Bạn đang xem bài viết Dạy Kiến Thức Hình Tam Giác, Hình Thang Cho Học Sinh Yếu Lớp 5 được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hình học là nội dung cơ bản, chủ yếu của chương trình môn Toán ở Tiểu học, nó được rải đều tất cả các khối lớp và được nâng cao dần về mức độ. Từ nhận diện hình ở lớp 1, 2 sang đến tính chu vi, diện tích ở các lớp 3, 4, 5. Nói chung, hình học là môn học tương đối khó trong chương trình môn Toán vì nó đòi hỏi người học khả năng tư duy trừu tượng, những em có học lực khá và giỏi sẽ rất thích học môn này, ngược lại những em có khả năng tư duy chậm hơn thì rất ngại học dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém môn toán chiếm tỉ lệ khá cao so với các môn học khác. Trước thực trạng đó, nhiệm vụ đặt ra cho ngành giáo dục, cho mỗi giáo viên đứng lớp là làm thế nào nâng cao chất lượng học sinh, tránh để học sinh ngồi nhầm lớp nhất là trong giai đoạn hiện nay cả ngành giáo dục đang ra sức thực hiện “Hai không với bốn nội dung” của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc tìm hiểu về mức đội kiến thức hình học ở Tiểu học và biết được người ta đưa vào những nội dung nhằm mục đích gì từ đó mà để ra phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh thì hiệu quả giảng dạy sẽ cao hơn. Trong chương trình Toán 5 việc dạy nội dung hình học cho học sinh không khó, bên cạnh những thành công là giúp học sinh nắm được cách nhận diện hình, tìm diện tích, chu vi, thể tích thì cũng còn những hạn chế là các em chưa nắm rõ bản chất của đơn vị kiến thức, kết quả là chưa đáp ứng được yêu cầu của thực hành. Làm thế nào để các em có thể sử dụng kiến thức cơ bản một cách linh hoạt ở từng trường hợp cụ thể. Đó cũng là trăn trở của bản thân khi dạy cho học sinh kiến thức về nội dung hình học. Đặt cho mình nhiệm vụ tháo gỡ những khó khăn trên, bản thân đã nhiều năm được phân công dạy lớp 5, năm học này lại được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 5A1 là lớp có tới 31,8 % học sinh yếu môn toán (theo kết quả khảo sát đầu năm), trong quá trình giảng dạy tôi rút ra một vài kinh nghiệm trong việc giúp học sinh yếu kém học các bài có nội dung hình học. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Dạy kiến thức hình tam giác, hình thang cho học sinh yếu Lớp 5”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém. Giúp học sinh hình thành ky năng, sử dụng thành thạo và vận dụng một cách linh hoạt các công thức trong giải toán. III. ĐỐI TƯỢNG – PHẠM VI NGHIÊN CỨU Tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy bài hình tam giác,hinh thang. Nghiên cứu cách hình thành kiến thức mới và vận dụng vào từng bài cụ thể. Tiến hành thực nghiệm. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài Xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài Tìm hiểu nội dung, phương pháp để hình thành, khắc sâu và vận dụng công thức Thực nghiệm sư phạm PHẦN 2: NỘI DUNG CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.Cơ sở toán học a. Hình tam giác – Tam giác có 3 cạnh, 3 góc, 3 đỉnh; có 1 đáy, 2 cạnh bên và 1 đường cao tương ứng. 3 góc: góc A, góc B, góc C 3 đỉnh: đỉnh A, đỉnh B, đỉnh C 3 cạnh: cạnh AB, cạnh AC, cạnh BC Đáy BC, đường cao AH vuông góc với BC – Có 3 dạng hinh tam giác: A H C B + Tam giác có 3 góc nhọn: Từ một đỉnh bất kì, ta có thể kẻ một đường cao tương ứng xuống đáy (cạnh đối diện). Cả 3 đường cao này đều nằm trong tam giác. A H C B A H C B A H C B + Tam giác có một tù và hai góc nhọn: từ một đỉnh bất kì ta kẻ được đường cao tương ứng với đáy: có hai đường cao ngoài tam giác. Đáy BC, đường cao AH Đáy AC, đường cao BH Đáy AB, đường cao CH A C H B A C H B A C H B + Tam giác có 1 góc vuông và hai góc nhọn (Tam giác vuông) Do 2 cạnh góc vuông vuông góc với nhau nên chúng đều có thể làm đường cao A B C A B C A B C K Đáy BC, đường cao AB Đáy AB, đường cao BC Đáy AC, đường cao BK Hai tam giác nếu có chung đường cao (đường cao bằng nhau) và đáy bằng nhau (chung đáy) thì chúng có diện tích bằng nhau. Công thức tính diện tích: Trong đó: S: Diện tích a: Độ dài đáy h: Chiều cao b. Hình thang – Có 2 cạnh đáy đối diện AB, CD song song với nhau – Có 2 cạnh bên AD, BC. – AH đường cao – Nếu từ 1 điểm bất kỳ ở đáy bé ta hạ vuông góc xuống đáy lớn thì ta có đường cao của hình thang – Nếu cạnh bên AD vuông góc với 2 đáy AB và CD thì hình thang này là hình thang vuông, AD là đường cao. A B H C D C A D B Công thức tính diện tích: Trong đó: S: Diện tích a, b: Độ dài 2 đáy h: chiều cao 2. Giáo dục môn Toán Trong dạy học Toán ở tiểu học đặc biệt là dạy các bài toán có nội dung hình học thì phương pháp trực quan luôn được sử dụng. Ở 2 bài dạy hình tam giác và hình thang thì giáo viên và học sinh đều thao tác trên đồ dùng ngoài ra cần dùng hỗ trợ thêm phương pháp thực hành luyện tập, phương pháp vấn đáp gợi mở, phương pháp giảng giải minh hoạ. II.-KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VÀ KHẢO SÁT THỰC TIỄN Về sách giáo khoa Hình tam giác: dạy 4 tiết từ tiết 85 đến tiết 88. Tiết 85: Hình tam giác Tiết 86: Diện tích hình tam giác Tiết 87+88: Luyện tập thực hành Hình thang: Dạy 4 tiết từ tiết 90 đến tiết 93 Tiết 90: Hình thang Tiết 91: Diện tích hình thang Tiết 92+93: Thực hành luyện tập Ngoài 2 tiết 85 và 90 là giới thiệu về hình, các tiết còn lại chủ yếu học sinh vận dụng công thức để tính diện tích của một hình sau khi đã cho các số liệu cụ thể. Về học sinh Đặc điểm của học sinh Tiểu học là hiểu và ghi nhớ máy móc nên trước 1 bài bất kỳ các em thường đặt bút tính luôn nhiều khi dẫn đến những sai sót không đáng có do các em chưa chú ý đến các số đo của đáy, đường cao, hoặc mối liên hệ giữa các yếu tố trong công thức tính. Trí nhớ của học sinh chưa bền vững chỉ dừng lại ở phát triển tư duy cụ thể còn tư duy trừu tượng, khái quát kém phát triển (nhất là ở học sinh yếu kém) nên khi gặp những bài cần có sự tư duy logic như tính chiều cao hay độ dài đáy thì các em không làm được do không có công thức tính. So với mặt bằng toàn huyện thì chất lượng học sinh trường Tiểu học Tam Ngãi B chưa cao so với một số trường khác, số học sinh lớp ít nên dù có chia lớp theo trình độ học sinh vẫn chưa triệt để gây ra những khó khăn nhất định khi bồi dưỡng học sinh yếu. Đặc điểm của trẻ ở Tiểu học là chóng nhớ nhưng nhanh quên. Sau khi học bài mới, cho các em luyện tập ngay thì các em làm được bài nhưng chỉ sau một thời gian ngắn kiểm tra lại thì hầu như các em đã quên hoàn toàn, đặc biệt là những tiết ôn tập, luyện tập cuối năm. Cụ thể: Sau khi các em học xong bài Diện tích hình tam giác, cho các em làm bài trong sách giáo khoa (làm đề kiểm tra luôn) Đề kiểm tra Bài 1: Tính diện tích hình tam giác có: a, Độ dài đáy là 8 cm, chiều cao là 6 cm b, Độ dài đáy là 2,3 dm, chiều cao là 1,2 dm c, Độ dài đáy là 5 m, chiều cao là 24 dm A B C A B C A B C Đáy AB Đáy AB Đáy AC Biểu điểm chấm : Bài 1: 6 điểm (mỗi câu 2 điểm) Bài 2: 4 điểm. Ở tam giác 1: 1 điểm Ở tam giác 2: 2 điểm Ở tam giác 3: 1 điểm Thống kê kết quả chấm bài của học sinh tại lớp như sau : Điểm Bài 1 Bài 2 Câu a Câu b Câu c Câu a Câu b Câu c Điểm 0 Điểm 1 Điểm 2 Nhìn vào bảng thống kê ta thấy đa số các em vận dụng công thức và lý thuyết đã học mà giáo viên hướng dẫn như sách giáo khoa nên đã làm được câu a, câu b của bài 1 và câu a bài 2, còn câu c bài 1, câu b, câu c bài 2 các em làm chưa đúng và còn nhiều em chưa tìm được cách làm. 2.Về giáo viên Quyết định chất lượng dạy học phụ thuộc nhiều vào giáo viên. Do cấu trúc các bài này trong sách giáo khoa ở những tiết học đầu mới chỉ là giới thiệu và hình thành công thức để học sinh nắm được và giải toán nên trong qúa trình lên lớp giáo viên cũng chỉ có thể giúp học sinh giải quyết những bài tập trong sách chứ chưa có sự đào sâu, mở rộng. Đối với đối tượng học sinh yếu kém thì lại càng khó khăn hơn trong việc vận dụng công thức để xác định những yếu tố trong công thức đó. Ví dụ : Hình tam giác: Hình thành và vận dụng công thức để tính diện tích chứ chưa yêu cầu tính độ dài đáy hay đường cao. GIẢI PHÁP Phân tích nội dung, phương pháp dạy 2 loại hình Hình tam giác + Bài giới thiệu về hình tam giác (Tiết 85) Cho học sinh quan sát hình và chỉ ra 3 cạnh, 3 góc, 3 đỉnh sau đó giới thiệu cho học sinh 3 loại hình tam giác, từ đây học sinh nhận diện hình để xác định đâu là tam giác có 3 góc nhọn, đâu là tam giác có 1 góc tù và 2 góc nhọn, đâu là tam giác vuông có 1 góc vuông, 2 góc nhọn ( ở bài tập 1 trang 86.) Cho học sinh nhận biết đáy và đường cao tương ứng bằng cách quan sát và dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh đọc tên được các đường cao ứng với đáy (ở bài tập 2 trang 86.) + Bài diện tích hình tam giác (tiết 86) Dạy bài này bằng cách cắt ghép 2 tam giác bằng nhau, giáo viên thao tác trên đồ dùng cho học sinh quan sát và cho học sinh làm theo, sau đó mới hình thành công thức và nhận xét : Hình chữ nhật ABCD có chiều dài bằng A E B C D H độ dài đáy DC của tam giác EDC, có chiều rộng bằng chiều cao EH của tam giác EDC. Diện tích hình chữ nhật gấp 2 lần diện tích hình tam giác Diện tích hình chữ nhật ABCD là CD x AD = DC x EH Vậy diện tích tam giác EDC là Từ đây mà phát biểu quy tắc và hình thành công thức : Trong đó S Là diện tích, a là độ dài đáy, h là chiều cao. Từ đây, các em sẽ vận dụng công thức để làm bài tập tính diện tích tam giác biết độ dài đáy a và chiều cao h ở tiết 86,87,88. Hình thang + Bài giới thiệu về hình thang (tiết 90) Cho học sinh quan sát và chỉ ra hình thang ABCD có : Cạnh đáy AB, CD ; 2 cạnh bên AD, BC. Hai cạnh đáy song song Giới thiệu đường cao AH và độ dài AH là chiều cao. Học sinh vận dụng khái niệm: Hình thang có 1 cặp cạnh đối diện song song để nhận diện hình ở bài 1 (trang 91) vẽ hình thang ở bài 2 (trang 92) và nắm khái niệm hình thang vuông ở bài 3. + Bài diện tích hình thang (tiết 91) Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và thao tác trên đồ dùng để thấy cắt ghép hình thang trở thành hình tam giác. Vì vậy diện tích hình thang ABCD bằng diện tích tam giác ADK. Từ đó mà xây dựng công thức và phát biểu quy tắc : Trong đó: S là diện tích a,b là độ dài các cạnh đáy h là chiều cao Cuối cùng học sinh vận dụng công thức để tính diện tích hình khi biết độ dài hai đáy và chiều cao ở tiết 91+92+93. 2.Giải pháp Ở trường tiểu học hiện nay có thuận lợi là học sinh đã được trang bị đủ dụng cụ học tập . Vì vậy, giáo viên có đủ thời gian để cung cấp đến các em những đơn vị kiến thức mà giáo viên cho là cần thiết cho các em hoặc là những đơn vị kiến thức mà các em nắm chưa vững. 2.1. Hình tam giác Ở lớp 5, hình tam … ích nội dung, khi các em đã nắm được trọng tâm bài, giáo viên giúp học sinh xác định rõ đường cao xuất phát từ 1 đỉnh luôn vuông góc với đáy tương ứng. Khi giúp học sinh phân biệt 3 dạng hình giáo viên cần tiến hành thêm 1 số công việc như sau: Với tam giác có 3 góc nhọn Sau khi học sinh đã quan sát trong sách giáo khoa về đặc điểm của loại hình này, giáo viên có thể gợi mở bằng 1 số câu hỏi sau: – Ba góc của tam giác lớn hơn hay nhỏ hơn góc vuông? – AH là đường cao tương ứng với đáy BC như hình vẽ trên bảng. Nếu lấy đáy là AC ta sẽ có đường cao nào? Tương tự nếu lấy đáy là AB thì đường cao sẽ hạ từ đâu? A H C B A H C B A H C B Tiếp theo, giáo viên đưa ra 1 số hình tam giác với các vị trí đáy khác nhau, yêu cầu học sinh vận dụng những điều vừa học xác định đường cao lần lượt với các đáy AB, AC, BC. A H C B A H C B A H C B Cuối cùng giáo viên hỏi: Ba đường cao của tam giác có 3 góc nhọn nằm trong hay ngoài tam giác? Tam giác có 1 góc tù và 2 góc nhọn Với đối tượng học sinh yếu kém thì việc xác định đường cao trong loại tam giác này thực sự khó khăn, các em sẽ không kẻ được nếu không có sự giúp đỡ của giáo viên. Sách giáo khoa đã giới thiệu đường cao AH tương ứng với đáy BC nhưng giáo viên cần lưu ý học sinh để kẻ được đường cao trước hết ta phải kéo dài đáy sang A C H B hai bên, sau đó kẻ đường cao AH từ đỉnh A vuông góc xuống BC. Tương tự phần trên, giáo viên cũng đưa ra các tam giác với các vị trí đáy khác nhau và yêu cầu học sinh thực hành kẻ đường cao tương ứng với các đáy. Nhưng giáo viên vẫn phải lưu ý học sinh thực hiện theo 2 bước: – Kéo dài đáy sang 2 bên. – Kẻ đường cao từ đỉnh vuông góc xuống đáy. Sau khi các em thực hiện xong, đáp án đúng sẽ là: A C H B A C H B A C H B Đáy BC, đường cao AH Đáy AB, đường cao CH Đáy AC, đường cao BH Cuối cùng, giáo viên hỏi: Em có nhận xét gì về 3 đường cao trong tam giác có 1 góc tù, 2 góc nhọn? (Có 2 đường cao ngoài và 1 đường cao trong tam giác). Việc sử dụng đường cao ngoài của tam giác rất khó cho học sinh yếu kém tuy nhiên ta vẫn phải cho các em làm quen để học sinh nắm được bản chất từ đó các em có điều kiện học tốt hơn ở các bài học khác. Ví dụ, ở bài học 2, tiết 93 phần ôn tập – luyện tập: Để tính được diện tích hình tam giác BEC học sinh buộc phải dùng đường cao ngoài tam giác ngoài tam giác từ đỉnh B xuống đáy EC, đó chính là đường cao hình thang ABCD (trang 95). Điều này sẽ thật sự có ích không những ở học sinh yếu kém mà nó đặc biệt quan trọng cho học sinh khá giỏi vì đây là tiền đề, là cơ sở cho các em học tốt hơn môn hình học ở lớp trên. Hiện nay ở các đề thi học sinh giỏi bậc tiểu học không bao giờ vắng bóng bài toán có nội dung hình học cần sử dụng đường cao ngoài tam giác. Tam giác có 1 góc vuông và 2 góc nhọn: Trong sách giáo khoa chỉ giới thiệu AB là đường cao ứng với đáy BC còn ở bài tập 2 chỉ yêu cầu học sinh xác định đường cao trong tam giác thì giáo viên cho học sinh quan sát và khẳng định thêm: – Nếu xem BC là đáy thì AB là đường cao – Nếu xem AB là đáy thì BC là đường cao Sau khi học sinh nhận biết được đáy, chiều cao của loại tam giác này, giáo viên lại cho học sinh xác định với các tam giác có vị trí đáy khác nhau. Đáp án cuối cùng là: A B C Đáy BC, đường cao AB A B C Đáy AB, đường cao BC A B K Đáy AC, đường cao BKBBK C Nhận xét về các đường trong tam giác vuông: 2 cạnh vuông góc với nhau chính là 2 đường cao tương ứng với đáy và 1 đường cao nữa nằm trong tam giác Kết luận: Trong 1 tam giác ta có thể kẻ 3 đường cao tương ứng với 3 đáy của nó. Tuỳ vào hình dạng, đặc điểm của tam giác và đáy của nó mà đường cao tam giác có thể nằm trong hay nằm ngoài hay chính là cạnh của tam giác. Tiết 86: Diện tích tam giác Sách giáo khoa đã hình thành quy tắc, công thức tính rõ ràng: Trong đó: S: Diện tích a: Độ dài đáy h: Chiều cao Sau khi có công thức, học sinh lắp số liệu các em sẽ làm được bài tập 1, 2 (tiết 86) bài 1, 2, 3, 4 (tiết 87) và bài 3 (tiết 88). Tiếp theo, giáo viên phải làm rõ cho học sinh 2 nội dung sau: + Cũng như việc tính diện tích hình chữ nhật, hình thoi, hình bình hành, để tính được diện tích tam giác thì các số đo: chiều cao, độ dài đáy phải cùng 1 đơn vị đo, nếu vậy các em sẽ làm đúng bài 2a (tiết 86) và bài 1b (tiết 87) + Cho học sinh nhận xét thêm về công thức Ta xem: (a x h) là số bị chia 2 là số chia S là số chia Thì a x h = 2 x S a x h là thừa số 2 x S là tích. Nếu a là thành phần chưa biết thì a = 2 x S : h. (1) Nếu h là thành phần chưa biết thì h = 2 x S :a (2) Đến đây học sinh có thể dùng 2 công thức (1) và (2) để làm bài tập dạng: a) Tam giác có diện tích là 39.44 cm2, chiều cao là 5.8 cm. Tính độ dài cạnh đáy? b) Tam giác có diện tích là m2, độ dài đáy là m. Tính chiều cao? Và học sinh thực hành tốt bài tập 1 tiết 103 (trang 106): Tam giác có diện tích 5/8 m2, chiều cao 1/2 m. Tính độ dài đáy của tam giác đó. Từ công thức tổng quát trên, học sinh dễ dàng giải bài toán này. Giải Độ dài của tam giác là: Đáp số: m Tóm lại: Đối với hình tam giác giáo viên cần giúp học sinh làm rõ các nội dung ngoài sách giáo khoa: – Xác định đường cao ngoài – Các yếu tố độ dài đáy, chiều cao phải cùng đơn vị đo. -Tìm hiểu công thức tính độ dài đáy, chiều cao – Hai tam giác bất kỳ nếu có chung đáy (đáy bằng nhau), chiều cao bằng nhau (chung chiều cao) thì hai tam giác đó có diện tích bằng nhau. 2.2 Hình thang Tiết 90: Giới thiệu về hình thang Nội dung phần này đã được phân tích kỹ ở phần III. Tiết này giáo viên cần giúp học sinh hình thành biểu tượng về hình thang, nhận biết 1 số đặc điểm phân biệt được hình thang với một số hình đã học và rèn kỹ năng vẽ hình cho học sinh. Ở tiết này, giáo viên cần củng cố thêm: Ở bất cứ 1 điểm nào trên đáy bé ta kẻ đường vuông góc xuống đáy lớn thì ta được đường cao của hình thang. IV. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM Mục đích: Kiểm chứng tính hiệu quả của quá trình đã xây dựng ở phần III, dạy bài mới, kết hợp tổng quát và khắc sâu kiến thức của học sinh. Đối tượng: Học sinh lớp 5 A1 Nội dung: – Dạy bài hình tam giác, diện tích hình tam giác . – Tiến hành kiểm tra . Tiến trình thực nghiệm Bước 1: Soạn bài và dự kiến các tình huống lên lớp. Bước 2: Hướng dẫn học sinh học bài: Phần này đã trình bày ở trên. Ở đây không phải là các bước lên lớp mà chỉ là việc khắc sâu mà mở rộng kiến thức để học sinh hiểu rõ hơn. Vì vậy, sau khi dạy ta tiến hành kiểm tra đề như đã ra ở phần trên, chỉ thay đổi số liệu ở bài 1. Kết quả như sau: Điểm Bài 1 Bài 2 Câu a Câu b Câu c Câu a Câu b Câu c Điểm 0 Điểm 1 Điểm 2 Nhìn vào bảng thống kê ta thấy: Cũng với 1 đề với mức độ kiến thức như nhau ở cùng số học sinh trong một lớp, chất lượng học sinh đã được nâng cao dần, học sinh đã khắc phục được những thiếu sót của mình ở bài 1b và 2b. Với cách khai thác bài tổng quát và mở rộng, ta thấy các em đã nắm được bài, biết vận dụng công thức để giải toán một cách linh hoạt, đây là tiền đề giúp các em hoàn thiện hơn về mặt kiến thức để học tập tiếp những bài sắp tới. Tiết 91 : Diện tích hình thang. Nội dung này đã trình bày ở phần III. Dạy bài cần giúp các em hình thành công thức tính, nhớ và biết vận dụng công thức để giải toán. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy cho học sinh yếu kém, giáo viên luôn nhắc nhở các em : + Độ dài 2 đáy, chiều cao của hình phải cùng đơn vị đo. +Hình thành công thức tính chiều cao, tổng hai đáy của hình thang (cách làm như với hình tam giác). Nếu S là diện tích, h là chiều cao, a, b là độ dài hai đáy Thì: chiều cao hình thang là: h = (2 x S): (a+b) Tổng độ dài 2 đáy là: a+b = (2 x S) : h Ý KIẾN ĐỀ XUẤT Để nâng cao chất lượng học sinh, nâng bậc dần học sinh yếu kém, giúp các em nắm được kiến thức, vận dụng vào thực hành, tôi mạnh dạn đưa ra 1 số đề xuất sau: Về phía nhà trường – Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho giáo viên – Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy Đối với giáo viên – Khi lên kế hoạch bài học cần chuẩn bị kỹ nội dung, đồ dùng và các phương pháp dạy học – Mạnh dạn đưa ra các cách làm nhằm củng cố khắc sâu cho học sinh Về phương pháp giảng dạy và nội dung – Trong dạy học cần phối hợp nhiều phương pháp nhằm giúp các em học tập tốt hơn – Đối với lớp có nhiều học sinh yếu kém nên kéo dài thời gian ở mỗi tiết học và có thể giảm bớt thời gian ở 1 số môn học khác. Có như vậy số học sinh này mới có thể giải quyết được các bài tập trong sách giáo khoa trên lớp. PHẦN III. KẾT LUẬN Qua công tác phụ đạo học sinh yếu kém, tôi nhận ra rằng: Để hoàn thành nhiệm vụ này có hiệu quả cần làm tốt 1 số vấn đề sau: – Kiên trì chịu khó không nôn nóng trước sự phát triển chậm chạp của các em, phải biết ghi nhận từng tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất. Đó là điều kiện cần thiết của người giáo viên được giao nhiệm vụ dạy số học sinh này. – Phải nghiên cứu, tìm hiểu nội dung môn học, bài học để đề ra phương pháp giảng dạy cho đối tượng học sinh này: Khi dạy cần kết hợp khắc sâu, mở rộng và chỉ rõ từng bước để các em hiểu, làm theo và dần dần trở thành kỹ năng. – Tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi để đề ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học toán, đặc biệt là hình học ở trường tiểu học cho học sinh yếu kém là vô cùng cần thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Trẻ em là tương lai của đất nước, là hạnh phúc của mỗi gia đình, chúng ta hãy trang bị cho các em một hệ thống tri thức cơ bản, vững chắc để các em tự tin bước vào thời đại mới: Thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Người viết Trần Văn Điền
Chương I. §4. Đường Trung Bình Của Tam Giác, Của Hình Thang
– Nắm vững định nghĩa và các định lí về đường trung bình của tam giác, của hình thang. – Làm các bài tập còn lại trong SGK-tr80 – Giờ sau luyện tập CÁM ƠN CÁC THẦY CÔ GIÁO VÀ CÁC EM BÀI HỌC ĐẾN ĐÂY KẾT THÚC2) Bài 24. (SGK/80).xCB20cmKIHA12cm?y.Đường thẳng xy, AH xy, BK xy, CA = CB, AH = 12cm, BK = 20 cm Tính k/c từ C đến xy?GTKLGọi I là chân đường vuông góc kẻ từ C đến xy, ta có :AH ? xy (gt)CI ? xy (cách vẽ)BK ? xy (gt)? AH
TiÕt 6: ĐƯỜNG TRUNG BÌNH CỦA CỦA HÌNH THANG ABCDEFBài 28: (SGK/T80) Cho hình thang ABCD (AB//CD), E là trung điểm của AD, F là trung điểm của BC. Đường thẳng EF Cắt BD ở I Cắt AC ở K.CMR: AK= KC, BI = ID.Cho AB = 6 cm, CD = 10 cm. Tính các độ dài EI, KF, IK? IKBài tập 1: Chọn câu đúng1. Đường trung bình của hình thang là đoạn thẳng đi qua trung điểm hai cạnh bên của hình thang.Bài tập 3: Cho hình vẽ:2. Đường trung bình hình thang song song với hai đáy và bằng nửa tổng hai đáy.3. Đường trung bình hình thang đi qua trung điểm hai đường chéo hình thang.đi quaBài tập 2: Tìm x trên hình4. Mỗi hình thang chỉ có một đường trung bìnhKL
GTGọi K là giao điểm của AF và DC FBA = FCK (g.c.g)F là trung điểm của AK (cm trên) EF là đường trung bình của ADK EF
Các Dạng Hình Tam Giác Trong Toán Học
Hình tam giác rất đỗi quen thuộc đối với các thế hệ học sinh, bởi đây là loại hình học xuất hiện liên tục trong các bài tập toán hình trên giảng đường. Trước khi bắt đầu học về các công thức, lý thuyết, định lý khó hơn của hình học, bao giờ bạn cũng phải nắm rõ các dạng hình tam giác cùng các đặc điểm của nó trong toán học.
Hình tam giác là gì?
Tam giác hay hình tam giác là một loại hình cơ bản trong hình học: hình hai chiều phẳng có ba đỉnh là ba điểm không thẳng hàng và ba cạnh là ba đoạn thẳng nối các đỉnh với nhau. Tam giác là đa giác có số cạnh ít nhất (3 cạnh).
Các góc trong hình tam giác có tổng là 180 độ. Các góc trong một tam giác được gọi là góc trong. Các góc kề bù với góc trong được gọi là góc ngoài. Góc ngoài thì bằng tổng các góc trong không kề bù với nó. Mỗi tam giác chỉ có 3 góc trong và 6 góc ngoài.
Các dạng hình tam giác
1. Tam giác nhọn
là tam giác có 3 góc có số đo nhỏ hơn 90 độ. Lưu ý, tam giác vuông và tam giác tù không phải là tam giác nhọn; tam giác nhọn yêu cầu cả 3 góc, mỗi góc đều nhỏ hơn 90 độ.
2. Tam giác tù
Là tam giác có một góc bất kỳ có số đo lớn hơn 90 độ. Trong một tam giác tù sẽ chỉ có 1 góc tù duy nhất.
3. Tam giác vuông
Là tam giác có 1 góc bằng 90 độ (1 góc vuông). Tam giác vuông có hai góc nhọn phụ nhau. Lưu ý tam giác sẽ chỉ có duy nhất 1 góc vuông, bởi tổng các góc trong tam giác là 180 độ.
Tam giác vuông gắn liền với định lý Pitago như sau:
Trong đó AB, AC là các cạnh bên góc vuông, BC là cạnh huyền (cạnh đối diện góc vuông) của tam giác vuông.
Trong tam giác vuông, đường trung tuyến ứng với cạnh huyền bằng nửa cạnh huyền. Tam giác ABC vuông tại A, AM là đường tuyến của tam giác ABC
4. Tam giác đều
Là tam giác có 3 góc nhọn bằng nhau và bằng 60 độ. Tam giác đều cũng có các cạnh có số đo bằng nhau. Nếu một tam giác cân có một góc bằng 600 thì tam giác đó là tam giác đều.
Trong tam giác đều, đường trung tuyến của tam giác đồng thời là đường cao và đường phân giác của tam giác đó.
5. Tam giác cân
Là tam giác có hai góc ở đáy bằng nhau, hoặc hai cạnh có độ dài bằng nhau sẽ được gọi là tam giác cân. Nếu một tam giác có hai góc hoặc hai cạnh bằng nhau thì tam giác đó là tam giác cân.
Tam giác ABC cân tại A. Nếu ta có hoặc hoặc thì tam giác ABC đều.
Trong tam giác cân, đường trung tuyến ứng với cạnh đáy, đồng thời là đường cao, đường phân giác của tam giác đó. Tam giác ABC đều có AD là đường trung tuyến kẻ từ đỉnh A. Khi đó, AD là đường cao và đường phân giác của tam giác ABC.
6. Tam giác vuông cân
Mô Hình Dạy Học 5E
Mô hình dạy học 5E được xây dựng trên lý thuyết kiến tạo. Ở đó, học sinh xây dựng kiến thức và ý nghĩa từ quá trình trải nghiệm. Bằng cách hiểu và phản ánh về các hoạt động, học sinh có thể dung hòa kiến thức mới với những ý tưởng trước đó để tạo ra cấu trúc mới.
Mô hình dạy học 5E là phương pháp giúp giáo viên dễ dàng triển khai các bài học. Mô hình này mô tả một chuỗi hoạt động giảng dạy gồm 5 giai đoạn có thể sử dụng trong toàn bộ chương trình, các đơn vị bài học cụ thể hoặc các bài học riêng lẻ.
(Hình 1: Mô hình dạy học 5E)
Cơ sở lý thuyết và lịch sử ra đời
Năm 1962, kết quả nghiên cứu của J. Myron Atkin và Robert Karplus đã cho thấy rằng có một trật tự các sự kiện tạo điều kiện học tập, được gọi là chu trình học tập. Hai nhà giáo dục cho rằng chu trình học tập gồm 3 giai đoạn: Thăm dò, giới thiệu thuật ngữ và ứng dụng khái niệm.
Những phát hiện của Atkin và Karplus là nền mảng, manh nha việc tạo ra Mô hình dạy học 5E, tập trung vào việc cho phép học sinh hiểu một khái niệm theo thời gian thông qua một loạt các bước hoặc giai đoạn được thiết lập.
Các giai đoạn này gồm 5E: Engage (Gắn kết), Explore (Khảo sát), Explain (Giải thích), Elaborate (Áp dụng cụ thể), và Evaluate (Đánh giá).
Mô hình dạy học 5E, được phát triển vào năm 1987 bởi tiến sĩ Rodger W. Bybee và các cộng sự trong tổ chức giáo dục Nghiên cứu Chương trình Khoa học Sinh học, thúc đẩy học tập hợp tác, tích cực trong đó học sinh làm việc cùng nhau để giải quyết vấn đề và điều tra các khái niệm mới bằng cách đặt câu hỏi, quan sát, phân tích và đưa ra kết luận.
(Hình 2: Cấu trúc mô hình 5E)
Cấu trúc mô hình dạy học 5E
Engage (Gắn kết)
Mục đích của giai đoạn này là để khơi gợi sự tò mò, quan tâm và khuyến khích học sinh tham gia vào bài học.
Học sinh tạo ra mối liên hệ giữa kinh nghiệm học tập trong quá khứ, hiện tại, thiết lập nền tảng tổ chức cho các hoạt động sắp tới.
Explore (Khảo sát)
Học sinh đặt câu hỏi thực tế và phát triển các giả thuyết để tích cực khám phá khái niệm mới.
Giai đoạn này cho phép học sinh học theo cách thực hành, làm việc nhóm, giao tiếp và trực tiếp khám phá, thao tác trên giáo cụ, học liệu để kiểm tra các giả thuyết họ đưa ra.
Giáo viên hướng dẫn, dẫn dắt học sinh thông qua những câu hỏi, cung cấp những kiến thức cơ bản, nền tảng.
Explain (Giải thích)
Mục đích của giai đọa này là tạo cơ hội để học sinh miêu tả, thuyết trình, phân tích trải nghiệm hoặc bản thu hoạch quan sát trong giai đoạn khám phá. Giáo viên hướng dẫn giúp học sinh tổng hợp kiến thức mới và đặt câu hỏi nếu học sinh cần làm rõ thêm vấn đề.
Elaborate (Áp dụng cụ thể)
Mục đích của giai đọa này là chú trọng đến việc tạo cho học sinh môi trường áp dụng những gì đã học vào thực tiễn, điều này giúp học sinh hiểu biết vấn đề sâu sắc hơn hoặc có thể hình thành các giả thuyết mới.
Giáo viên có thể yêu cầu học sinh báo cáo, thuyết trình về hoặc khảo sát, bổ sung các kỹ năng mới.
Evaluate (Đánh giá)
“E” cuối cùng là giai đoạn cung cấp cho giáo viên xác định xem người học có đạt được sự hiểu biết về các khái niệm và kiến thức hay không. Có 2 loại hình đánh giá (chính thức – bài kiểm tra và phi chính thức – câu hỏi), giáo viên có thể sử dụng 1 hoặc cả 2 hình thức trên.
Một số công cụ hỗ trợ quá trình đánh giá như phiếu tự đánh giá, phỏng vấn học sinh, sản phẩm hoạt động, bài thu hoạch, bài kiểm tra.
(Hình 3: Một số lưu ý khi sử dụng mô hình 5E)
Lưu ý
Mô hình dạy học 5E sẽ hiệu quá nhất khi học sinh bắt gặp một khái niệm mới, vì khi đó học sinh sẽ được tiếp cận với một quá trình học tập hoàn chỉnh. Theo đồng tác giả Rodger W. Bybee, được sử dụng tốt nhất trong một đơn vị từ hai đến 3 tuần học, trong đó mỗi giai đoạn là cơ sở cho một hoặc nhiều bài học riêng biệt.
Vì mô hình được xây dựng trên lý thuyết kiến tạo, nên việc sử dụng mô hình dạy học 5E làm cơ sở cho một bài học riêng lẻ duy nhất sẽ làm giảm hiệu quả của mô hình này, vì nó làm mất tính gắn kết giữa các bài học, và khả năng tái cấu trúc khái niệm của học sinh.
Không nên nhảy cóc, bỏ qua hoặc tự thay đổi các bước trong mô hình dạy học 5E, vì như thế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả dạy học, học sinh sẽ cảm thấy khó hiểu, thiếu mạch lạc và thiếu sự gắn kết giữa các nội dung.
Theo Tiến sĩ Rodger W. Bybee, cần phải linh hoạt trong đánh giá quá trình học và đánh giá tổng kết.
Cập nhật thông tin chi tiết về Dạy Kiến Thức Hình Tam Giác, Hình Thang Cho Học Sinh Yếu Lớp 5 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!