Bạn đang xem bài viết Địa Chất Môi Trường – Cổng Địa Môi Trường được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Roman Sorgenfrei & Stefan Groenewold
Dựa trên các bản đồ lịch sử từ Lưu trữ Quốc gia Pháp ở nước ngoài (1903-1953), Cục Bản đồ Quân đội Hoa Kỳ (đợt bản đồ L7014, 1965-1993), ảnh vệ tinh (Landsat, 1988-2017) và vết GPS, một bộ sưu tập gồm tổng cộng 131 đường bờ biển trong lịch sử có thể được tái hiện lại sau khi số hóa và hiệu chỉnh dữ liệu cẩn thận. Như vậy, diễn biến của đường bờ biển từ năm 1903 cho đến năm 2017 có thể được quan sát và tốc độ thay đổi tính theo mét mỗi năm có thể tính toán được tương đối chính xác. Bộ sưu tập tạo thành một tập dữ liệu duy nhất với thời gian thu thập quay lại xa hơn so với dữ liệu được sử dụng chủ yếu chỉ từ ảnh vệ tinh. Tỷ lệ thay đổi này trong những thập kỷ qua (10 và 30 năm) và những xu hướng chỉ ra trong thế kỷ qua là tiêu chuẩn chính để phân loại 71 Phân đoạn (CPSs) của Công cụ bảo vệ vùng ven biển (CPMD). Chỉ có khoảng 10% bờ biển vẫn còn đang bồi tụ hơn 20 m mỗi năm, đặc biệt là ở các mũi đất Tây Nam Cà Mau. Trong khi đó, hơn 50% bờ biển dài 720 km hiện đang bị xói lở, trong đó hơn 70 km đang bị xói lở với tốc độ từ 20 đến 50 mét mỗi năm.
Giới thiệu
Phân tích các thay đổi trong lịch sử của đường bờ biển là một trong những công cụ chính để lập kế hoạch bảo vệ vùng ven biển. Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống địa chất tương đối trẻ và phát triển khoảng 7.500 năm trước với tốc độ tiến ra biển tăng mạnh mẽ trong 3.000 năm qua cùng với mực nước biển hạ thấp. Trong hai thập kỷ qua, đã có một số nghiên cứu được tiến hành về những thay đổi về cân bằng trầm tích và các quá trình ven biển.
2. Hiện trạng hiểu biết về sự thay đổi đường bờ biển ở Đồng bằng sông Cửu Long
Khoảng 80% lưu lượng trầm tích của sông Cửu Long vào biển Đông được giữ lại ở vùng đồng bằng châu thổ nằm dưới mực thủy triều thấp (đồng bằng ngập nước) trong khoảng 20-30 km ra phía ngoài khơi.
Lưu lượng trầm tích cao nhất diễn ra trong khoảng từ tháng 8 đến tháng 11 trong khi trong suốt thời kỳ có bão từ tháng 1 đến tháng 4 trầm tích tích được tái lơ lửng và phân bố chủ yếu qua hệ thống sông ngầm dưới nước gần bờ (trong khoảng 20 km) (Nittrouer và cộng sự, 2017).
Khoảng một phần ba khối lượng trầm tích này được lắng đọng gần phía Bắc và phía Nam đồng bằng là các vùng lân cận, phía đông của các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và phía bắc tỉnh Bạc Liêu. Khoảng 40-66% trầm tích được vận chuyển xa hơn theo hướng Đông Nam và lắng đọng phía Đông Nam gần mũi Cà Mau và một số khu vực nhỏ hơn gần vịnh Kiên Giang ở độ sâu mực nước từ 5-20 m (Unverricht, 2014; Liu và cộng sự, 2017a, b).
Đối với việc cung cấp trầm tích về phía bờ dọc theo bờ biển Tây, các quá trình tái lơ lửng và vận chuyển theo dòng chảy ngang bờ cũng đóng một vai trò, mặc dù chưa thể định lượng được đầy đủ (LMDCZ, 2017).
Lưu lượng trầm tích của hệ thống sông Cửu Long đổ vào biển Đông ước tính khoảng 150-160.000 tấn/năm trước thời kỳ xây dựng đập và hồ chứa, và hiện đang giảm dần. Tuy nhiên, có sự bất đồng về lưu lượng vì thời gian trễ của các tác động và dữ liệu không nhất quán cản trở việc phân tích. Hiện nay, lượng trầm tích được ước tính đã giảm xuống còn 110.000 tấn / năm (Milliman & Fainsworth, 2011) và dự kiến sẽ giảm mạnh hơn sau khi công trình xây dựng đập ở thượng nguồn sông Cửu Long được hoàn thành.
Việc bẫy trầm tích không chỉ là một quá trình vật lý mà còn được xác định vững chắc bởi các quá trình tích tụ sinh học và hóa học. Một quá trình tích tụ quan trọng diễn ra trong chu trình cửa sông, là nơi con sông Cửu Long xả nước ngọt ra biển tạo nên dòng chảy ngược vận chuyển nước biển và trầm tích về phía bờ. Do mực nước biển ngày càng tăng, hiệu ứng kết hợp này bị giảm đi và hiệu suất bẫy trầm tích ngày càng giảm. Mực nước biển tăng và sụt lún đất cũng dẫn đến các đáy kênh sâu hơn dẫn đến hiệu suất bẫy trầm tích thậm chí thấp hơn (Allison và cộng sự, 2017).
Nhiều nguồn nghiên cứu thực tiễn khác nhau đều đồng thuận là xu hướng xói lở dọc theo bờ biển ĐBSCL càng ngày càng tăng (Anthony và cộng sự, 2015). Trong khi trong giai đoạn 1973-95 vẫn có bồi tụ với tốc độ trung bình 7,2 m mỗi năm, tốc độ bồi tụ giảm xuống còn khoảng 2,8 m mỗi năm trong giai đoạn 1995-2005 và thậm chí trở thành số âm (có nghĩa là xói lở) từ năm 2005-2015, ước tính khoảng -1,4 m mỗi năm (Liu và cộng sự, 2017a, b). Xói lở xảy ra trên khoảng một nửa tổng chiều dài đường bờ biển. Điều này phù hợp với các phân tích sau đây sử dụng dữ liệu về các đường bờ biển trong lịch sử từ năm 1904. Tốc độ xói lở là một trong những tiêu chuẩn chính cho việc phân loại bờ biển trong Kế hoạch bảo vệ vùng ven biển.
Các tài liệu nghiên cứu cũng thống nhất khi trích dẫn về nguyên nhân chính của hiện tượng gia tăng xói lở theo thời gian, bao gồm: giảm lưu lượng trầm tích của sông Cửu Long, khai thác cát ở giữa và hạ lưu sông Cửu Long, sụt lún đất ở các khu vực ven biển do khai thác nước ngầm, nước biển dâng và sử dụng đất một cách tiêu cực trong đai rừng ngập mặn.
Việc sử dụng các bản đồ lịch sử và ảnh vệ tinh để phát hiện các thay đổi đường bờ biển
Để hiểu được sự phát triển hình thái của các đường bờ biển, dữ liệu thủy văn gốc của các khu vực ven biển cũng như phân bố rừng ngập mặn trước đây, phân tích các bản đồ lịch sử, ảnh hàng không và ảnh vệ tinh có giá trị cao nhất (Albers và cộng sự, 2013). Kỹ thuật này được thử nghiệm ở Sóc Trăng và được nhân rộng ra toàn bộ bờ biển ĐBSCL. Các bản đồ và ảnh vệ tinh đã thu thập được sử dụng để số hoá các đường bờ biển từ năm 1903 cho đến năm 2017. Sau đó, chúng được sử dụng để phân tích thay đổi đường bờ biển để tính toán tốc độ lùi vào và tiến ra cũng như biến động diện tích xói và bồi. Tốc độ được tính toán bằng cách sử dụng ArcGIS 10 mở rộng DSAS – Hệ thống phân tích đường bờ kỹ thuật số (Khảo sát địa chất Hoa Kỳ, 2018a).
Đường bờ được quốc tế định nghĩa chủ yếu là mực nước cao trung bình, mặc dù thông thường đường bờ di chuyển lên và xuống cùng với thủy triều.
Tùy thuộc vào ngữ cảnh, đường bờ biển thường được xác định là ranh giới phân bố của thực vật trên cạn và biển, hoặc đường thủy triều cao thông thường trên bãi biển hoặc chân vách đá ở bờ biển đá. Các định nghĩa này chưa được sử dụng một cách nhất quán giữa các nhà hoạch định chính sách và trong khung pháp lý ở Việt Nam.
Các thông tin kỹ thuật sau đây về cách tiến hành từ các bản đồ gốc sang phân tích theo chuỗi thời gian đường bờ biển chủ yếu hướng đến các chuyên gia GIS. Mô tả chi tiết hơn về quy trình thực hiện có thể được tìm thấy trong thư viện Kế hoạch Bảo vệ vùng ven biển (Sorgenfrei, 2016). Người đọc ít quan tâm đến các thủ thuật kỹ thuật về GIS có thể tiếp tục tham khảo ở phần 10, nơi có minh họa một số kết quả được chọn.
Bộ sưu tập bản đồ lịch sử Các bản đồ được thu thập trong kho lưu trữ từ thời Pháp thuộc có tỷ lệ ít nhất là 1/100 000.
Nếu tỷ lệ nhỏ hơn, các chi tiết bản đồ như đường bờ biển, kênh, cửa sông, vv. quá thiếu chính xác và thường phải tổng hợp quá nhiều tài liệu để có thể sử dụng cho phân tích về biến động đường bờ biển.
Các bản đồ lịch sử từ kho lưu trữ từ thời Pháp thuộc bao trùm thời gian nửa đầu thế kỷ 20 và được xuất bản trong các hệ thống tham chiếu tọa độ khác nhau (CRS). Bảng 1 đưa ra tổng quan về các thuộc tính của các bản đồ này.
Ngoài các bản đồ này, các bản đồ địa hình của Việt Nam do Cơ quan Bản đồ Quân sự Hoa Kỳ xuất bản đã được sử dụng (Thư viện Đại học Texas, 2018a), đặc biệt là đợt bản đồ “mới” L7014 được xuất bản cho toàn bộ Việt Nam. Đối với đợt bản đồ này, bản đồ địa hình cũ của Pháp đã được cập nhật bởi một số đoàn công tác chụp không ảnh và tăng tỷ lệ lên 1/50 000 bởi Cơ quan Bản đồ Quân sự Hoa Kỳ (Dang & Le, 2001). Các bản đồ này là bản đồ quét chính xác nhất và chi tiết nhất được sử dụng cho việc biên tập này. Phần lớn các bản đồ trong chuỗi này hiển thị khu vực ĐBSCL từ năm 1965, nhưng một số bản đồ từ những năm sau đó (xem Bảng 2). Rất ít bản đồ được cập nhật lần cuối trong năm 1989 hoặc thậm chí năm 1993, mà các bản đồ này không có phiên bản cũ hơn có sẵn trực tuyến nữa. Một bản đồ hiển thị một phần của đảo Phú Quốc là từ năm 1957, trong khi bản đồ hiển thị biên giới giữa Việt Nam và Campuchia là từ năm 1993. Bản đồ thứ hai là bản đồ duy nhất của Cơ quan Lập bản đồ và Ảnh Quốc gia Hoa Kỳ, Đợt L7015, Bản đồ địa hình Campuchia (Đại học Thư viện Texas, 2018b).
Để đảm bảo rằng việc phân tích và so sánh dữ liệu địa lý từ các nguồn khác nhau, và trong trường hợp hiện tại đặc biệt là được đo từ thời gian khác nhau, cần thiết sử dụng một hệ tham chiếu tọa độ chung (CRS). Hệ CRS quốc tế thường được sử dụng để trao đổi dữ liệu địa lý là hệ tọa độ địa lý WGS 84 (EPSG: 4326). Hầu hết các CRS khác thường được áp dụng trong lập các bản đồ vùng, các thuật toán chuyển đổi thành WGS 84 tồn tại và thường được cung cấp với phần mềm GIS. Do đó WGS 84 là hệ tham chiếu tọa độ chung (CRS) để chọn làm cho dữ liệu địa lý có sẵn cho càng nhiều người sử dụng càng tốt.
Xử lý các bản đồ lịch sử từ kho lưu trữ từ thời Pháp thuộc và loạt bản đồ L7014
Thật không may, các bản đồ cũ thiếu thông tin về dữ liệu trắc địa cần thiết để gắn tham chiếu địa lý vào bản đồ được quét vào CRS ban đầu và sau đó chuyển vào WGS 84. Do đó, loạt bản đồ L7014 được cung cấp ở định dạng GeoPDF được xử lý trước và dựa vào kết quả này, các bản đồ cũ được gắn tham chiếu địa lý trực tiếp vào WGS 84. Quá trình gắn tham chiếu địa lý vào loạt bản đồ L7014 được thể hiện trong bảng 3. Các bản đồ lịch sử từ kho lưu trữ từ thời Pháp thuộc đã gắn tham chiếu địa lý bằng QGIS. Khi tham chiếu các bản đồ từ loạt ảnh L7014 được sử dụng kết hợp với ảnh vệ tinh của Google Maps (plugin QuickMapServices cho QGIS). Từ 19 đến 61 GCP được sử dụng để gắn tham chiếu địa lý cho mỗi bản đồ lịch sử tập trung vào các điểm trong khu vực ven biển.
Tất cả các bản đồ lịch sử được tham chiếu địa lý hiện có sẵn trong WGS 84 tại một cơ sở dữ liệu địa lý lưu trữ cục bộ. Trước khi xuất bản, chúng nên được chiếu vào UTM 48N (WGS 84 / UTM 48N = EPSG: 32648).
Những hạn chế do chất lượng bản đồ
Cần phải đề cập là loạt ảnh L7014 có độ chính xác cao nhất theo nhiều khía cạnh. Nếu so sánh với các bản đồ cũ hơn ví dụ như thông tin về thủy văn, kênh rạch thủy lợi, thì bản đồ này chính xác hơn. Do đó, các bản đồ từ năm 1953 cần được xử lý cẩn thận, vì chúng đòi hỏi độ chính xác cho các nội dung chi tiết, nhưng quá trình gắn tham chiếu địa lý lại có mức độ khái quát hóa cao các đặc điểm của bản đồ thủy văn. Các khu vực ven biển, đặc biệt là đường bờ biển, từ các ranh giới bản đồ gần với ranh giới của tỉnh Kiên Giang và Cà Mau, có thể xem là không chính xác cho tất cả các bản đồ của kho lưu trữ từ thời Pháp thuộc. Cũng giống như vậy đối với các bản đồ từ năm 1953, nằm giữa các ô bản đồ của phía Tây Cà Mau và phía Nam Cà Mau.
Ảnh vệ tinh Google Earth
Các máy chủ của Google lưu trữ một bộ sưu tập lớn các hình ảnh vệ tinh sắp xếp cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, một số khu vực trước năm 2000 và vẫn tiếp tục được cập nhật. Những hình ảnh này thì tốt, và cũng ở độ phân giải cao trong những năm gần đây, cung cấp nhiều thông tin về sự phát triển của các khu vực ven biển. Tuy nhiên, chúng phải được xử lý cẩn thận vì tham chiếu địa lý của chúng không phải lúc nào cũng chính xác (sai số khoảng 20 m). Vì thế kết quả các sai số nhỏ do quá trình tham chiếu địa lý thủ công được xuất ra từ các hình ảnh Google Earth (ảnh chụp màn hình) có thể bỏ qua.
Nói chung, bản đồ Google Earth có thể được chia thành các hình ảnh vệ tinh gần đây, thường được hiển thị khi sử dụng GUI của Google Earth và các hình ảnh vệ tinh lịch sử được cung cấp bổ sung. Do Google chọn thời gian hình ảnh hiển thị ở chế độ xem chuẩn dựa trên thời gian cũng như chất lượng của chúng (ví dụ: lượng mây che phủ), một số hình ảnh vệ tinh có sẵn thể hiện chế độ xem theo thời gian và cập nhật thời gian gần hơn so với các ảnh thông thường.
Các hình ảnh vệ tinh gần đây có thể được tải xuống trực tiếp từ các máy chủ của Google bằng phần mềm ‘Google Satellite Maps Downloader’. Nó tải tất cả các ô được lưu trữ cho hình chữ nhật được chọn được mở rộng từ các máy chủ Google và cung cấp tùy chọn để kết hợp các ô vào một tệp BMP đơn giản đã được tham chiếu sẵn (CRS = WGS 84, EPSG: 4326).
Hình ảnh lịch sử của Google Earth có thể được trích xuất tốt nhất dưới dạng ảnh chụp màn hình có độ phân giải cao, một chức năng có sẵn miễn phí trong ‘Google Earth Pro’ (Google Earth Pro, 2018). Để tham chiếu những hình ảnh này dễ dàng hơn và nhanh hơn, khi xem trong Google Earth Pro cần định hướng phía bắc, không nghiêng và địa hình cần phải được tắt để loại bỏ sự phóng đại theo chiều đứng làm thay đổi hình ảnh. Bằng cách thêm ‘Placemarks” như là các điểm kiểm soát mặt đất (GCPs) ở ba góc của khu vực được chọn trước khi xuất ảnh chụp màn hình, có thể tham chiếu dễ dàng bằng công cụ ‘Georeferencer’ của QGIS, một phần mềm GIS nguồn mở miễn phí (QGIS, 2018). Các tọa độ có thể được trích xuất từ các thuộc tính Đánh dấu vị trí của Google Earth, do đó hình ảnh vệ tinh hiện tại cũng như lịch sử từ Google Earth có thể được định vị tham chiếu một cách chính xác. Các hình ảnh từ Google Earth được sử dụng trong phân tích này là do hai nhà cung cấp bản quyền. Các hình ảnh cho đến năm 2013 do DigitalGlobe cung cấp, trong khi các hình ảnh từ năm 2014 là do CNES / Astrium cung cấp. Trước khi xuất bản bản đồ với hình ảnh vệ tinh trên nền do Google cung cấp, cần phải làm rõ các vấn đề về giấy phép. Để biết thêm thông tin, hãy xem mục Trợ giúp của Google Earth (2018) và mục Bản quyền của Google (2015). Việc sử dụng dữ liệu, như trong trường hợp chúng ta số hóa đường bờ biển với phạm vi xác định bởi ranh giới của rừng về phía biển, đã được cấp phép đầy đủ.
Ảnh vệ tinh Landsat bổ sung dữ liệu
Để bổ sung khoảng trống giữa các dữ liệu từ bản đồ lịch sử và hình ảnh Google ở trên, 40 hình ảnh vệ tinh miễn phí từ Landsat (Landsat 5 TM, Landsat 5 TM C1 Cấp 1 và Landsat 8 OLI / TIRS) được bao gồm dưới dạng nguồn dữ liệu trong vòng hai năm qua. Chúng bao gồm toàn bộ vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trong những năm 1988, 1995, 2000, 2005, 2010, 2015 và 2017. Trong tương lai, các hình ảnh từ Landsat 8 OLI / TIRS hoặc Sentinel, một nguồn ảnh vệ tinh miễn phí khác có thể được sử dụng để mở rộng tập dữ liệu. Những hình ảnh này có thể được tải xuống, trong số các dữ liệu vệ tinh khác, thông qua phần mềm EarthExplorer (Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, 2018c).
Đối với hình ảnh của Google Earth, đường bờ biển cho ảnh vệ tinh Landsat được xác định như là ranh giới của rừng về phía biển. Để làm cho việc nhận dạng trở nên dễ dàng hơn, thông tin hình ảnh đa hướng của các ảnh Landsat được sử dụng để tính toán các “cạnh đỏ”, tận dụng các bước sóng hồng ngoại gần được ghi lại bởi các vệ tinh. Do đó, thực vật dễ dàng được xác định trong các hình ảnh và được số hóa.
Áp dụng chương trình “Hệ thống phân tích thay đổi đường bờ biển (DSAS)”
Việc áp dụng DSAS được mô tả chi tiết trong phần ‘Giới thiệu Cài đặt và Hướng dẫn Sử dụng’, có sẵn trên trang web của Sở Địa chất Hoa Kỳ (U.S. Geological Survey, 2018b). Ngoài ra, Madore (2014) cung cấp một hướng dẫn từng bước rất tốt cho quy trình làm việc DSAS hoàn chỉnh. Một tập dữ liệu chung với một tập hợp các đường bờ biển kéo dài trong suốt khoảng thời gian từ năm 1903/04 đến năm 2017 và bao gồm toàn bộ ĐBSCL được tạo ra cho các phân tích tổng quan. Do đó, các đường bờ biển của các bản đồ lịch sử được tham chiếu địa lý từ năm 1903/04và năm 1951/53, và chuỗi bản đồ L7014 đã được số hoá.
Bản đồ từ năm 1923/24 chỉ khác với bản đồ năm 1903/04 về thông tin không ảnh của hoạt động sử dụng đất và thủy văn nhưng có đường bờ biển giống với bản đồ cũ. Do đó, chúng không được số hóa và được loại khỏi các phân tích.
Bởi vì các đường bờ biển được số hóa từ 1903/04 và 1951/53 kém chính xác hơn so với những đường bờ biển gần đây hơn trong các bản đồ vệ tinh L7014 và Google Earth nên kết quả tính toán với chúng cần được xử lý cẩn thận. Chúng ít chính xác hơn so với kết quả của các đường bờ biển sau đó và do đó chỉ có thể được sử dụng làm các chỉ số cho sự tiến triển đường bờ biển trong thời gian dài.
Cần thiết có ít nhất hai đường bờ biển từ các mốc thời gian khác nhau để tính toán tỷ lệ thay đổi bằng DSAS qua việc cung cấp một số phương pháp tính toán thống kê (U.S. Khảo sát địa chất Mỹ, 2018b). Các phương pháp được trích dẫn thường xuyên nhất là phương pháp EPR (tỷ lệ điểm cuối) và phương pháp LRR (hồi quy tuyến tính) (Thi et al., 2014). Điều này được thực hiện là vì các phương pháp đòi hỏi ít nhất về dữ liệu đầu vào. EPR được tính bằng cách chia khoảng cách của đường bờ biển theo thời gian trôi qua giữa đường bờ biển cũ nhất và mới nhất trong một tập dữ liệu nhất định. Ưu điểm chính của nó là tính toán dễ dàng và yêu cầu tối thiểu chỉ có hai kỳ hạn đường bờ biển. Điểm bất lợi lớn nhất là trong trường hợp có nhiều dữ liệu có sẵn hơn, các thông tin bổ sung sẽ bị bỏ qua (Sở Địa chất Hoa Kỳ, 2018b). Phương pháp này được sử dụng cho tỷ lệ thay đổi đường bờ biển tổng quan giữa dữ liệu từ bản đồ lịch sử và hình ảnh vệ tinh Google Earth mới nhất được sử dụng trong phân tích này (2014/15).
LRR là kết quả của việc ước tính tốc độ thay đổi trung bình bằng cách sử dụng một số vị trí bờ biển theo thời gian, với thống kê thay đổi phù hợp với đường hồi qui bình phương tối thiểu cho tất cả các điểm bờ biển cho mỗi tuyến. Tốc độ hồi quy tuyến tính là độ dốc của đường thẳng (Thi et al., 2014). Phương pháp này sử dụng tất cả dữ liệu có sẵn không kể những thay đổi về xu hướng hoặc độ chính xác và dễ sử dụng. Tuy nhiên nó dễ bị ngoại lệ và có xu hướng đánh giá thấp tỷ lệ thay đổi so với các phương pháp thống kê khác, giống như EPR (Sở Địa chất Hoa Kỳ, 2018b). Cả hai phương pháp đều được sử dụng để phân tích đường bờ biển (Sorgenfrei, 2016).
Mặc dù không thể xác định giá trị về độ chính xác cho các bản đồ lịch sử cũ, nhưng lại có thể xác định cho các hình ảnh vệ tinh của Google Earth cũng như cho chuỗi bản đồ L7014. Bởi vì vậy, và bởi vì cả hai phương pháp tính toán này đã không sử dụng thông tin chính xác trong quá trình tính toán, nên độ chính xác của các đường bờ biển đơn lẻ không được tính đến trong các phân tích đã tiến hành. Để phân tích sâu hơn về dữ liệu gần đây hơn, có thể phân bổ độ chính xác, các phương pháp thống kê khác như hồi quy tuyến tính trọng số (WLR), có thể được sử dụng trong phương pháp DSAS (Sở Địa chất Hoa Kỳ, 2018b).
Một số kết quả lựa phân tích biến động đường bờ ở Đồng bằng sông Cửu Long
Kết quả phân tích tốc độ xói lở nói trên (EPR) trong suốt hơn 10 năm cho mỗi 100m dọc bờ biển ĐBSCL cho thấy chỉ có 10% bờ biển được bồi lắng trong khi có hơn 50% bị xói lở. Hơn 70km bị xói lở với tốc độ từ 20 đến 50m mỗi năm (bảng 5).
Kết luận và kiến nghị
Mặc dù khá phức tạp về chuyên môn kỹ thuật nếu áp dụng cho các đoạn đường bờ biển dài hơn, việc phân tích các đường bờ biển lịch sử bổ sung thêm giá trị rõ ràng vào quy hoạch bảo vệ bờ biển. Xu hướng có thể bắt nguồn từ cơ sở dữ liệu rộng hơn trong không gian và thời gian để nhận biết các khu vực không thể nhìn thấy từ các điểm nóng xói lở ngắn hạn và khảo sát một lần. Bờ biển trầm tích rất năng động bởi liên tục được tiếp xúc với các tác động không ngừng thay đổi về mặt thủy văn một cách tự nhiên. Toàn bộ ĐBSCL vẫn đang trong quá trình hình thành như là kết quả của các tác động này. Bằng cách bao gồm không chỉ hình ảnh vệ tinh mà còn bản đồ lịch sử (ít nhất từ 1903/4 trở lại đây), cái nhìn sâu sắc hơn về thay đổi được cung cấp. Các xu hướng về quy mô không gian và thời gian lớn hơn được phản ánh trong việc phân loại các bờ biển ở ĐBSCL thành 7 “Vùng bảo vệ bờ biển (CPR)”. Sự hiểu biết về động thái ven biển và sự phân loại thành các vùng tương ứng giúp chuyển từ bảo vệ bờ biển theo hướng ứng phó khẩn cấp theo hướng bảo vệ bờ biển chiến lược. Chúng tôi khuyên bạn nên mở rộng bộ sưu tập đường bờ biển bằng sử dụng các hình ảnh vệ tinh trong tương lai đang được xuất bản miễn phí (ví dụ: hình ảnh vệ tinh Sentinel).
Tài liệu tham khảo
Albers, T., Dinh, C. S. & K. Schmitt (2013): Hướng dẫn quản lý bờ biển – Bảo vệ bờ biển ở đồng bằng sông Cửu Long.
Allison, M.A., C.A. Nittrouer, A.S. Ogston, J.C. Mullarney and T.T. Nguyen (2017): Trầm tích và sự sống còn của đồng bằng sông Cửu Long: Một nghiên cứu trường hợp về suy giảm nguồn cung cấp trầm tích và tỉ lệ gia tăng nước biển dâng. Hải dương học 30 (3):98-109, https://doi.org/10.5670/oceanog.2017.318.
Anthony, E.J., G.Brunier, M. Besset, M. Goichot, P. Dussouillez and V.L. Nguyen (2015): Những liên kết xói mòn nhanh ở đồng bằng sông Cửu Long với hoạt động của con người. Báo cáo khoa học 5:14745, Doi:10.1038/srep14745. http://www.Nature.com/scientificreports.
Dang, H. V. & Q. T. Le (2001): Sự phát triển về công nghệ khảo sát và lập bản đồ ở Việt Nam. – <http://www.fig.net/resources/proceedings/fig_proceedings/korea/fullpapers/pdf/session3/dang-le.pdf> (accessed: 02.07.2018).
Google Earth chuyên nghiệp (2018): Tải Google Earth Pro cho PC, Mac, hoặc Linux. –<https://www.google.com/earth/download/gep/agree.html> (accessed: 02.07.2018).
Cấp phép Google (2015): Sử dụng bản đồ Google và Google Earth. –<http://www.google.com/permissions/geoguidelines.html> (accessed: 02.07.2018).
Liu, J.P., D.J. DeMaster, T.T. Nguyen, Y. Saito, V.L. Nguyen, T.K.O. Ta, and X. Li. (2017a): Hình thành địa tầng của ĐBSCL và sự thay đổi đường bờ gần đây. Oceanography 30(3):72–83, https://doi.org/10.5670/oceanog.2017.316.
Lui, J.P., D.J. DeMaster,, C. Nittrouer, A. Nittrouer, E.F. Eidam, and T.T. Nguyen (2017b): Nghiên cứu đại chấn của ĐBSCL ngập nước – Tích tụ trầm tích gần so với xa. Continental Shelf Research, Vol 147, pp 197-212.
LMDCZ, (2017). Vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long, trang web dự án và báo cáo cuối cùng, Liên minh châu Âu, Cơ quan phát triển Pháp (AFD) và Viện khoa học thủy lợi miền Nam (SIWRR). http://lmdcz.siwrr.org.vn.
Madore, B. (2014): Thay đổi bờ biển từ quy trình các sự kiện bão bằng cách sử dụng Hệ thống phân tích bờ biển kỹ thuật số. –<http://sandy.ccom.unh.edu/publications/library/Shoreline_change_procedural_2014_11_18.pdf> (28.09.2015).
Milliman, J.D. and K.L. Fainsworth, (2011): Sự xả ra đại dương: Một tổng hợp toàn cầu. Tạp chí đại học Cambridge, New York, trang 1-394.
Nguyen, V.L., T.K.O. Ta, M. Tateishi, I. Kobayashi and Y. Saito (2005): Sự tiến hóa Holocen của đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Tạp chí của Hội Địa chất Nhật Bản 111(11):XXI. https://dol.org/10.5575/geosoc.111.11.XXI.
Nittrouer, C.A., D.J. DeMaster, E.F. Eidam, T.T. Nguyen, J.P. Liu, A.S. Ogston and P.V. Phung (2017): Thềm lục đại Mê Công: Sụt lún sơ cấp của các hạt trầm tích. Hải dương học 30 (3):60-70, https://doi.org/10.5670/oceanog.2017.314.
Nittrouer, C.A., J.C. Mullarney, M.A. Allison, and A.S. Ogston. (2017b): Giới thiệu về các vấn đề đặc biệt về quá trình bồi lắng trầm tích tại đồng bằng nhiệt đới hôm qua, hôm nay và ngày mai: Hệ thống Mekong. Oceanography 30(3):10–21, https://doi.org/10.5670/oceanog.2017.310.
QGIS (2018): QGIS – Phần mềm hệ thống thông tin địa lý mã nguồn mở và miễn phí. –<https://qgis.org/> (accessed: 02.07.2018).
Schmitt, K. & T. Albers (2014): Bảo vệ vùng ven biển và sử dụng kè phá sóng tre ở đồng bằng sông Cửu Long. – In: Nguyen, D. T.; Takagi, H. & M. Esteban [eds.] (2014): Thiên tai ven biển và biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Quan điểm kỹ thuật và quy hoạch. 107-132. Amsterdam, Boston, Heidelberg.
Thi, V. T., Xuan, A. T. T., Nguyen, H. P., Dahdouh-Guebas, F. & N. Koedam (2014): Ứng dụng viễn thám và GIS để phát hiện các thay đổi bờ biển ngập mặn lâu dài ở Mũi Cà Mau, Việt Nam. – Biogeosciences 11:3781-3795.
Thư viện đại học Texas (2018a): Dịch vụ bản đồ quân đội Mỹ, Đợt bản đồ L7014, Vietnam Bản đồ địa hình 1/50 000. – <http://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/> (accessed: 02.07.2018).
Thư viện đại học Texas (2018b): Cơ quan lập bản đồ và hình ảnh quốc gia Mỹ, Đợt bản đồ L7015, Bản đồ địa hình Campuchia 1/50 000. –<http://www.lib.utexas.edu/maps/topo/cambodia/> (accessed: 02.07.2018).
Sở Địa chất Hoa Kỳ (2018a): DSAS – Hệ thống phân tích bờ biển kỹ thuật số. Phần mềm máy tính để tính toán thay đổi bờ biển. – <http://woodshole.er.usgs.gov/projectpages/DSAS/> (accessed: 02.07.2018).
Sở Địa chất Hoa Kỳ (2018b): Hệ thống phân tích bờ biển kỹ thuật số (DSAS) phiên bản 4.0 -một phần mở rộng ArcGIS để tính toán thay đổi bờ biển. –<http://woodshole.er.usgs.gov/project-pages/DSAS/version4/index.html> (02.07.2018).
Sở Địa chất Hoa Kỳ (2018c): Thám hiểm trái đất. – <http://earthexplorer.usgs.gov/> (02.07.2018).
Cơ quan Lưu trữ quốc gia nước ngoài (Archives nationales d’outre-mer or ANOM), tiền thân là Cơ quan lưu trữ quốc gia nước ngoài (Centre des archives d’outre-mer), mở ra ở tỉnh năm 1966.
Unverricht, D, (2014): Các quá trình thủy văn, hình thái và trầm tích học ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam, Luận văn, Christian-Albrechts University Kiel.
Nguồn:
Văn Mẫu Nghị Luận Về Ô Nhiễm Môi Trường Tại Địa Phương
3.5
/
5
(
20
bình chọn
)
Hướng dẫn phân tích và lập dàn ý cho bài nghị luận về ô nhiễm môi trường:
Phân tích đề bài:
Yêu cầu đề bài: Viết bài văn nghị luận về ô nhiễm môi trường.
Đối tượng, phạm vi đề bài: vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay trên toàn thế giới, nước Việt Nam hoặc tại địa phương của mình
Hệ thống luận điểm:
Luận điểm 1: Cần nêu lên thực trạng vấn đề ô nhiễm môi trường tại địa phương
Luận điểm 2: Nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường.
Luận điểm 3: Hậu quả của các vấn đề ô nhiễm môi trường.
Luận điểm 4: Đề xuất những giải pháp hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường
Lập dàn ý chi tiết cho bài viết
1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề nghị luận: “ô nhiễm môi trường”
Ví dụ: Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang trở thành vấn đề trọng tâm của toàn xã hội và được dư luận hết sức quan tâm. Ô nhiễm môi trường đã và đang để lại những hệ lụy hết sức khôn lường cho toàn nhân loại.
2. Thân bài
Giải thích vấn đề:
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị bẩn, đồng thời các tính chất vật lý, hóa học, sinh học của môi trường bị thay đổi gây tác hại tới sức khỏe con người và các sinh vật khác.
Ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt động của con người gây ra, ngoài ra còn do một số hoạt động của tự nhiên khác có tác động tới môi trường.
Nêu thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay:
Ô nhiễm môi trường không khí:
Trái đất ngày càng nóng lên
Không khí chứa nhiều thành phần gây hại hơn
Nồng độ chì đã và đang tăng lên
Ô nhiễm từ các loại xe cộ
Các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và các cánh đồng
Hiện tượng hiệu ứng nhà kính
Ô nhiễm môi trường nước:
Tình trạng ô nhiễm nguồn nước đang ngày càng báo động.
Một số khu công nghiệp đã xả nước thải không qua xử lý ra môi trường.
Hiện tượng xả rác ra ao, hồ sông suối vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nơi (dẫn chứng).
Các trang trại nuôi vật nuôi thường thải chất thải xuống ao, hồ, sông, suối
Các loại chất độc hại đó lại bị đưa ra biển gây ra hiện tượng “thủy triều đỏ”
Hiện tượng “sa mạc hóa biển”
…
Ô nhiễm môi trường đất:
Hiện tượng đất nhiễm chì, nhiễm chất hóa học do thuốc trừ sâu
Những vùng đất thuộc các khu công nghiệp đang ô nhiễm nghiêm trọng (dẫn chứng)
Rác thải sinh hoạt hằng ngày: bao ni lông, rác thải khó phân hủy
Các loại ô nhiễm khác: Ô nhiễm phóng xạ, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm sóng, ô nhiễm ánh sáng, …
Nguyên nhân của ô nhiễm môi trường:
Ý thức của một số doanh nghiệp còn kém: một số doanh nghiệp bất chấp pháp luật cố ý xả chất thải chưa qua xử lý vào môi trường, gây nên hiện tượng ô nhiễm môi trường nặng nề ở biển, sông…
Người dân xả rác thải dẫn đến tình trạng ô nhiễm diện rộng không kiểm soát được.
Sự quản lý của nhà nước còn nhiều yếu kém, hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều lỗ hổng.
Hậu quả của vấn đề ô nhiễm môi trường
Đối với sức khỏe con người:
Không khí ô nhiễm có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người
Ô nhiễm ozone có thể gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm họng, đau ngực, tức thở…
Ô nhiễm nước gây ra xấp xỉ 14.000 cái chết mỗi ngày, chủ yếu do ăn uống bằng nước bẩn chưa được xử lý ở các nước đang phát triển.
Đối với hệ sinh thái:
Gây mưa axít, làm giảm độ pH của đất
Đất ô nhiễm sẽ trở nên cằn cỗi, không thích hợp cho cây trồng, ảnh hưởng đến các cơ thể sống khác trong lưới thức ăn.
Khói lẫn sương làm giảm ánh sáng mặt trời mà thực vật nhận được để thực hiện quá trình quang hợp.
Các loài động vật có thể xâm lấn, cạnh tranh chiếm môi trường sống và làm nguy hại cho các loài địa phương, từ đó làm giảm đa dạng sinh học.
Tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm, cạn kiệt.
Đề xuất giải pháp hạn chế ô nhiễm môi trường
Cần có sự quản lý chặt chẽ của người nhà nước trong việc xử lý những doanh nghiệp, cá nhân vi phạm.
Tăng cường tuyên truyền để cho nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường, hiểu rõ tác hại của ô nhiễm môi trường đối với hệ sinh thái, sức khỏe con người…
Tái chế rác thải, tái sử dụng giấy
Giảm thiểu chất thải và tác động của môi trường
Thực hiện các biện pháp phòng chống ô nhiễm
Làm phân hữu cơ
Sử dụng điện có hiệu quả (đối với một số quốc gia)
Hạn chế sử dụng túi nilon.
Bài học nhận thức và hành động
Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường.
Hiểu rằng bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống của mình, của tất cả những người quanh mình, của toàn xã hội.
3. Kết bài
Khái quát lại vấn đề vừa bàn luận.
Liên hệ bản thân.
Mẫu nghị luận về ô nhiễm môi trường ở địa phương em hay nhất:
Mẫu số 1:
Hàng ngày trên các phóng sự, bản tin đâu đâu cũng thấy nói những cụn từ như băng tan, Trái Đất nóng lên, mưa axit, biến đổi khí hậu toàn cầu hay lại thêm những vùng đất mới trở thành bãi rác công nghiệp. Tất cả đều là những hậu quả mà ô nhiễm môi trường gây nên.
Đã từ lâu những thông tin về ô nhễm môi trường được mọi người trong xã hội quan tâm và đăc biệt chú ý. Bởi mọi người đã ý thức được những tác hại mà nó gây ra. Và ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nóng hiện nay.
Tại sao tôi lại nói rằng ô hiễm môi trường là một vấn đề nóng. Bởi vấn đề ấy ngày càng trở nên trầm trọng và ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của con người cũng như các loài động thực vật sinh sống trên Trái Đất.
Nhiều người vẫn còn chưa hiểu rõ về ô nhiễm môi trường. Có người vẫn chỉ hiểu đơn thuần nó như một hiện tượng xấu nào đó ma không biết những tác nhân, hậu quả hay cụ thể hơn là những biểu hiện của nó.
Chính vì thế hôm nay tôi sẽ giúp họ hiểu hơn về những nội dung này. Trước tiên là khái niệm ô nhễm môi trường. Môi trường là khái niệm chỉ toàn bộ mọi thứ xung quanh con người, được hiểu như tất cả điều kiện tự nhiên và vật chất mà Trái Đất có được.
Nhưng thông thường về ô nhiễm môi trường, người ta chỉ chia ra thành ba loại chính đó là đất, nước và không khí. Ba thành phần này là những bộ phận cơ bản nhất ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người cũng như các loài động thực vật khác.
Thật vậy, chẳng ai hay bất kì sinh vậ nào có thể sống thiếu những thành tố trên. Đất là nơi sinh sống, là nơi trú ngụ của mọi sinh vật. Nước là sự sống.
Con người có thể không ăn nhưng không thể thiếu nước. Bạn cứ tưởng tượng một ngày bị “mất” nước cuộc sống của bạn sẽ rơi vào hoàn cảnh như thế nào?.
Hay không khí. Mất không khí bạn sẽ không thể thở. Chỉ cần ngừng thở hơn một phút, tim bạn sẽ ngừng hoạt động và bạn biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo rồi đó. Khi ba thành tố này bị ô nhiễm, bạn cũng có thể hiểu như chúng đang dần mất đi.
Sự tàn phá của ô nhiễm môi trường cũng không khác gì so với hậu quả của chiến tranh thế giới. Ô nhiễm môi trường cứ từng bước gây hại, một cách từ từ và lâu dài. Đầu tiên, ô nhiễm môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống của các sinh vật trên Trái Đất.
Sức khỏe con người, sự tồn tại và phát triển của các loài động thực vật khác. Tại sao nó ảnh hưởng thì tôi đã nói ở trên rồi. Vậy ảnh hưởng như thế nào?
Thì trước hết là về vấn đề sức khỏe con người. Ô nhiễm môi trường gây ra hiện tượng thủng tầng ozon mà ai cũng biết tầng ozon là lá chắn bảo vệ Trái Đất của chúng ta khỏi những tác nhân gây hại như tia cực tím, tia uv, các xung cường độ sóng có hại. Lá chắn này bị hủy hoại đã gây ra rất nhiều những vấn đề về môi trường.
Tia cực tím, tia uv.. là các tác nhân chính gây ra các bệnh khó chữa ở người mà điển hình là ung thư. Mặc dù nhiều căn bệnh hiện nay đã có phương pháp chữa trị tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa được cao.
Sức khỏe con người bị đe dọa là vậy, các loài động thực vật khác cũng không tránh khỏi. Ô nhiễm môi trường với những đợt mưa axit ảnh hưởng trực tiếp đến thực vật, cháy rừng thiêu rụi biết bao đa dạng sinh học, làm mất đi nơi cư trú của biết bao loài động vật hoang dã.
Biến đổi khí hậu đột ngột dẫn đến sự tuyệt chủng của biết bao loài động vật quý hiếm. Nước biển dâng còn mang nguy cơ nhấn chìm nhiều nên văn minh nhân loại.
Mẫu văn nghị luận về ô nhiễm môi trường 2:
Ngày nay, trên thế giới, môi trường là vấn đề được quan tâm hàng đầu . Ở các quốc gia tiên tiến , vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường được quan tâm thường xuyên nên việc xả rác và nước thải bừa bãi hầu như không còn nữa . Người dân được giáo dục rất kỹ về ý thức bảo vệ môi trường sống xanh – sạch – đẹp . Đáng buồn thay nước ta có một hiện tượng phổ biến là vứt rác ra đường hoặc những nơi công cộng , không giữ gìn vệ sinh đường phố . Việc làm đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường mà cụ thể ở đây là gây ô nhiễm môi trường .
Hiện tượng không giữ gìn vệ sinh đường phố có rất nhiều biểu hiện nhưng phổ biến nhất là vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng . Ăn xong một que lem hay một chiếc kẹo , người ta vứt que, vứt giấy xuống đất . Uống xong một lon nước ngọt hay một chai nước suối , vứt lon , vứt chai ngay tại chỗ vừa ngồi mặc dù thùng rác để cách đó rất gần . Tuy vậy , họ vẫn thản nhiên , vô tư không có gì áy náy . Thậm chí khi ăn xong một tép kẹo cao su, họ cũng không mang đến thùng rác mà vo tròn rồi trét lên ghế đá và cứ thế bỏ đi chỗ khác . Không chỉ với những nơi công cộng , ở một số khu phố , con đường có đặt bảng khu phố văn hóa nhưng cỏ mọc um tùm tràn lan , rác rưởi ngập đầy khắp lối đi , mùi hôi khó chịu bốc lên suốt ngày .
Những việc làm trên tuy nhỏ nhưng lại gây tác hại vô cùng to lớn .Phải chăng dọn dẹp sạch sẽ nhà mình từ phòng khách đến nhà ăn, từ trong nhà ra ngoài vườn là tốt? Còn việc vứt rác bừa bãi, bạ đâu quăng đó cả những nơi công cộng là không cần thiết, không quan tâm không ảnh hưởng gì đến mình, đến gia đình mình.Điều này, mỗi chúng ta cần suy nghĩ lại.Bạn nghĩ sao khi một thành phố văn minh,giàu đẹp lại ngập tràn trong biển rác? Nó thể hiện hành vi của người vô văn hóa, vô ý thức, gây mất vệ sinh và ảnh hưởng đến sức khỏe con ngươì.
Người ta vô tư vứt rác xuống sông nhưng họ có nghĩ rằng bao nhiêu người sử dụng nguồn nước này để ăn uống, tắm giặt?Nước không sạch,con người sử dụng, ăn uống, sức khỏe sẽ ra sao? Không có sức khỏe tốt thì lực lượng con người sẽ cống hiến như thế nào cho đất nước khi bước vào thiên niên kỉ mới với nền kinh tế công nghiệp , hiện đại . Không ở đâu xa , ngay trong thành phố của chúng ta – nơi con sông Đồng Nai chảy qua phải chịu bao rác rưởi dơ bẩn . Công viên ven bờ sông là nơi sinh hoạt thể dục thể thao của các cụ ông , cụ bà và cả các thanh thiếu niên trong khu vực . Mọi người đến để thư giãn , hóng mát nhưng nhìn xuống dòng nước ven bờ , nước bẩn theo cống vẫn từng ngày từng giờ ung dung đổ xuống , bao ni lông bị ném xuống trôi bồng bềnh gây phản cảm , mất mĩ quan cả dòng sông . Còn đối với những ghế đá vô tội vạ bị những người vô ý thức trét bã kẹo cao su , khi có một người nào đó vô tình ngổi lên thì việc gì sẽ xảy ra ? Bã kẹo sẽ dính chặt vào quần áo của người đó không những làm bẩn quần áo mà còn gây sự khó chịu . Và sẽ ra sao khi người ngồi trên ghế đá kia có một cuộc hẹn quan trọng ? Bạn thấy đó , chỉ cần có một hành động vô ý thức đó mà gây ảnh hưởng đến công việc của người khác .
Ngày nay , đi đến đâu cũng có nhiều người tự hào khoe khu phố mình đang sống là một khu phố văn hóa . Thế nhưng , được đặt bảng khu phố văn hóa mà rác rưởi vương vãi khắp nơi gây phản cảm cho người đi đường . Như vậy họ chẳng khác gì tự mình mỉa mai mình , tự đánh mất thể diện mình và cả khu phố . Cỏ mọc um tùm là điều kiện thuận lợi cho sinh sôi nảy nở của loài muỗi . Từ đó phát sinh dịch bệnh sốt xuất huyết – căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng của con người .
Và việc một số tài xế đổ gạch đá phế thải ra ngoài đường thì sao ? Một con đường đang sạch đẹp bỗng dưng phải hứng chịu vô số đất đá . Chúng vương vãi khắp nơi gây ùn tắc giao thông . Và cũng trên những con đường ấy đã xảy ra bao vụ tai nạn giao thông gây đau thương cho nhiều gia đình . Không chỉ có gạch đá bị thải ra đường mà còn có cả xác súc vật nữa . Như đã kể ở trên , xác súc vật bị quăng bừa bãi khắp nơi . Thịt của chúng dần phân hủy kèm theo là một mùi hôi vô cùng khó chịu đối với những người vô tình đi ngang qua . Tệ hại hơn , đứng trước nguy cơ bùng nổ dịch cúm gia cầm H5N1, một số người dân khi thấy gà vịt chết hàng loạt đã không báo cho cơ quan thú y xử lý mà họ đã tự ý ném xác chúng xuống hồ , ao . Đó là một việc làm vô cùng nguy hiểm vì nếu lỡ con gà hay vịt ấy mang trong mình mầm bệnh thì dịch bệnh sẽ phát tán trên cả khu vực rộng lớn do nước từ các ao , hồ này sẽ chảy ra sông – nguồn nước sinh hoạt của rất nhiều gai đình . Các quán ăn trên vỉa hè cũng có những hành vi xả rác nghiêm trọng . Những đồ ăn dư thừa hằng ngày vẫn đổ vào các cống thoát nước . Chúng khiến cho cống không thoát được nước . Vào những ngày mưa lớn , do hệ thống cống thoát nước không hoạt động hiệu quả , nước tràn khắp đường phố , cản trở giao thông . Nhiều lúc nước bẩn tràn ngược vào nhà . Nhìn cảnh tượng ấy , em thật bức xúc, xót xa cho một vẻ mĩ quan bị đánh mất .
Thật đáng nguy hiểm khi trẻ em ngày nay lại sa vào hiện tượng vứt rác bừa bãi rất nhiều . Cứ sau giờ chơi là mỗi lớp học lại đầy những vỏ kẹo , vỏ bánh . Điều đó làm phiền lòng rất nhiều thầy cô . Làm sao các thầy , các cô có thể toàn tâm dạy học trong một phòng học toàn rác bẩn như vậy . Và thế là việc học tạm gián đoạn để thu gom rác , dọn vệ sinh lớp . Nếu việc này vẫn xảy ra thường xuyên thì cả lớp sẽ mất bao nhiêu thời gian học tập và thậm chí có thể bị trừ điểm thi đua của lớp . Thật tai hại làm sao !
Chưa bao giờ , ô nhiễm môi trường đang thực sự là vấn đề lớn của cả nhân loại như ngày nay. Những biến đổi khí hậu và hậu quả khủng khiếp của nó không còn là dự báo nữa mà thành hiện thực ở khắp nơi . Hiện tượng toàn cầu hóa El Nino và trái đất nóng dần lên do hiệu ứng nhà kính vẫn diễn ra từng ngày , từng giờ . Điều đáng suy nghĩ là ở chỗ phần lớn , nếu không muốn nói là tất cả những hiện tượng trên đều có nguyên nhân từ con người , từ những hành động bừa bãi mà trong đó có cả việc xả rác và khí thải bừa bãi . Nói cách khác , những tác hại của việc xả rác mà em đã nêu ra như mất vệ sinh , thể hiện hành vi vô văn hóa , gây mất mĩ quan lan truyền dịch bệnh , tốn kém tiền của trong việc thu gom và xử lý , khiến cho người nước ngoài có ấn tượng không tốt … đều có nguyên nhân bắt nguồn từ con người . Đầu tiên là do những thói quen xấu lười biếng và lối sống lạc hậu ích kỷ chĩ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của một số người . Họ sống theo kiểu
“Của mình thì giữ bo bo
Của người thì thả cho bò nó ăn ”
Họ nghĩ đơn giản rằng chỉ cần nhà mình sạch thì được còn bẩn thì ai bẩn mặc ai . Những nơi công cộng không phải là của mình , vậy thì việc gì mà phải mất công gìn giữ. Cứ ném rác vội ra là xong, đã có đội vệ sinh lo dọn dẹp. Cách nghĩ như thế thật là thiểu cận và nguy hại làm sao. Nguyên nhân tiếp theo là do thói quen đã có từ lâu, khó sửa đổi, phải có sự nhắc nhở thì người ta mới không xả rác bừa bãi. Ở các lớp học, hằng ngày, các thầy cô và ban cán sự lớp phải thường xuyên nhắc nhở thì mới giữ cho lớp học sạch đẹp. Nhưng xã hội là một phạm vị rộng lớn hơn lớp học rất nhiều. Mọi người đều bận rộn với công việc của mình và không một ai có đủ thời gianđể đi nhắc nhở từng người một . Không được nhắc nhở , con người ta lại quay về với thói quen trước kia . Nguyên nhân cuối cùng là do ý thức về vệ sinh của một số người chưa được tốt . Họ không nhận thức được rằng hành vi của mình là vô ý thức , phản văn hóa, văn minh , phá hoại môi trường sống . Bên cạnh đó cũng cần phải nói đến việc giáo dục ý thức giữ gìn , bảo vệ môi trường sống chưa được quan tâm đúng mức , chưa được tổ chức thường xuyên . Mặc dù trên các phương tiện thông tin đại chúng vẫn có những chương trình kêu gọi ý thức bảo vệ môi trường của con người nhưng chúng quá ít ỏi , không đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu và học hòi của người dân . Do đó mà trình độ hiểu biết của người dân còn thấp dẫn đến thái độ tuân thủ nội quy nơi công cộng chưa đi vào nề nếp . Mặt khác , nếu so với các nước trên thế giới thì việc xử phạt những người vô ý thức cũng chưa thật nghiêm túc. Ví dụ như ở nước Singapo, chỉ cần ném một mẩu giấy ra đường là đã bị phạt tiền rất nặng . Tùy vào mức độ sai phạm mà người vi phạm có thể bị đánh giữa đường . Còn ở Việt Nam thì sao ? Những người vô ý thức vẫn ung dung như không có gì xảy ra vì hình thức xử phạt ở nước ta quá dễ dãi , nhẹ nhàng chưa đủ sức răn đe .
Đất nước ngày càng phát triển trên nhiều lĩnh vực , đời sống người dân ngày càng được nâng cao cách nghĩ . Lối sống của mỗi người ngày càng văn minh , tiến độ ứng xử có văn hóa . Đặc biệt là trong yêu cầu của cuộc sống ngày nay , đường phố xanh – sạch – đẹp là một tiêu chuẩn không thể thiếu đối với một thành phố văn minh, sạch đẹp . Điều đó khiến mỗi người cần có ý thức giữ gìn vệ sinh để bảo vệ sức khỏe cho bản thân mình và người khác . Nhận thức cùa người dân đa phần đã tích cực hơn . Mỗi nhà đều phải gom rác sinh hoạt để đúng chỗ để các cô chú công nhân vệ sinh đem vận chuyển đến nơi quy định để xử lý . Những việc làm đó thật đáng biểu dương vì không những giữ vệ sinh giữ sức khỏe cho cá nhân một người một gia đình mà còn cho cả cộng đồng . Các bạn thấy đó tuy có nhiều người vô ý thức xả rác bừa bãi nhưng tồn tại song song với những con người này là số lớn những con người có ý thức vệ sinh rất tốt . Một nhóm bạn trẻ ở thành phố biển nhân ngày nghỉ hè rảnh rỗi đã cùng nhau nhặt rác ở khắp bãi biển , một bà lão lớn tuổi vẫn ngày ngày nhặt những mảnh chai trên cát , làm giảm đi sự nguy hiểm cho những người vui chơi trên biển. Đó là những việc làm tốt đẹp đáng cho ta noi theo . Còn những người vô ý thức kia đã đến lúc suy nghĩ lại . Hãy làm việc gì đó trước khi quá muộn . Nạn vứt rác bừa bãi có thể được khắc phục dựa trên sự cố gắng của mỗi người và toàn xã hội . Ngay từ bây giờ , ta cần kêu gọi ý thức giữ gìn vệ sinh của mỗi người . Bằng nhiểu hình thức như áp phích, panô ,các chương trình tuyên truyền trên đài phát thanh truyền hình , những thông điệp cơ bản về ý thức bảo vệ môi trường sẽ được truyền đến tận tai , tận mắt của mỗi người góp phần nâng cao ý thức của người dân . Hơn nữa , đối với những người ương bướng , cố tình vi phạm cần phải bị xử phạt thích đáng . Không thể nhẹ tay với những con người vô ý thức , tàn phá môi trường nghiêm trọng vì nếu quá dễ dãi với họ thì sẽ mãi không bao giờ chấm dứt được tình trạng trên . Nếu như thực hiện được những việc làm trên thì cuộc sống sẽ tươi đẹp biết bao . Và có lẽ ở nước ta cũng không xảy ra chuyện vớt trên sáu tấn rác mỗi ngày ở một con kênh hay những cái lắc đầu chê trách của du khách nước ngoài .
Mỗi người trong cộng đồng ai cũng muốn có sức khỏe dồi dào , người thân không ốm đau , láng giềng yên ổn nhưng do nếp sống nếp nghĩ quen thuộc của một số ít người mà còn hiện tượng vứt rác bừa bãi ra nơi công cộng . Thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước không cho phép người dna6 cứ tiếp tục lối sống , nếp nghĩ như thế . Hãy khắc phục nó bằng mọi cách có thể . Mỗi người chúng ta hãy sống thật tốt đẹp , giữ gìn vệ sinh ở bất kì nơi đâu , trong nhà hay ngoài ngõ , trên cạn hay dưới sông để tạo môi trường sống trong lành cho cả mình và mọi người , để có điều kiện cống hiến nhiều nhất cho đất nước . Đứng trước xu thế hội nhập ngày nay , làm thế nào để vươn ra biển lớn , để hòa nhập cùng với bạn nè ở bốn phương . Thiết nghĩ , cần nhất là một gương mặt một diện mạo mới của đất nước . Một con đường sạch đẹp ở thành phố luôn tạo cho mọi người, nhất là các khách du lịch quốc tế một cảm giác thoải mái . Hãy làm cho mình đẹp hơn dưới con mắt của mọi người , đứng vì những thói quen xấu của cá nhân như vứt rác bừa bãi gây ảnh hưởng đến mọi người . Hãy chấm dứt những hành vi kém văn hóa ấy để làm cho cuộc sống của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn . Và hãy sống theo tinh thần cao đẹp : “Mình vì mọi người , mọi người vì mình ”
Đối với em thì những hành vi như xả rác bừa bãi nơi công cộng , đổ nước thải sinh hoạt xuống cống , rãnh là những hành động xấu , đáng chê trách . Chúng gây những hậu quả nghiêm trọng cho mọi người . Vì vậy mỗi người dân chúng ta và toàn xã hội cần phải nhanh chóng khắc phục hiện tượng đó . Riêng với chúng em – những học sinh – người chủ tương lai của đất nước thì giờ đây cần phải xem lại bản thân mình , điều chỉnh những hành vi của mình thật đúng đắn . Đứng trước hiện tượng vứt rác bừa bãi trên , chúng em sẽ tích cực nâng cao ý thức bảo vệ môi trường , tuyên truyền cho bạn bè cùng làm theo . Hi vọng rằng với việc làm nhỏ đó chúng em đã góp phần làm cho môi trường sống xung quanh trở nên xanh – sạch – đẹp và trái đất sẽ luôn là ngôi nhà chung đáng yêu của tất cả nhân
Bài văn mẫu nghị luận về ô nhiễm môi trường mẫu 3:
Môi trường bao gồm những yếu tố tự nhiên như đất, nước, không khí, sinh vật,….mang lại nhiều lợi ích to lớn, đóng vai trò quan trọng trong sự sống của loài người. Tuy nhiên hiện nay, môi trường đang bị ô nhiễm một cách trầm trọng, nhận được sự quan tâm và lo lắng của nhiều quốc gia trên thế giới.
Vậy ô nhiễm môi trường là gì? Ô nhiễm môi trường là một tình trạng mà tất cả những yếu tố tự nhiên đã và đang bị nhiễm các chất cặn bẩn, chất độc hại, có hại với sức khỏe con người. Với môi trường đất đai, con người sử dụng những chất thuốc hóa học như thuốc trừ sâu, bảo vệ thực vật,….
Tuy diệt được các loài có hại nhưng những sinh vật có ích cũng bị nhiễm độc thuốc ảnh hưởng theo, làm đất bị thoái hóa trầm trọng, đặc biệt là Việt Nam tình trạng này còn trầm trọng hơn khi ngoài việc phun thuốc hóa học để chống sâu bệnh hại quá liều mà do tỉ lệ dân số nước ta khá cao so với diện tích đất khiến cho diện tích đất trồng đang bị thu hẹp lại.
Với môi trường nước, các nhà máy hoạt động thải chất bẩn ra các con sông mà không xử lý, gây nhiễm độc nước làm nhiều loài sinh vật biển chết hàng loạt. Trong đó phải kể đến sự việc cá chết hàng loạt vào năm 2016 nhà máy Formosa thả chất thải trực tiếp xuống sông khiến các vùng biển Vũng Áng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế bị nhiễm độc nặng, ảnh hưởng đến công việc ngư dân và đời sống sinh hoạt cũng như sức khỏe của người dân.
Ngoài ra, việc phun thuốc hóa học không chỉ làm đất bị suy thoái, mà còn gây ô nhiễm nguồn nước khi phun thuốc trước hoặc sau các ngày mưa làm thuốc hóa học theo đất đổ ra các con sông, đồng thời khí độc trong thuốc bay hơi sẽ ảnh hưởng đến môi trường không khí. Môi trường không khí hiện nay cũng đang bị ô nhiễm rất lớn bởi khí thải của các phương tiện giao thông, các nhà máy chưa qua xử lý.
Đặc biệt tình trạng ô nhiễm không khí nặng nề phải kể đến thủ đô Bắc Kinh Trung Quốc khi người dân Trung Quốc gần như không thấy mặt trời, ra đường luôn phải đội mũ bảo hộ. Đây quả thực là một tình trạng hết sức nguy cấp và có dấu hiệu gia tăng khi khí hậu đang dần biến đổi, vùng Bắc cực có dấu hiệu băng tan.
Tình trạng ô nhiễm gây ra rất nhiều tác hại mà không chỉ sinh vật, con người sẽ là nạn nhân chịu ảnh hưởng trực tiếp. Với sức khỏe con người, ô nhiễm môi trường gián tiếp gây ra những căn bệnh nguy hiểm khi họ ăn phải hoặc uống, sử dụng phải nguồn nước nhiễm độc, sinh vật chết do nhiễm chì nặng gây ngộ độc thực phẩm, đặc biệt Việt Nam ta hiện nay đang là nước đứng thứ hai thế giới vì tỉ lệ người bị mắc bệnh ung thư.
Với tâm lý xã hội, hiện tượng này sẽ gây ra sự hoang mang, lo lắng cho người dân, làm tổn hại nền kinh tế khi họ phát bệnh nặng khi sử dụng những nguồn nước và thức phẩm không đảm bảo, khiến chi phí chữa bệnh vô cùng lớn, làm ảnh hưởng đến lương tháng, công việc của họ.
Vậy tại sao môi trường lại ô nhiễm đến như vậy? Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trước hết về khách quan, nước ta chưa có sự đầu tư cao cho các công tác bảo vệ môi trường, chất thải sinh ra từ các khu sinh hoạt , khu công nghiệp nhà máy quá nhiều đến mức không xử lý được hết, những phần dư sẽ tích tụ và gây nên ô nhiễm, hay tại các phố đông người phân bố thùng rác không hợp lý, hiệu ứng nhà kính làm Trái Đất nóng lên làm quá trình ô nhiễm bị đẩy lên cao hơn.
Tuy nhiên, yếu tố khách quan là một phần nhưng yếu tố chủ quan lại là nguyên nhân chính dẫn đến sự ô nhiễm quá mức trầm trọng bởi nếu có ý thức bảo vệ môi trường, con người hoàn toàn có thể khắc phục được những nguyên nhân khách quan, nhưng hầu hết người dân chưa thực sự ý thức được về tác hại mà những tác động dù nhỏ nhất của họ vẫn có thể dẫn đến sự ô nhiễm, nhiều người vứt rác thải bừa bãi, không đúng nơi quy định, sử dụng nhiều túi nylon, rác thải nhựa như ống hút, cốc nhựa,…
Bởi các chất thải nhựa mất đến hơn một thế kỷ mới có thể phân hủy, việc sử dụng đồ nhựa cũng khiến người dân bị nhiễm độc nhựa hay lạm dụng các chất hóa học bởi chúng “tiện”, những nhà máy cũng vì cái “tiện” mà không qua xử lý thải chất độc hại ra môi trường
Có biện pháp nào hạn chế được tác hại mà ô nhiễm môi trường gây ra hay không? Câu trả lời là có, nước ta nên có thêm những chính sách đầu tư cho các chiến dịch, công tác bảo vệ môi trường, địa phương tại các nơi thường tụ tập hoặc có đông người đi lại nên phân bổ thùng rác hiệu quả và thường xuyên vệ sinh chúng hay tạo ra ngày môi trường, vận động người dân đi xe đạp, xe điện.
Ngoài ra, bạn có thể tuyên truyền cho người dân biết về tác hại môi trường ảnh hượng thế nào đến lợi ích của họ và gia đình, nâng cao ý thức hạn chế sử dụng đồ nhựa, sử dụng các chất hóa học, các nhà máy nên đầu tư mua các trang thiết bị lọc chất thải tối tân, hiện đại để bảo vệ môi trường.
Tuy vậy, để thực hiện được những giải pháp trên cần một quá trình lâu dài và cần sự nhận thức của tất cả mọi người rằng nên vì lợi ích chung sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, không nên vì cái lợi trước mắt mà ảnh hưởng đến cuộc sông của những người khác những sinh vật đã và đang bị đe dọa bởi ô nhiễm môi trường.
Như vậy, ô nhiễm môi trường quả là một tình trạng đáng lo ngại, là hiểm họa đối với cuộc sống sức khỏe con người nói chung và hành tinh Trái Đất nói riêng.
Là học sinh, mỗi chúng ta nên là những người biết sống xanh, biết bỏ rác đúng nơi quy định, chúng ta phải thật sự thay đổi thì người khác mới có thể thay đổi, tự trau dồi những kiến thức về môi trường để tuyên truyền và vận động những người xung quanh chúng ta.
Mẫu nghị luận ô nhiễm môi trường mẫu số 4:
Trong mỗi giờ lên lớp, cô giáo vẫn nhắc nhở với chúng em rằng môi trường đang bị ô nhiễm và cần sự chung ta giúp đỡ của mọi người. Chúng em đang làm học sinh, chúng em sẽ làm những việc vừa sức mình để đóng góp sức nhỏ bảo vệ môi trường.
Mỗi ngày, chúng ta đi ra ngoài, nhìn thấy phố xá đông đúc, bụi mù mịt phủ lên những tán lá cây. Con người đang phải chịu đựng tiếng ồn, khói bẩn và ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe.
Tình trạng mọi người xả rác bừa bãi ra ngoài đường đã làm mất cảnh quan đô thị cũng như khiến cho cuộc sống của người dân phức tạp hơn.
Môi trường xung quanh chúng ta đang ôi nhiễm quá trầm trọng, những con sông đang ngập ngụa nước, tình cảnh thiếu nước sạch, rác thải tràn lan khiến cho con người không thể phát triển được.
Mỗi bạn học sinh khi đang ngồi trên ghế nhà trường, hãy chung tay của mình bảo vệ môi trường bằng những hành động nhỏ nhặt đến hành động lớn lao hơn. Chỉ là một hành động vứt rác vào thùng rác theo quy định. Không phải bạn học sinh nào cũng có ý thực bảo vệ môi trường như thế này. Nhiều bạn vẫn vứt rác bừa bãi ra đường, khiến cho mặt đường bẩn, mất cảnh quan. Ý thức cũng không được nâng cao.
Mỗi khi về nhà, rác rất nhiều, cần nên gom rác lại giúp mẹ, cho vào một túi lớn và chờ xe rác đến để xử lý.
Năm nay em đã sang lớp 4 rồi, ý thức bảo vệ môi trường cũng cần được quan tâm. Em giữ gìn vệ sinh trong lớp học, làm trực nhật thường xuyên, để rác đúng nơi quy định. Lúc về nhà em có thể tự đi xe đạp để bảo vệ môi trường, tránh bụi bẩn.
Mỗi năm có dịp Tết trồng cây thì em sẽ tham gia với mọi người gieo mầm những cây xanh để lan tỏa bóng mát. Đây là việc làm giúp cho môi trường thêm xanh sạch đẹp hơn mà nhiều người cần phải ý thức có được.
Môi trường của chúng ta được bảo vệ, luôn xanh sạch đẹp thì sức sống của mỗi người cũng được nâng cao lên rất nhiều. Bởi vậy bảo vệ môi trường chính là trách nhiệm của mỗi người.
Công Ty Tnhh Tư Vấn Xây Dựng, Địa Kỹ Thuật Và Môi Trường
Phương pháp thử động biến dạng lớn được áp dụng để đánh giá sức chịu tải của cọc đơn thẳng đứng, cọc đơn xiên, không phụ thuộc kích thước và phương pháp thi công (đóng, ép, khoan thả, khoan dẫn, khoan nhồi …) thông qua xác định lực và vận tốc thân cọc do một lực tác động dọc trục lên đầu cọc bởi một quả búa nặng nhằm tạo ra một chuyển vị đủ lớn ở khu vực đầu cọc.
NGUYÊN LÝ THÍ NGHIỆM THỬ ĐỘNG BIẾN DẠNG LỚN (PDA)
Phương pháp thí nghiệm thử động biến dạng lớn (PDA) dựa trên lý thuyết truyền sóng ứng suất một chiều trong thanh đàn hồi. Sóng ứng suất gây ra bởi tác động của búa đóng truyền từ đầu cọc đến mũi cọc. Cường độ và vận tốc của sóng ứng suất phụ thuộc vào năng lượng búa và đặc tính cơ học của vật liệu cọc. Quá trình truyền sóng ảnh hưởng bởi cường độ đất xung quanh cọc và đặc tính của vật liệu cọc. Bằng cách đo và phân tích quá trình này, phân bố cường độ đất tại các độ sâu được xác định cũng như các khuyết tật của cọc được phát hiện.
Khi tác dụng lực tại đỉnh cọc, sóng ứng suất sẽ truyền xuống theo thân cọc với vận tốc sóng (C) không đổi, đó là một hàm của module đàn hồi E và tỷ trọng r, (C2= E/r). Thời gian cần thiết cho sóng ứng suất truyền tới mũi cọc và phản hồi trở lại đỉnh cọc tỉ lệ với khoảng cách tới nguồn gây sóng phản hồi t = 2.L/C.
Khi sóng ứng suất (Wi) gặp sự thay đổi kháng trở cơ học từ Z1 = r1.A1.C tới Z2=r2.A2.C, thì một phần sóng phản hồi đi lên (Wu) và phần còn lại truyền xuống dưới (Wd) để cả hai điều kiện tương thích và cân bằng sau được thoả mãn:
Wd = Wi.[2.Z2/(Z2 + Z1)]
Wu = Wi.[( Z2 – Z1)/(Z2 + Z1)]
Tại đầu mũi tự do (Z2 = 0), sóng nén được phản hồi toàn bộ nhưng ngược dấu, còn đối với cọc đồng đều (Z1 = Z2) thì sóng nén lan truyền với biên độ không đổi.
Bằng cách bố trí các thiết bị đo xác định các giá trị vận tốc và lực ở đầu cọc tại các thời điểm khác nhau (bao gồm các đầu đo gia tốc và đầu đo biến dạng) có thể cho phán đoán được tình trạng khuyết tật và sự phân bố sức kháng của đất dọc theo thân cọc (sức chịu tải của cọc).
TIÊU CHUẨN ÁP DỤNG
TCVN 11321:2016 “Cọc – Phương pháp thử động biến dạng lớn”.
ASTM D4945-00 “Phương pháp thí nghiệm thử động biến dạng lớn cho cọc”.
Môi Trường Vĩ Mô (Môi Trường Tổng Quát)
Các yếu tố cơ bản của môi trường vĩ mô:
Yếu tố kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước; Hoặc mức tăng phần trăm (%) hay tuyệt đối hàng năm, hay bình quân trong một giai đoạn. Sự tăng trưởng kinh tế chỉ có ý nghĩa khi nó đem lại sự phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế – xã hội. Phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một sự chuyển biến nền kinh tế từ trạng thái thấp lên trạng thái cao hơn. Do đó không có tiêu chuẩn chung về sự phát triển, để chỉ trình độ phát triển cao, thấp khác nhau giữa các nền kinh tế trong mỗi thời kỳ các nhà kinh tế học phân quá trình này thành các nấc thang: kém phát triển, đang phát triển và phát triển.
Các đại lượng cơ bản đo lường sự tăng trưởng kinh tế hiện nay bao gồm:
+ Chỉ tiêu GDP : Tổng sản phẩm quốc nội (tổng sản phẩm trong nước), là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra hàng năm trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
+ Chỉ tiêu GNP : Tổng sản phẩm quốc dân, là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một nước tạo ra không phân biệt sản xuất được thực hiện trong nước hay ngoài nước
GNP = GDP + thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài
+ Chỉ tiêu NNP (NI) : Sản phẩm quốc dân thuần túy (thu nhập quốc dân sản xuất), là giá trị còn lại của tổng sản phẩm quốc dân sau khi trừ đi giá trị khấu hao TSCĐ (Dp) trong kỳ
+ Chỉ tiêu NDI : Thu nhập quốc dân sử dụng, là phần mà nhân dân nhận được và có thể tiêu dùng, hay là phần thu nhập ròng sau khi đã trừ đi thuế gián thu (T i), thuế trực thu (T d) và cộng với trợ cấp S d.
+ Chỉ tiêu GDP/người hoặc GNP/người : Phản ảnh thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia
Như vậy, trong tiến trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, doanh nghiệp sẽ đóng vai trò chủ đạo, đồng thời mức tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế sẽ có những tác động tích cực hay tiêu cực đối với tất cả các tổ chức nói chung.
Chính sách kinh tế của quốc gia:
Chính sách kinh tế thể hiện quan điểm, định hướng phát triển cuả Nhà nước thông qua các chủ trương, chính sách điều hành và quản lý nền kinh tế. Các chính sách kinh tế tạo ra một môi trường kinh doanh và tác động lên tất cả các tổ chức theo hai khuynh hướng sau:
+ Tác động khuyến khích, ưu đãi một số ngành, một số lĩnh vực hoặc khu vực nào đó, ví dụ những đặc khu kinh tế sẽ có những ưu đãi đặc biệt so với những khu vực khác hay những ngành Nhà nước độc quyền quản lý sẽ có lợi thế hơn những ngành khác….
+ Chính phủ đưa ra những biện pháp chế tài như những ngành bị cấm hay hạn chế kinh doanh…
Các công cụ thường được Nhà nước sử dụng để khuyến khích hay chế tài là các luật thuế, lãi suất, chính sách giá cả, chính sách tiền lương, tỷ giá hối đoái…
Chu kỳ kinh tế:
Chu kỳ kinh tế được hiểu đó là sự thăng trầm về khả năng tạo ra của cải của nền kinh tế trong những giai đoạn nhất định. Các nhà kinh tế chia chu kỳ kinh tế thành bốn giai đoạn sau đây:
Giai đoạn phát triển, là giai đoạn nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh và đồng thời có sự mở rộng về quy mô. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp có điều kiện, cơ hội phát triển mở rộng quy mô và gia tăng thị phần của mình lên
Giai đoạn trưởng thành, là thời điểm nền kinh tế phát triển cao nhất của nó và bắt đầu đi vào giai đoạn suy thoái.
Giai đoạn suy giảm, là thời kỳ nền kinh tế có mức tăng trưởng chậm và kỳ sau thấp hơn kỳ trước. Trong giai đoạn này quy mô doanh nghiệp thường bị thu hẹp lại so với trước.
Giai đoạn tiêu điều cực điểm, là thời điểm suy thoái của nền kinh tế xuống mức cực tiểu, giai đoạn này có thể thấy có hàng loạt các doanh nghiệp bị phá sản.
Như vậy, có thể thấy chu kỳ kinh tế có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của tất cả các doanh nghiệp và các quyết định của các nhà quản trị.
Khuynh hướng toàn cầu hóa kinh tế:
Ngày nay, thế giới đang diễn ra một khuynh hướng ngày càng mạnh mẽ đó là xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế. Như vậy, các doanh nghiệp trong mỗi quốc gia muốn tồn tại và thành công tất yếu phải không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm… nhằm đương đầu với quá trình cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Yếu tố chính trị và chính phủ:
Thể chế chính trị giữ vai trò định hướng và chi phối toàn bộ hoạt động của xã hội, trong đó có hoạt động kinh doanh. Nó được thể hiện qua các yếu tố như tính ổn định cuả hệ thống chính quyền, hệ thống luật pháp của Nhà nước, đường lối và chủ trương của Đảng, các chính sách quan hệ với các tổ chức và các quốc gia khác trên thế giới. Trong thực tế nhiều cuộc chiến tranh thương mại đã từng nổ ra giữa các quốc gia nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh kinh tế và ngày nay các cuộc chiến tranh về sắc tộc, tôn giáo…suy cho cùng cũng vì mục đích kinh tế. Trong những cuộc chiến tranh như vậy sẽ có một số doanh nghiệp hưởng lợi và tất nhiên cũng có một số doanh nghiệp đương đầu với những bất trắc và khó khăn. Qua đó có thể thấy rằng giữa các lĩnh vực chính trị, chính phủ và kinh tế có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Sự tác động của chính trị và chính phủ đối với kinh tế thể hiện ở một số phương diện sau:
Vai trò của chính phủ đối với kinh tế:
Vai trò của chính phủ đối với kinh tế thể hiện qua các đặc trưng sau:
+ Tạo lập và thúc đẩy ý chí tăng trưởng và phát triển kinh tế cho toàn dân thông qua các hành động và quyết tâm sau:
Gia tăng tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư cho sản xuất
Chống quan liêu, tham nhũng và buôn lậu
Duy trì trật tự kỷ cương xã hội và các hoạt động kinh tế.
+ Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc kiểm soát 03 yếu tố :
Bảo đảm sự cân đối thu, chi ngân sách nhà nước nhằm kìm giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được.
Bảo đảm cân đối trong cán cân thương mại thông qua sử dụng tỷ giá hối đoái hợp lý giữa đồng nội tệ và các loại ngoại tệ.
Bảo đảm cân đối giữa tích lũy và đầu tư nhằm tránh sự lệ thuộc đối với bên ngoài
+ Tôn trọng các quy luật của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…bằng các biện pháp sau:
Mở rộng và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh
Bảo đảm một cơ cấu hợp lý giữa các loại hình doanh nghiệp, chống hành vi thôn tính, sát nhập một cách bất hợp pháp.
Bảo đảm giá cả phản ảnh chính xác chi phí xã hội
+ Bảo đảm cân đối cơ cấu tích lũy vốn trong và ngoài nước, có nghia là cần duy trì mức huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế một tỷ lệ thích hợp và điều quan trọng là sử dụng những nguồn vốn nội bộ vào những khu vực (hệ thống cơ sở hạ tầng, phát triển công nghệ cao, phát triển nguồn nhân lực…) tạo ra tăng trưởng và phát triển bền vững cho nền kinh tế. Còn các nguồn vốn bên ngoài chỉ có tác dụng khởi động nền kinh tế trong giai đoạn đầu phát triển và nó cần được liên kết chặt chẽ với nguồn vốn trong nước để xác định lĩnh vực đầu tư thích hợp.
Các tác động của chính trị, chính phủ đối với kinh tế:
Cơ chế bảo hộ sản xuất trong nước thông qua các biện pháp như thuế quan, hạn ngạch, trợ giá hàng trong nước…nhằm giúp các tổ chức trong nước tránh hoặc giảm bớt sự cạnh tranh và những bất lợi từ bên ngoài.
Đảm bảo một sự ổn định chính trị nhằm tạo ra lòng tin và hấp dẫn cho các tổ chức kinh doanh trong nước lẫn ngoài nước. Muốn vậy mỗi quốc gia cần phải thực hiện các vấn đề sau:
Tránh những bất ổn trong nước như khủng hoảng chính phủ, lật đổ chính quyền, đảo chính…
Tránh xung đột, thù địch với các quốc gia khác..
Xu hướng chính trị phải phục vụ cho việc phát triển kinh tế và xã hội.
Cần có những định hướng chung về nền kinh tế một cách hợp lý như chính sách kiểm soát về tài chính, về thị trường, chính sách môi trường-tài nguyên…
Yếu tố xã hội:
Giữa các tổ chức và môi trường xã hội có những mối liên hệ chặt chẻ, tác động qua lại với nhau, các tổ chức đều hoạt động trong một môi trường xã hội. Xã hội chung cấp cho các tổ chức những nguồn lực đầu vào, ngược lại sản phẩm dịch vụ của các doanh nghiệp tạo ra sẽ đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng nói riêng và của xã hội nói chung. Các yếu tố thuộc môi trường xã hội tác động lên các hoạt động và kết quả của tổ chức bao gồm:
Dân số và thu nhập:
Ta thấy các tiêu chuẩn về dân số và thu nhập như độ tuổi, giới tính, mật độ, thu nhập, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, động cơ, thói quen, sở thích, hành vi mua sắm ….đây là các tiêu chuẩn giúp doanh nghiệp làm căn cứ để phân khúc thị trường, hoạch định kế hoạch định vị nhà máy, sản xuất, phân phối sản phẩm…Chẳng hạn những vùng có nhiều người lớn tuổi thì sẽ có nhu cầu cao đối với các dịch vụ y tế – bảo vệ sức khỏe, còn những vùng có nhiều trẻ em thì sẽ có nhu cầu cao đối với các dịch vụ giáo dục, sản phẩm quần áo-đồ chơi ….Hoặc những vùng mà thu nhập và đời sống người dân được nâng cao thì sức mua của người dân tăng lên rất nhanh, điều này tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nhà sản xuất
Thái độ đối với công việc:
Thái độ của người lao động đối với công việc thể hiện thông qua 02 tiêu thức cơ bản là đạo đức làm việc và lòng trung thành với tổ chức. Thái độ này của người lao động được chia thành 02 xu hướng như sau:
Thứ nhất, người lao động gắn bó, trung thành đối với tổ chức, họ đem hết tâm huyết, sức lực phục vụ cho tổ chức nhằm đảm bảo một sự an toàn về chỗ làm việc và để có cơ hội thăng tiến…Xu hướng này thường thấy trong các công ty Nhật bản (áp dụng chế độ làm việc suốt đời), một số nước Châu Á khác. Ở đây chuẩn mực giá trị đạo đức được đề cao hơn tài năng của người lao động
Thứ hai, do quy luật cạnh tranh, quy luật của sự đào thải…người lao động thường ít gắn bó và ít trung thành với một tổ chức, họ quan tâm đến cuộc sống riêng và gia đình nhiều hơn, họ chú ý trau dồi kỹ năng nghề nghiệp bản thân của mình nhằm thích nghi với nhiều điều kiện thay đổi khi bị sa thải chổ làm…Xu hướng này thường thấy trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là các công ty Mỹ và một số nước phương Tây, ở đó tài năng của người lao động được xem trọng hơn các các chuẩn mực giá trị về đạo đức
Chính những xu hướng thái độ trên có thể đem lại cơ hội cho doanh nghiệp này mà cũng có thể đem lại nguy cơ cho các doanh nghiệp khác.
Yếu tố tự nhiên:
Từ xưa đến nay, các yếu tố thuộc về tự nhiên có tác động không nhỏ đến tổ chức, bao gồm các yếu tố sau: Thủy văn, điều kiện thời tiết, địa hình, địa chất, tài nguyên và ô nhiễm môi trường….Nó có thể tạo ra những thuận lợi hoặc cũng có thể gây ra những hậu qủa khôn lường đối với một tổ chức. Mọi tổ chức và quốc gia từ xưa đến nay đã có những biện pháp tận dụng hoặc đề phòng đối phó với các yếu tố tự nhiên, đặc biệt hiện nay có các chính sách quản lý chặt chẽ nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và bảo vệ môi trường sau:
+ Tăng mức đầu tư cho thăm dò và đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, phát triển nhằm tìm kiếm những nguồn tài nguyên mới, tái sinh nguồn tài nguyên, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, hạn chế lãng phí tài nguyên.
+ Thiết kế sản phẩm trên cơ sở hợp lý hóa sử dụng các yếu tố đầu vào
+ Tăng cường sử dụng lại các chất thải công nghiệp và sinh hoạt nhằm bảo vệ môi trường và tiết kiệm nguyên liệu.
+ Tìm kiếm và sử dụng các nguồn năng lượng và nguyên liệu thay thế, chẳng hạn thủy tinh dần thay thế cho kim loại, gốm sứ sử dụng nhiều trong công nghiệp điện lực và hàng không…
Yếu tố kỹ thuật – công nghệ:
Ngày nay yếu tố kỹ thuật và công nghệ là yếu tố năng động nhất trong các yếu tố môi trường kinh doanh. Yếu tố này luôn luôn biến đổi và tác động rất lớn đến các doanh nghiệp. Sự biến đổi này được thể hiện :
Chu kỳ biến đổi công nghệ ngày càng rút ngắn buộc các doanh nghiệp phải tận dụng tối đa công nghệ nhằm thu hồi vốn đầu tư, đồng thời phải thay đổi công nghệ liên tục để đứng vững trong cạnh tranh
Vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn hơn, do công nghệ biến đổi liên tục và chu kỳ biến đổi công nghệ ngày càng ngắn nên ngày càng có nhiều sản phẩm mới và chu kỳ sống của nó cũng ngắn hơn, chính điều này buộc các doanh nghiệp phải có chiến lược về sản phẩm một cách hợp lý và thực tế ngày nay ta thấy đa số các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược đa dạng hóa sản phẩm hơn là kinh doanh chỉ một hoặc một vài sản phẩm nào đó.
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp mới đã tạo nên những công cụ và hệ thống hoạt động tiên tiến như máy vi tính, robot, tự động hóa…từ đó tạo được những mặt tích cực như giảm chi phí, tăng NSLĐ, tăng hiệu quả cho doanh nghiệp, nhưng cũng để lại những mặt trái của nó mà các tổ chức và xã hội phải đương đầu giải quyết như nạn thất nghiệp gia tăng, chính sách đào tạo lại nguồn nhân lực ra sao …..
Chính sách của Nhà nước về nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ, bảo vệ bằng phát minh-sáng chế…cũng cần được chú trọng
Cập nhật thông tin chi tiết về Địa Chất Môi Trường – Cổng Địa Môi Trường trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!