng đất.
Phong trào đấu tranh chống cướp đoạt ruộng đất, sưu thuế tô tức nặng nề của nông dân còn mang tính tự phát và bước đầu có sự lãnh đạo của các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc Việt Nam Quốc dân Đảng. Trong đấu tranh, giai cấp nông dân được tôi luyện trưởng thành và xuất hiện những người con ưu tú, hình thành nhiều tổ chức như: Phường lợp nhà, Phường hiếu hỉ, Phường tương tế…để bảo vệ quyền lợi của nông dân. Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Nông hội đã xuất hiện một số địa phương.
Trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), đồng chí Nguyễn Ái Quốc sớm đặt vấn đề nông dân Việt Nam muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột thì phải “tổ chức nhau lại”, tức là phải gia nhập Hội Nông dân.
Đầu năm 1930,Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Cửu Long (Hương Cảng – Trung Quốc), trong Sách lược vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua ngày 3 tháng 2 năm 1930 đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến”; Đồng thời, Đảng nhấn mạnh”Nông dân là lực lượng to lớn của cách mạng”. Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất.
Cao trào cách mạng 1930 – 1931, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, các tổ chức Nông hội cấp cơ sở vẫn được hình thành ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, đặc biệt là ở Nghệ Tĩnh. Nông dân cả nước đã vùng lên đấu tranh cùng với công nhân giành thắng lợi từng bước. Chỉ tính từ tháng 5 năm 1930 đến 1 tháng 10 năm 1930 cả nước có 53.000 hội viên nông hội.
Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ Nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng 10 năm 1930 tại Hương Cảng đã thông qua bản Luận cương chính trị, Luận cương nêu rõ: “Dân cày là hạng người chiếm đại đa số ở đông Dương (hơn 90 phần trăm), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”. Luận cương vạch rõ: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng đầu và cùng với quần chúng dân cày để tranh đấu và binh vực quyền lợi hằng ngày cho dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới giành quyền lãnh đạo dân cày được”.
Cùng với việc thông qua Luận cương chính trị, Hội nghị còn ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ các quyết định quan trọng của Hội nghị, một trong các quyết định đó là “phải chỉnh đốn Nông hội lại cho có hệ thống theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương Tổng Nông hội”.
Tại Hội quan trọng này đã ra Nghị quyết về thành lập Tổng Nông hội Đông Dương và thông qua Điều lệ Tổng Nông Hội Đông Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích nhằm ”Thống nhất hết thảy Tổng Nông Hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa”. Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương quy định: “Hễ Nông hội nào thừa nhận mục đích, điều lệ và chịu thi hành những án nghị quyết của Tổng Nông hội Đông Dương và nộp hội phí thì được nhận làm hội viên”. trong đó trọng tâm là xây dựng tổ chức Nông hội, cơ sở của Nông hội là làng. Tổ chức phải theo hệ thống dọc: từ tổng Tổng Nông hội, huyện Tổng Nông hội, tỉnh Tổng Nông hội, xứ Tổng Nông hội, đông Dương Tổng Nông hội . Cũng tại hội nghị này Điều lệ Nông hội làng được thông qua. Mục đích của Nông hội làng là đoàn kết hết thảy bần và trung nông trong làng, liên hiệp với nông dân và công nhân các nơi trong nước để đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bênh vực quyền lợi của nông dân và thực hiện cách mạng ruộng đất.
Nghị quyết về thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay) tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về mọi mặt của phong trào nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù về danh nghĩa Hội Nông dân Việt Nam vẫn chưa được thành lập, nhưng các tổ chức Nông hội vẫn tiếp tục hoạt động dưới hình thức tổ chức Nông hội đỏ, tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay. Các nghị quyết của Hội nghị tháng 10 năm 1930 được phổ biến sâu rộng; dựa vào Điều lệ Nông hội làng, các tổ chức Nông hội hoạt động chủ động, sáng tạo, tập hợp đông đảo lực lượng nông dân tham gia các phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột của chính quyền thực dân và tay sai của chúng.
2. Hội Nông dân Việt Nam và cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc (1930 – 1945) Ngày 20 tháng 3 năm 1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông hội đỏ, trong đó khẳng định vai trò to lớn của Nông hội trong cách mạng, giai cấp nông dân “là một lực lượng chính của cách mạng”. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Hai, tháng 3 năm 1931 nhấn mạnh: Cần phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông hội làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, đồng thời chỉ rõ: trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông dân cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: chống sưu thuế, địa tô, chống nạn thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống cải lương lừa dối, chống chiến tranh….
Thực hiện Nghị quyết Trung ương Hai, các tổ chức Nông hội được củng cố và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân. Tháng 6 năm 1932 Trung ương Đảng đã khởi theo Chương trình hành động nhằm khôi phục nhanh chóng phong trào cách mạng, đồng thời đề ra phương hướng đấu tranh và những biện pháp cụ thể phù hợp với tình hình mới. Chủ trưng của Đảng nêu rõ: phải tận dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp để tổ chức đấu tranh và phát triển tổ chức bí mật (Nông hội). Trên cơ sở Chương trình hành động của Đảng, Chương trình hành động của Nông hội ra đời bao gồm 10 điểm.
Tháng 3 năm 1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, đề ra đường lối chính trị và phương pháp tổ chức mới, tên của các tổ chức quần chúng đều được thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Quyết định lấy tên Nông hội thay Nông hội đỏ. Nông dân có tổ chức chính là Nông hội, có thể tổ chức nhiều hội (nhưng nội dung là Nông hội); Hội tương tế, ái hữu, hợp tác xã, hội cấy, hội gặt, hội hiếu hỉ, hội góp họ, phường đi săn, hội chèo, nhóm học quốc ngữ…đã thu hút đông đảo nông dân đấu tranh giành quyền lợi của giai cấp mình. Chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông hội khắp nơi trong nước phát huy vai trò của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo nông dân hợp lực với công nhân và nhân dân lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Trong năm 1937, có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia ruộng công, giảm tô, tức, khất thuế…Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 1938, có 125 cuộc đấu tranh của nông dân với 55.442 người tham gia.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám, tháng 5 năm 1941 khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân cày nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh); Mặt trận các đoàn thể lấy tên là Cứu quốc.
”Nông hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, Việt Nam Nông dân cứu quốc hội là một bộ phận của Việt Nam độc lập đồng minh; thu nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp – Nhật”. Điều lệ Việt Nam Nông dân cứu quốc được Hội nghị tháng 5 năm 1941 thông qua gồm 11 điều. Mục đích liên hiệp hết thảy các hạng nông dân yêu nước để binh vực quyền lợi hàng ngày cho nông dân và cùng với các đoàn thể khác chuẩn bị đánh Pháp đuổi Nhật giành quyền độc lập lại cho nước Việt Nam. Hội lấy làng, ấp làm cơ sở…có Ban chấp hành hội chỉ huy, làng, tổng, tỉnh, xứ, toàn quốc đều phải cử ra Ban chấp hành, ở cấp bộ nào phải cử đại biểu để thành lập Uỷ ban Việt Minh ở cấp ấy.
Từ đầu năm 1941, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, nông dân các dân tộc Cao Bằng đã tổ chức những đoàn thể cứu quốc đầu tiên. Sau đó, nông dân từ miền ngược đến miền xuôi nô nức tham gia vào các đoàn thể của Mặt trận Việt Minh. Nông dân cứu quốc hội, là lực lượng to lớn của Mặt trận Việt Minh, đồng thời nông dân còn chiếm đại đa số trong hầu hết các tổ chức cứu quốc ở nông thôn như: thanh niên, phụ nữ …tạo nên một lực lượng chính trị rộng lớn, áp đảo kẻ thù. Các tổ chức nông dân cùng với công nhân đã trở thành ”xương sống” của Mặt trận. Từ các bản làng heo hút ở vùng rừng núi Việt Bắc đại ngàn xuống đến vùng châu thổ sông Hồng hay trong các thôn xóm của Trung kỳ, Nam kỳ, các đội tự vệ cứu quốc mà lực lượng chủ yếu là thanh niên nông dân ưu tú đã lần lượt ra đời làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng.
Năm 1941 – 1942, dưới sự lãnh đạo của Nông hội, nông dân đã đấu tranh chống thu thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu…Từ năm 1943, với khẩu hiệu ”Đoàn kết toàn dân đánh đuổi Nhật – Pháp”. Nông hội đã đưa nông dân tham gia vào các phong trào sôi nổi với những hình thức như biểu tình chống Nhật, vũ trang đánh Nhật…Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), phong trào ”Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói” đã lôi cuốn hàng triệu nông dân vùng lên đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh các tổ chức cứu quốc của nông dân càng phát triển mạnh mẽ, góp sức vào làn sóng khởi nghĩa từng phần đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng chính quyền cơ sở của phát xít, tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa cả nước hừng hực bước vào cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 thành công.
Thành công vĩ đại của Cách mạng tháng Tám là một minh chứng cho tinh thần, khả năng và vai trò cách mạng to lớn của nông dân với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đồng thời, là một thắng lợi của sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng đối với các tổ chức của giai cấp nông dân, thể hiện sự gắn bó giữa Đảng với nông dân, nông dân với Đảng.
3. Giai cấp nông dân Việt Nam và Hội Nông dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước (1945 – 1975).
Trong điều kiện chiến tranh ngày càng lan rộng với mức độ gay go ác liệt hơn, nhiệm vụ kháng chiến càng đòi hỏi phải động viên toàn thể nông dân tham gia trên tất cả các mặt trận. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thành lập Ban Nông vận Trung ương, kiện toàn tổ chức ở cấp Trung ương.
Ngày 06 tháng 8 năm 1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 02 – NQ/TW về việc thành lập Ban Nông vận Trung ương, gồm 6 đồng chí: Hồ Viết Thắng – Ủy viên Trung ương Đảng làm Trưởng ban, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Mạnh Hồng, Phạm Xuân Di, Trương Việt Hùng, Trần Đào.
Trụ sở đầu tiên của Ban Nông vận Trung ương đóng tại Bản Lá (Roòng Khoa), xã Điềm Mặc, (Định Hóa – Thái Nguyên) sau chuyển sang thôn Tân Lập, xã Tân Trào, (Sơn Dương- Tuyên Quang).
Với nhiệm vụ của Ban Nông vận Trung ương là vận độngnông dân: tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tácxã, hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mùchữ. Thực hiện chủ trương trên Ban Nông vận Trung ương đã tổ chức Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ nhất họp từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 07 tháng 12 năm 1949 tại thôn Phong Vân, xã Tân Tiến,(Yên Sơn – Tuyên Quang). Dự Hội nghị có đông đảo cán bộ đại diện cho tổ chức Hội Nông dân ba miền Bắc, Trung, Nam. Hội nghị đã tập trung kiểm điểm, đánh giá ưu, khuyết điểm của tổ chức Hội, phong trào nông dân, đặc biệt là đánh giá vai trò của tổ chức và hoạt động của phong trào nông dân từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Trong thư gửi Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò và tiềm lực lớn lao của giai cấp nông dân cả nước trong đấu tranh giành chính quyền và sự nghiệp kháng chiến. Hội nghị đã nhất trí thành lập Hội Nông dân cứu quốc Trung ương (sau đổi tên là Ban Liên lạc Nông dân toàn quốc).
Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam, giai cấp nông dân có một tổ chức Hội ở cấp Trung ương, đáp ứng nguyện vọng của nông dân cả nước.
Ngày 16 tháng 4 năm 1951 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 09 – NQ/TW về “Thành lập các ban và tiểu ban giúp việc”, trong đó có Tiểu ban Nông vận gồm có 8 đồng chí: Hồ Viết Thắng (Trưởng ban), Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Đức Thịnh, Phạm Xuân Dy, Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Ca, Trần Đào.
Phong trào nông dân từ sau Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất có bước phát triển mới, toàn diện và rất mạnh mẽ. Để tiếp tục đánh giá phong trào nông dân và tổ chức Hội Nông dân. Ban Liên lạc nông dân toàn quốc quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ Hai (tháng 5/1951) tại thôn Quắc, xã Bình Nhân (Chiêm Hoá – Tuyên Quang). Dự Hội nghị có hơn 100 đại biểu đại diện cho giai cấp nông dân cả nước. Hội nghị đánh giá phong trào nông dân, hoạt động của tổ chức Hội và quán triệt nhiệm vụ Hội Nông dân trước yêu cầu nhiệm vụ đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới toàn thắng. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tới dự và phát biểu trước Hội nghị. Đồng chí Tổng Bí thư dành nhiều thời gian nói về Chính cương của Đảng, quan điểm của Đảng đối với nông dân và chính sách ruộng đất. Hội nghị đã tập trung quán triệt những nhiệm vụ mới của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào nông dân và xây dựng tổ chức Hội đáp ứng với những yêu cầu trước mắt.
Ở miền Bắc
Với tinh thần ”Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nông dân đã hăng hái tham gia “Phong trào thi đua ái quốc sản xuất lập công đề cao chiến sĩ” do Đảng và Chính phủ phát động. Các cấp Hội nông dân đã tập trung vận động thực hiện các phong trào, như: xây dựng “Cánh đồng 5 tấn”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, phong trào thanh niên nông thôn lên đương tòng quân giết giặc, bảo vệ Tổ quốc…
Hội Nông dân trong các vùng địch tạm chiếm đã tiến hành nhiều hình thức đấu tranh như bám ruộng đất, làng xóm để sản xuất; lênán hành động bắn phá, đốt hoa màu của địch; tranh thủ sản xuất, thu hoạch và cất dấu lương thực, thực phẩm ở vùng địch hậu trong cả nước để đảm bảo được nhu cầu của nhân dân mà còn đóng góp cho Nhà nước, phục vụ sự nghiệp kháng chiến.
Phong trào cách mạng của giai cấp nông dân và Hội Nông dân đã đóng góp phần quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch. Chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Hoà bình được lập lại ở Đông Dương, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam
Được đế quốc Mỹ giúp sức, chính quyền Ngô Đình Diệm đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ và tập trung sức củng cố bộ máy thống trị phản động. đẩy mạnh việc xây dựng quân đội ngụy làm lực lượng xung kích chống cộng và đàn áp nhân dân. Thực hiện chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng và Chính phủ, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở nông thôn miền Nam, Nông hội vừa tích cực tổ chức, vận động nông dân chuẩn bị đấu tranh lâu dài, vừa khẩn trương tranh thủ thời gian trước khi bàn giao các địa bàn cho đối phương để củng cố sản xuất, ổn định đời sống. Nam Bộ và khu V tiếp tục đẩy mạnh việc chia cấp ruộng đất cho nông thôn nâng tổng số ruộng đất chia cho đồng bào lên 750.000ha cho 1.299.000hộ nông dân.
Phong trào đấu tranh chính trị của nông dân miền Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ, quyết liệt. Các làng, xã chiến đấu được hình thành và phát triển.
Ngày 20/12/1960, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại căn cứ Tây Ninh, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngày 21/4/1961, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành lập và là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra đời của Hội là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ chức nông dân, mà trên thực tế hàng ngàn cơ sở Nông hội cứu quốc ở các khu, tỉnh, huyện, xã đã được phục hồi trong thời gian Đồng khởi.
Tháng 7 năm 1965 Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã ban hành dự thảo Điều lệ hoạt động của Hội nhằm tiếp tục mở rộng hoạt động của các cấp Hội cơ sở, phát triển hội viên và động viên nông dân phát huy vai trò tích cực của mình trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 1 năm 1969, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành Đại hội nhằm tổng kết phong trào đấu tranh của nông dân trong tám năm, đồng thời quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch ”Bình định cấp tốc” của địch. Đại hội đã biểu dương những thành tích to lớn của nông dân miền Nam trong việc phát triển thế trận chiến tranh du kích, đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng, vùng căn cứ và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm đời sống và cung cấp hậu cần cho bộ đội. Hội tập trung vận động, tuyên truyền nông dân thực hiện đúng đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, lấy địa bàn nông thôn làm hướng tiến công chính, đánh mạnh vào kế hoạch “Bình định cấp tốc” của địch, giữ đất, giành dân, Hội Nông dân đã chủ động giáo dục hội viên khắc phục tư tưởng nôn nóng, thoát ly thực tế muốn thắng nhanh, đồng thời vạch rõ nhiệm vụ quan trọng nhất ở nông thôn là phải ”giành dân, giành đất, phát triển thế và lực của ta”. Nông dân liên tục nổi dậy phá rã, phá banh nhiều khu dồn dân, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ trên nhiều địa bàn quan trọng. Vùng giải phóng đã mở rộng tới sát Sài Gòn.Ở đồng bằng Nam Bộ, nông dân nổi dậy mở thêm nhiều vùng, nhiều lõm giải phóng, nối các vùng giải phóng thành thế liên hoàn liên xã, liên huyện.
Thắng lợi của phong trào nông dân nổi dậy và cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè 1972 đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh ở miền Nam và tiến tới “Tổng tấn công” mùa Xuân năm 1975 giành trọn vẹn thắng lợi, đất nước thống nhất, Nam – Bắc sum họp một nhà.
Từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Nông hội đã phát triển đều khắp, đã tích cực vận động nông dân thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn, góp phần đẩy mạnh phong trào thủy lợi, phát triển sản xuất, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, tăng cường đoàn kết trong nông dân, xây dựng chính quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội ở nông thôn. Tuy vậy, công tác Nông hội chưa có chuyển biến mạnh mẽ gắn liền với nhiệm vụ cải tạo và phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Các cấp ủy chưa chú trọng xây dựng tổ chức Nông hội và chưa chỉ đạo thật chặt chẽ công tác Nông hội. Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai (khóa IV) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 12 tháng 12 năm 1977, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 24 – CT/TW về việc tăng cường công tác Nông hội ở các tỉnh miền Nam.
4. Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Phát huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc.
Ngày 25 tháng 6 năm 1977, Ban Bí thư ra Thông báo số 16 – TB/TW về việc thành lập Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương.
Ngày 25 tháng 6 năm 1979, Ban Bí thư quyết định tách Ban trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (nằm trong Ban Nông nghiệp Trung ương) thành một cơ quan thuộc hệ thống các đoàn thể quần chúng và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Bí thư.
Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (thực chất là một bộ phận của Ban Nông nghiệp Trung ương, do Ban Nông nghiệp chỉ đạo) nay lập thành một cơ quan độc lập có nhiệm vụ vừa thường xuyên chỉ đạo phong trào thực hiện những nhiệm vụ chính trị của Đảng, vừa giúp Ban Bí thư chuẩn bị Đại hội nông dân toàn quốc. Ban Bí thư chỉ định 3 đồng chí: Ngô Duy Đông (Trưởng ban), 2 đồng chí: Nguyễn Thành Thơ, Nguyễn Công Huế (Phó ban), đồng chí Lê Du là Ủy viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 78 – CT/TƯ về việc tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam. Để phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đoàn kết nông dân lao động, đưa nông thôn nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập tổ chức thống nhất của nông dân lao động trong cả nước, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, lấy tên là Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Chỉ thị khẳng định Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao động trong cả nước, Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân để giáo dục, vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội kết nạp tất cả nông dân hăng hái phấn đấu vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa, theo nguyện tắc tự nguyện.
Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam được thành lập có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức Hội (ở miền Bắc) nay giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nông nghiệp nước ta chưa có những chuyển biến tích cực. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian qua nay không còn phù hợp. Những hạn chế của nó đã dẫn đến những biểu hiện suy thoái trong phát triển sản xuất, những dấu hiệu khủng hoảng, bất hợp lý bộc lộ ngày càng rõ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tiễn kinh tế – xã hội, ở nông thôn đã xuất hiện những nhân tố mới thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo của cán bộ cơ sở, như ở Hải Phòng, Vĩnh Phú. Trên cơ sở thực tiễn “khoán chui”, Đảng ta đã tổng kết và ra “Chỉ thị 100” với nội dung cơ bản là “khoán sản phẩm’, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Chỉ thị 100 đã ”cởi trói” cho phát triển kinh tế nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân. Tuy mới là giải pháp tình thể, nhưng “Khoán sản phẩm” đã có hiệu quả thực sự. Trong thời gian 1981 – 1985, nhờ hình thức khoán mới, sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 5% so với 2% của thời kỳ 1976 – 1980, sản xuất lương thực tăng bình quân hàng năm 6,5% so với 1,6% của thời kỳ 1976 – 1980.
Tổ chức Hội Nông dân cũng ngày càng được quan tâm hơn, ngày 29 tháng 9 năm 1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 116 – CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Quy định việc thành lập Hội đồng của Hội Liên hiệp nông dân tập thể ở từng cấp: Trung ương, tỉnh, huyện; cơ quan Thường trực của Hội đồng gắn với Ban Nông nghiệp của Đảng, là một bộ phận của Ban Nông nghiệp Trung ương, Ban Nông nghiệp tỉnh, thành phố (cả miền Bắc và miền Nam). Đồng thời, quyết định cho ban hành Điều lệ Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam quy định rõ tính chất, mục đích, nhiệm vụ của Hội và tổ chức Hội ở các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Quán triệt tinh thần đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nhằm đẩy mạnh các hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam, ngày 24 tháng 3 năm 1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 05/CT-TW về tổ chức Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất, Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Ngày 01 tháng 3 năm 1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42 – QĐ/TƯ về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam.
Tại phiên họp ngày 17 tháng 01 năm 1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm ngày kỷ niệm thành lập Hội Nông dân Việt Nam.
Ngày 20 tháng 5 năm 1991, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 69 – CT/TƯ về việc kỷ niệm 61 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/1991). Lần đầu tiên Hội Nông dân Việt Nam tổ chức mít tinh kỷ niệm trọng thể 61 năm Ngày thành lập tại Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Đỗ Mười tới dự và có bài phát biểu quan trọng.
Tại lễ Kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2010), giai cấp nông dân Việt Nam và Hội Nông dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặngHuân Chương Sao Vàng (lần 2).
Được sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, một số đồng chí đã sang thăm và làm việc với Trung ương Hội Nông dân Việt Nam như: Chủ tịch Nước Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, đồng chí Trương Tấn Sang, Thường trực Ban Bí thư (nay là Chủ tịch Nước); đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng; các đồng chí Huỳnh Đảm, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2012), Nguyễn Thiện Nhân, hiện nay là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…
Đến nay, Hội Nông dân Việt Nam đã qua VI kỳ Đại hội.
* Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ Nhất tổ chức từ ngày 27 tháng 3 đến ngày 29 tháng 3 năm 1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 613 đại biểu. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 95 đồng chí và bầu 17 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Phạm Bái – Ủy viên Trung ương Đảng được bầu giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Hoàng Hồng Thất, Nguyễn Thành Thơ, Cầm Ngoan, Nguyễn Thị Huệ.
Tại kỳ họp Ban Chấp hành Trung Hội Nông dân Việt Nam lần thứ Sáu (khóa I) tại Hà Nội, từ ngày 30 tháng 10 đến ngày 02 tháng 11 năm 1991 đã bầu đồng chí Hoàng Hồng Thất, Phó Chủ tịch Thường trực làm Quyền Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội thay đồng chí Phạm Bái nghỉ hưu. Từ ngày 02 tháng 6 đến ngày 05 tháng 6 năm 1992, Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, họp lần thứ Bảy (khóa I) tại Hà Nội, đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) – Ủy viên Trung ương Đảng giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Nghị quyết của Đại hội đã khẳng định: Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp nông dân, đoàn kết chặt chẽ với các tổ chức thành viên khác trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết tâm tiến theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra.
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ Nhất là sự kiện chính trị trọng đại, đã đánh dấu một mốc son quan trọng trên chặng đường lịch sử vẻ vang gần 6 thập kỷ của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam.
Tại Đại hội này Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã thay mặt Đảng, Nhà nước đã trao tặng Huân chương Sao Vàng – Huân chương cao quý nhất cho giai cấp nông dân Việt Nam.* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Hội Nông dân Việt Nam họp từ ngày 15 tháng 11 đến ngày 19 tháng 11 năm 1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 600 đại biểu. Đại hội đã bầu 77 đồng chí vào Ban Chấp hành và 14 Ủy viên Ban Thường vụ, đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) – Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Nguyễn Đức Triều – Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyễn Thị Huệ, Lò Văn Inh, Mai Thanh Ân (Bảy Khế).
Trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần thứ Năm (khóa II), họp tại Hà Nội từ ngày 09 tháng 01 đến ngày 10 tháng 01 năm 1997, đã bầu đồng chí Nguyễn Đức Triều – Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực giữ chức Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) được Bộ Chính trị bố trí công tác mới.
Đại hội đã đánh giá phong trào nông dân, công tác xây dựng Hội; phương hướng, nhiệm vụ của Hội 5 năm tiếp theo, thông qua Điều lệ (sửa đổi) Hội Nông dân và thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Hội Nông dân Việt Nam.
Đây là Đại hội “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động”, là Đại hội của trí tuệ và niềm tin, nơi hội tụ ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông dân quyết tâm đổi mới và xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Hội Nông dân Việt Nam khai mạc từ ngày 17 tháng 11 đến ngày 20 tháng 11 năm 1998 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 700 đại biểu. Đại hội đã quán triệt nhiệm vụ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đại hội đã bầu 114 Ủy viên Ban Chấp hành, 19 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Đức Triều – Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Hoàng Diệu Tuyết, Lê Văn Nhẫn, Lê Văn Sang (Hùng Kháng).
Đại hội III có nhiệm vụ tiếp tục đổi mới và phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức, động viên giai cấp nông dân phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tại Đại hội này thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Hội Nông dân Việt Nam được tổ chức từ ngày 22 tháng 11 đến ngày 25 tháng 11 năm 2003 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Đây làĐại hội ”Đoàn kết – Đổi mới – Dân chủ – Phát triển”.
Tham dự Đại hội có 860 đại biểu. Đại hội đã bầu 120 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Vũ Ngọc Kỳ – Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Hoàng Diệu Tuyết, Phạm Quang Tôn, Nguyễn Hữu Mai, Lê Hoàng Minh, Hà Phúc Mịch.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ Tám (khóa IV), ngày 26 tháng 02 năm 2007 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Nguyễn Quốc Cường – Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tài chính – Quản trị Trung ương, Bí thư Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Chủ tịch Vũ Ngọc Kỳ nghỉ hưu.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Hội Nông dân Việt Nam được khai mạc từ ngày 22 tháng 12 đến ngày 25 tháng 12 năm 2008 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình – Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 1.175 đại biểu. Đại hội đã bầu 124 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường – Ủy viên Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Bùi Thị Minh Hoài – Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Lê Hoàng Minh, Hà Phúc Mịch, Nguyễn Duy Lượng, Lều Vũ Điều.
Chủ đề của Đại hội V là: ”Đoàn kết – Đổi mới – Hội nhập – Phát triển”. Đồng thời Đại hội đã xác định phương hướng là: “Đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh, là chủ thể trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; Hội Nông dân vững về chính trị, mạnh về tổ chức, thống nhất về hành động, là trung tâm và nòng cốt trong phong trào nông dân, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới; tham gia có hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh và khối đại đoàn kết dân tộc. Nâng cao vai trò đại diện; chăm lo nâng cao đời sống; bảo vệ lợi ích hợp pháp của hội viên, nông dân, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đồng thời đẩy mạnh 3 phong trào thi đua lớn của Hội, là: Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới; Phong trào nông dân tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tháng 4 năm 2011 đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Uỷ viên Trung ương Đảng được Ban Chấp hành Trung ương phân công sang làm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ Chín (khoá V) họp tại Hà Nội từ ngày 04 – 05 tháng 7 năm 2012 đã bầu bổ sung 02 đồng chí Phó Chủ tịch Trung ương Hội là đồng chí Lại Xuân Môn, Chánh Văn phòng Trung ương Hội và đồng chí Nguyễn Hồng Lý, Trưởng ban Dân vận Tỉnh uỷ tỉnh Bạc Liêu.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Hội Nông dân Việt Nam được khai mạc từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 03 tháng 7 năm 2013 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình – Hà Nội.
Đây là Đại hội của tinh thần: “Đoàn kết – Đổi mới – Chủ động – Hội nhập – Phát triển bền vững”.
Tham dự Đại hội có 1.169 đại biểu. Đại hội đã bầu 122 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường – Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Nguyễn Duy Lượng, Lều Vũ Điều, Nguyễn Hồng Lý, Lại Xuân Môn.
Phương hướng Đại hội VI là: “Phát huy tinh thần “Đoàn kết – đổi mới- chủ độn g- hội nhập – phát triển bền vững”, vai trò trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; tiếp tục thực hiện Kết luận số 62 – KL/TW, ngày 08 tháng 12 năm 2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội; đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động theo hướng kết hợp chặt chẽ công tác tập hợp, tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân, tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giám sát, phản biện xã hội và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với đẩy mạnh hợp tác tăng cường các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ và dạy nghề, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của hội viên, nông dân. Trực tiếp và phối hợp thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội ở nông thôn. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp Nông dân Việt Nam vững mạnh; đào tạo người nông dân có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ bản lĩnh chính trị, giữ vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp, nông thôn”.
Đồng thời Đại hội cũng đã xác định các mục tiêu, như sau: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, có đủ năng lực tập hợp, đoàn kết, phát huy dân chủ, sức sáng tạo của hội viên, nông dân; tham gia xây dựng và tổ chức nông dân thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh các phong trào thi đua trong nông dân, huy động các nguồn lực hỗ trợ hội viên, nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, giảm nghèo bền vững; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân. Tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn nông thôn. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, trình độ của cán bộ, hội viên, nông dân; từng bước xây dựng đội ngũ lao động nông thôn có tác phong công nghiệp, có năng lực quản lý và kỹ năng sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động trong và ngoài nước, từng bước thực hiện vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Với 11 chỉ tiêu chủ yếu sau đây: Tuyên truyền, phổ biến chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của Hội cho trên 95% hội viên, nông dân. Phát triển hội viên mới, với trên 80% số hộ nông dân có hội viên nông dân. Cơ sở Hội khá và vững mạnh đạt trên 85%, giảm cơ sở Hội yếu kém xuống dưới 1%. Có 80% cán bộ chủ chốt ở cơ sở Hội có trình độ chuyên môn đạt chuẩn theo qui định; 80% cán bộ chi, tổ Hội được bồi dưỡng, tập huấn về lý luận và nghiệp vụ công tác Hội. 100% chi Hội có quỹ Hội, bình quân từ 30.000đ trở lên/hội viên/năm. Hằng năm có từ 60% số hộ nông dân trở lên đăng ký phấn đấu và có từ 50% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu Sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp. Quỹ Hỗ trợ nông dân tăng trưởng 15% trở lên/năm. Hằng năm vận động từ 90% số hộ nông dân trở lên đăng ký phấn đấu và có từ 85% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu Gia đình văn hoá. 100% Hội Nông dân cấp tỉnh, cấp huyện; 80% Hội Nông dân cấp xã tổ chức được hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân có hiệu quả. Hằng năm Hội Nông dân các cấp trực tiếp và phối hợp dạy nghề cho 220.000 nông dân; trong đó tỷ lệ có việc làm đạt 70% trở lên. 80% Hội Nông dân cấp xã hướng dẫn, tổ chức nông dân xây dựng được ít nhất một mô hình kinh tế tập thể có hiệu quả.
Hiện nay các cấp Hội Nông dân đang tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, theo Chỉ thị số 03 – CT/TW, ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị, đồng thời đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”. Cụ thể là tiếp tục đẩy mạnh 3 phong trào thi đua lớn của Hội, đó là: Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới; Phong trào nông dân tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Để tăng cường sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành trong những năm qua Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã ký kết chương trình công tác với hơn 40 Bộ, ngành.
Công tác đối ngoại của Hội đã đạt được thành tích nổi bật trên các lĩnh vực hợp tác và hữu nghị, nhiều tổ chức quốc tế và tổ chức nông dân của các nước đã đến thăm, học tập, trao đổi kinh nghiệm với Hội Nông dân Việt Nam và giúp Hội thực hiện một số dự án trong lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội nông thôn. Hiện nay Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã có quan hệ với 79tổ chức Nông dân; Chính phủ; Phi chính phủ nước ngoài (NGO); Tổ chức Quốc tế (Liên hợp quốc) và 31 Đại sứ quán các nước tại Hà Nội.
Phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, Hội Nông dân Việt Nam 84 năm xây dựng và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cấp Hội tiếp tục tổ chức tốt các phong trào nông dân để làm nên thắng lợi huy hoàng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Hội Nông dân Việt Nam./.
Cập nhật thông tin chi tiết về Điều Lệ Hội Lhpn Việt Nam trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!