Xu Hướng 3/2023 # Đánh Giá Môi Trường Chiến Lược (Đmc) Và Sự Phát Triển Của Đmc Ở Việt Nam # Top 12 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Đánh Giá Môi Trường Chiến Lược (Đmc) Và Sự Phát Triển Của Đmc Ở Việt Nam # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Đánh Giá Môi Trường Chiến Lược (Đmc) Và Sự Phát Triển Của Đmc Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

MỞ ĐẦU

Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) là một công cụ được sử dụng để quản lý và bảo vệ môi trường. ĐMC còn khá mới mẻ với thế giới và Việt Nam. Khái niệm, định nghĩa về ĐMC hiện tại còn có những khác nhau giữa các nước, các tổ chức quốc tế tùy theo các cách tiếp cận được lựa chọn. Mỗi cách tiếp cận để tiến hành ĐMC đều có mặt mạnh, mặt yếu riêng mà mỗi nước, mỗi tổ chức quốc tế còn đang ở giai đoạn vừa áp dung, thực hiện vừa tổng kết và đúc rút kinh nghiệm. Ở Việt Nam, ĐMC cũng chỉ mới thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các cấp, các ngành trong những năm gần đây và mới chỉ được đưa vào thực hiện trong thực tế kể từ sau ngày 01 tháng 07 năm 2006 theo quy định của Luật Bảo vệ Môi trường (BVMT) năm 2005. Theo đó, cách tiếp cận để tiến hành ĐMC của Việt Nam là một trong các cách tiếp cận mà đa số các nước trên thế giới, nhất là các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu, hiện đang áp dụng.

1. Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) là gì?

Hiện tại, trên thế giới có khá nhiều các khái niệm, định nghĩa khác nhau về ĐMC nhưng đa số thống nhất rằng, ĐMC là một công cụ để lồng ghép các vấn đề về môi trường vào quá trình ra một quyết định mang tính chiến lược, vĩ mô về phát triển kinh tế xã hội (thường được gọi chung là Quyết định mang tính chiến lược hay Quyết định chiến lược) như: chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình… Bằng cách tổng kết khái quát có thể thấy 2 nhóm các khái niệm, định nghĩa chủ yếu về ĐMC đại diện cho 2 cách tiếp cận khác nhau.

Nhóm thứ nhất, theo cách tiếp cận của đánh giá tác động môi trường (ĐTM) cho rằng: ĐMC là một quá trình đánh giá, dự báo một cách có hệ thống các hậu quả về môi trường có thể xảy ra của một quyết định có tính chiến lược nhằm đảm bảo cho các hậu quả về môi trường đó được nhận dạng một cách đầy đủ, được giải quyết một cách thỏa đáng và sớm nhất của quá trình ra quyết định mang tính chiến lược đó cùng với sự cân nhắc đến các khía cạnh về kinh tế và xã hội làm cho quyết định đó có tính bền vững trong thực tế.

Nhóm thứ hai, theo cách tiếp cận của Đánh giá tính bền vững và cho rằng: ĐMC là quá trình hòa nhập các khái niệm của tính bền vững vào việc ra các quyết định có tính chiến lược.

Sau khi tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước và cân nhắc tới các yếu tố khả thi thực hiện của mình, Việt Nam đã lựa chọn cách tiếp cận thứ nhất (cách tiếp cận dựa theo ĐTM) để đưa ra định nghĩa ĐMC trong Luật Bảo vệ Môi trường 2005 như sau: “ĐMC là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của các tác động đến môi trường của các dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm bảo đảm phát triển bền vững” (khoản 19 điều 3)

2. Vị trí của ĐMC trong tiến trình phát triển

Ở mỗi quốc gia trên thế giới, quá trình phát triển kinh tế – xã hội nói chung, phát triển ngành, lĩnh vực nói riêng thường diễn ra theo các giai đoạn khác nhau. Với các công cụ quản lý và bảo vệ môi trường hiện có, người ta đã phân chia quá trình phát triển này ra làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Xây dựng và ra các quyết định mang tính chiến lược (chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình)

Giai đoạn 2: Xây dựng và phê duyệt các dự án đầu tư

Giai đoạn 3: Vận hành các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong thực tế (cơ sở đang hoạt động)

Để quản lý và bảo vệ môi trường, Giai đoạn 1 người ta áp dụng công cụ ĐMC; Giai đoạn 2: Công cụ ĐTM và Giai đoạn 3: Kiểm toán Môi trường (KTMT). Vị trí của các công cụ này được thể hiện trong hình vẽ sau:

3. Nguyên tắc tiến hành ĐMC.

Luật BVMT năm 2005 của Việt Nam quy định việc tiến hành ĐMC theo nguyên tắc đi song song, tức là, ĐMC được tiến hành một cách song song với quá trình xây dựng một chiến lược, một quy hoạch, một kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, phát triển ngành, lĩnh vực.

4. Mục đích, ý nghĩa và vai trò của ĐMC

Với tính chất là một công cụ khoa học, mặt khác, theo cách tiếp cận của ĐTM và theo nguyên tắc đi song song như đã nêu, ĐMC có mục đích chính là: để gắn kết một cách khoa học nhất các khía cạnh về môi trường vào quá trình ra một quyết định chiến lược; dự báo và cung cấp một cách đầy đủ và toàn diện nhất các thông tin về xu hướng biến đổi môi trường , tác động môi trường có thể xảy ra bởi quyết định chiến lược đó khi được triển khai thực hiện.

Bằng nguyên tắc đi song song với quá trình ra một quyết định chiến lược, ĐMC có ý nghĩa hết sức quan trọng là bảo đảm rằng các khía cạnh về môi trường có thể hỗ trợ một cách có hiệu quả nhất ho từng khâu, từng bước và cho toàn bộ quá trình ra quyết định, góp phần đáng kể làm cho quyết định đó có tính khả thi và bền vững trong thực tế triển khai.

ĐMC có 2 vai trò chính: Một là vai trò biện hộ; tức là nó tạo ra các luận cứ về môi trường để biện hộ cho một quyết định chiến lược về phát triển. Hai là vai trò lồng ghép, tức là nó tạo ra cơ chế để lồng ghép, gắn kết các vấn đề về môi trường, kinh tế và xã hội vào quá trình ra một quyết định chiến lược.

5. Lợi ích của ĐMC

ĐMC có thể trợ giúp để thực hiện được ý tưởng của sự phát triển bền vững thông qua việc gắn kết các mục tiêu về môi trường với các mục tiêu về kinh tế và xã hội trong quá trình ra một quyết định mang tính chiến lược.

Dựa vào kết quả của ĐMC, người ta có thể chỉ ra các định hướng chính xác hơn, cụ thể hơn cho công tác ĐTM trong giai đoạn xây dựng các dự án đầu tư tiếp theo đối với những ngành cụ thể, những vùng cụ thể, và vì thế công tác ĐTM sẽ có hiệu quả và chất lượng cao hơn.

6. Quy trình của ĐMC

Khác với ĐTM, quy trình của ĐMC không có điểm bắt đầu và điểm kết thúc rõ ràng, không phải lúc nào cũng có trình tự trước sau một cách đơn thuần. Đối với ĐMC, sau mỗi bước tiến hành mà thấy xuất hiện những vấn đề bất ổn thì phải quay lại các bước trước đó để xem xét và đánh giá lại rồi triển khai các bước tiếp theo. Tuy nhiên, với cách tiếp cận của ĐTM, ĐMC thường có các bước chung theo quy trình như sau:

Sàng lọc về ĐMC: Tức là phải xác định xem một đề xuất về quyết định chiến lược đặt ra có đòi hỏi phải thực hiện ĐMC hay không (ở Việt Nam việc sàng lọc này đã được thực hiện theo phương thức “cả gói”, tức là, các đối tượng đòi hỏi về ĐMC đã được quy định ngay trong Luật BVMT năm 2005)

Xác định phạm vi của ĐMC: Tức là phải xác định được phạm vi về không gian và thời gian cần đánh giá, dự báo về môi trường đối với một đề xuất về quyết định chiến lược.

Đánh giá các vấn đề môi trường: Tức là việc dự báo các vấn đề về môi trường (chủ yếu là các tác động tích cực và tiêu cực) có thể xảy ra theo phương án hoặc theo các phương án phát triển khác nhau đã đề ra;

Đề xuất các phương hướng, giải pháp tổng thể về môi trường: Tức là, trên cơ sở xác định được các vấn đề môi trường tiêu cực có thể xảy ra phải đề xuất được các phương hướng, giải pháp tổng thể nhằm khắc phục các vấn đề môi trường xấu có khả năng xảy ra khi triển khai thực hiện quyết định chiến lược, kể cả việc chỉ ra phương hướng và yêu cầu về ĐTM cho các dự án đầu tư ở giai đoạn tiếp theo;

Viết báo cáo DMC: Tức là làm một báo cáo phản ánh toàn bộ quá trình tiến hành và kết quả ĐMC của một đề xuất về quyết định chiến lược đề làm căn cứ xem xét, phê duyệt quyết định chiến lược đó.

7. Tổ chức thực hiện DMC

Theo quy định của Luật BVMT 2005, cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng một chiến lược, quy hoạch, kế hoạch cụ thể nào đó phải thành lập một nhóm công tác về ĐMC đồng thời với nhóm công tác về xây dựng chiến lươc, quy hoạch, kế hoạch đó. Hai nhóm công tác này hoạt động đồng thời với nhau ngay từ đầu của quá trình công tác và thường xuyên cung cấp, trao đổi thông tin cho nhau từ khâu xây dựng quan điểm, mục tiêu cho đến nội dung, biện pháp của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch để làm sao các khía cạnh về môi trường và phát triển được lồng ghép chặt chẽ và hài hòa vào nhau.

8. ĐMC ở Việt Nam theo luật BVMT năm 2005

8.1 Đối tượng phải tiến hành ĐMC

Điều 14 của Luật BVMT 2005 quy định các đối tượng sau đây phải tiến hành ĐMC:

Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (CQK) phát triển KT-XH cấp quốc gia

CQK phát triển ngành, lĩnh vực trên quy mô cả nước

CQK phát triển KT-XH của tỉnh, thành phố trực thuộc TW, vùng

Qui hoạch sử dụng đất; Bảo vệ và phát triển rừng; Khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng

Quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm

Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông quy mô liên tỉnh

Nghị định 29/2011/NĐ-CP quy định cụ thể trong Phụ lục 1 của nghị định

PHỤ LỤC I

DANH MỤC CÁC DỰ ÁN CHIẾN LƯỢC, QUY HOẠCH PHẢI THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG CHIẾN LƯỢC CHI TIẾT (Ban hành kèm theo Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2011 của Chính phủ)

A Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược dưới hình thức lồng ghép trong báo cáo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

I Chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội

1 Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước

II Chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực cấp quốc gia

1 Chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực cấp quốc gia về công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải, xây dựng, du lịch, y tế (bao gồm cả phân ngành của ngành và lĩnh vực đó)

2 Quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải, xây dựng, du lịch, y tế không quy định tại phần B, Phụ lục II

III Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông quy mô liên tỉnh

B Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược dưới hình thức báo cáo riêng

I Chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội

1 Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các vùng kinh tế – xã hội, vùng kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế, hành lang kinh tế, vành đai kinh tế

2 Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

II Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực cấp quốc gia

1 Quy hoạch phát triển ngành điện, thủy điện, nhiệt điện, năng lượng nguyên tử và điện hạt nhân; khai thác dầu khí, lọc hóa dầu; giấy; hóa chất cơ bản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; cao su; dệt may; xi măng; thép; khai thác và chế biến than, quặng sắt, thiếc, nhôm, vonfram, antimon, titan, vàng, đất hiếm, khoáng sản có tính phóng xạ khác

2 Quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi

3 Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông, cảng, hàng không

4 Quy hoạch phát triển đô thị, vật liệu xây dựng, quản lý chất thải rắn, quản lý chất thải nguy hại

5 Quy hoạch phát triển du lịch, sân golf

6 Quy hoạch phát triển mạng lưới bệnh viện

7 Quy hoạch phát triển hệ thống khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao

III Quy hoạch sử dụng đất, bảo vệ và phát triển rừng, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng

1 Quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng

2 Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng trên phạm vi 02 tỉnh trở lên

3 Quy hoạch khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên nước mặt, nước ngầm, khoáng sản trên phạm vi 02 tỉnh trở lên

C Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch khác theo chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

8.2. Lập báo cáo ĐMC

Báo cáo ĐMC là một nội dung của CQK và phải được lập đồng thời với quá trình xây dựng CQK đó.

8.3. Nội dung báo cáo ĐMC

Nội dung của báo cáo ĐMC được quy định tại Điều 16 của Luật BVMT năm 2005 và cụ thể hóa tại Phụ lục 1.3 của Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT ngày 18 tháng 07 năm 2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường (thay thế Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT). Cấu trúc của báo cáo ĐMC bao gồm các chương, mục như sau:

Mở đầu

Chương 1: Mô tả tóm tắt Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch

Chương 2: Xác định phạm vi DMC và mô tả diễn biến môi trường tự nhiên, kinh tế – xã hội vùng thực hiện Quy hoạch.

Chương 3: Đánh giá tác động của CKQ tới Môi trường

Chương 5: Những nội dung của CKQ đã được điều chỉnh và các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Kết luận và kiến nghị

8.4. Gửi hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo ĐMC

Chủ dự án có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo ĐMC đến cơ quan có  trách nhiệm tổ chức thẩm định quy định tại khoản 7 Điều 17 của Luật Bảo vệ môi trường.

Số lượng và mẫu hồ sơ đề nghị thẩm định được quy định cụ thể trong thông tư số 26/2011/TT_BTNMT:

Điều 5, mục 2, 3, 4 của TT 26/2011/TT-BTNMT quy định như  sau:

Hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo DMC chi tiết dưới hình thức báo cáo riêng gồm

a) Một (01) văn bản đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thực hiện theo mẫu quy định tại Phụ lục 1.1 Thông tư này;

b) Chín (09) bản báo cáo đánh giá môi trường chiến lược chi tiết dưới hình thức báo cáo riêng của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch được đóng thành quyển với hình thức trang bìa, trang phụ bìa và yêu cầu về cấu trúc, nội dung thực hiện theo mẫu tương ứng quy định tại Phụ lục 1.2 và Phụ lục 1.3 Thông tư này;

c) Chín (09) bản dự thảo văn bản chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;

d) Trường hợp số lượng thành viên hội đồng thẩm định nhiều hơn chín (09) người, hoặc trong trường hợp cần thiết khác theo yêu cầu của công tác thẩm định, chủ dự án cung cấp thêm báo cáo đánh giá môi trường chiến lược và dự thảo văn bản chiến lược, quy hoạch, kế hoạch so với số lượng tài liệu quy định tại điểm b và c khoản này.

8.5. Tổ chức thẩm định báo cáo ĐMC

1.      Sau khi nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan tổ chức việc thẩm định có trách nhiệm thành lập một hội đồng thẩm định gồm ít nhất 07 người với thành phần quy định như sau:

Việc tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định thực hiện theo Quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định báo cáo ĐMC, Hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM ban hành kèm theo Thông tư 26/2011/TT-BTNMT ban hành ngày 18 tháng 7 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, tại chương 4.

Tổ chức, cá nhân có quyền gửi yêu cầu, kiến nghị về BVMT đến cơ quan tổ chức hội đồng thẩm định báo cáo ĐMC và cơ quan phê duyệt dự án; Hội đồng và cơ quan phê duyệt dự án có trách nhiệm xem xét các yêu cầu, kiến nghị trước khi đưa ra kết luận, quyết định.

Kết quả thẩm định báo cáo ĐMC là một trong những căn cứ để phê duyệt dự án

Trách nhiệm tổ chức việc thẩm định báo cáo ĐMC được quy định như sau:

–         Bộ TN và MT tổ chức thẩm định báo cáo ĐMC đối với các dự án do Quốc hội, Chính Phủ, Thủ thướng chính phủ phê duyệt

–         Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức thẩm định báo cáo ĐMC đối với dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của mình

–         Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định báo cáo ĐMC đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định của mình và của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Thời hạn thẩm định báo cáo ĐMC: Đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính Phủ, Chính Phủ; Quốc hội, thời hạn thẩm định báo cáo ĐMC tối đa là 45 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; Các dự án còn lại, thời gian thẩm định báo cáo ĐMC tối đa là 30 ngày làm việc.

Kết quả thẩm định báo cáo ĐMC được thể hiện dưới dạng biên bản phiên họp của Hội đồng thẩm định theo mẫu quy định tại phụ lục 1.9 của Thông tư 26/2011/TT-BTNMT.

8.6. Gửi báo cáo kết quả thẩm định báo cáo ĐMC

Báo cáo kết quả thẩm định kèm theo bản sao biên bản của hội đồng thẩm định báo cáo ĐMC được gửi như sau:

–         Bộ trưởng Bộ TN & MT gửi Thủ tướng Chính Phủ, Chính Phủ, Quốc hội để làm căn cứ phê duyệt CQK

–         Cơ quan chuyên môn về BVMT của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ báo cáo Bộ trưởng, Thứ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án…

–         Cơ quan chuyên môn về BVMT cấp tỉnh báo cáo UBND cấp tỉnh.

Điều 8, thông tư 26/2011/TT-BTNMT quy định:

Cơ quan tổ chức việc thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược có trách nhiệm gửi hồ sơ kết quả thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược cho cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, bao gồm:

a) Một (01) văn bản báo cáo kết quả thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thực hiện theo mẫu quy định tại Phụ lục 1.9 Thông tư này;

b) Một (01) bản sao văn bản của chủ dự án giải trình về việc tiếp thu ý kiến của cơ quan thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược.

Thời hạn gửi hồ sơ báo cáo kết quả thẩm định chậm nhất là mười lăm (15) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo đánh giá môi trường chiến lược đã được chỉnh sửa, bổ sung kèm theo văn bản giải trình của chủ dự án.

Nguồn: http://cie.net.vn/vn/Thu-vien/Bao-cao-Nghien-cuu-MT/DANH-GIA-MOI-TRUONG-CHIEN-LUOC-DMC-VA-SU-PHAT-TRIEN-CUA-DMC-O-VIET-NAM.aspx

Liên hệ:

CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG NGHỆ, CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN

Địa chỉ: Số 10 Ngõ 308 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam

Điện thoại: 0989.119.036

Email: thngroup.jsc@gmail.com

Website: techngroup.com

Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam: Tiêu Chí Đánh Giá Và Định Hướng Phát Triển

Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Nguồn: internet

Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong tiến trình phát triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên nhiên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.

Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội. Có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế làm dãn cách hơn sự phân hóa giàu nghèo, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội. Vì vậy, quá trình phát triển cần có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an ninh xã hội và bảo vệ môi trường hay phát triển bền vững đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới.

Khái niệm phát triển bền vững

Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union for Conservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của phát triển bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.

Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment and Development) của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa là “Sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.

Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá trình phát triển. Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi ích tương tự trong tương lai (Gôdian và Hecdue, 1988, GS. Grima Lino).

Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002: “Phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).

Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”.

Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường.

Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục tiêu thiên niên kỷ.

Tiêu chí của phát triển bền vững

Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.

Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản: Một là, giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết kiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường; Ba là, bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là, xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là, công nghệ sạch và sinh thái hóa công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng lượng đã sử dụng).

Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: (1) Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế. (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền vững về kinh tế. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững. (3) Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.

Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.

Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.

Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được. Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính: Một là, ổn định dân số, phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị; Hai là, giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa; Ba là, nâng cao học vấn, xóa mù chữ; Bốn là, bảo vệ đa dạng văn hóa; Năm là, bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới; Sáu là, tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết định.

Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,… đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.

Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.

Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản: Một là, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; Hai là, phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; Ba là, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tầng ôzôn; Bốn là, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính; Năm là, bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm; Sáu là, giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm…

Tình hình phát triển bền vững ở Việt Nam

Việt Nam đã ban hành Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020 nhằm mục tiêu tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Các chỉ tiêu giám sát và đánh giá phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 gồm: các chỉ tiêu tổng hợp (GDP xanh, chỉ số phát triển con người, chỉ số bền vững môi trường); Chỉ tiêu về kinh tế (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, năng suất lao động xã hội, mức giảm tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị GDP, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân vãng lai…); Chỉ tiêu về xã hội (tỷ lệ nghèo, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo, tỷ số giới tính khi sinh, hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập…); Chỉ tiêu về tài nguyên và môi trường (tỷ lệ che phủ rừng, tỷ lệ đất được bảo vệ, diện tích đất bị thoái hoá…).

Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020 được cụ thể hóa bằng những mục tiêu cơ bản:

Về kinh tế, cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; bảo đảm an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững; phát triển bền vững các vùng và địa phương. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 – 2020 đạt trung bình 7%/năm, nâng mức thu nhập bình quân đầu người hằng năm tính theo GDP tăng lên 3.200 – 3.500 USD (so với mức 2.100 USD năm 2015). Lạm phát giữ ở mức dưới 5%.

Về xã hội, tập trung đẩy mạnh công tác giảm nghèo theo hướng bền vững; tạo việc làm bền vững; Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, riêng các huyện nghèo giảm trên 4%/năm. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; năm 2014 đã có 1,4 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, trên 8,5 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, trên 72% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Đời sống nhân dân được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người đạt 2.052 USD/người (2014). Tuổi thọ trung bình đạt 73,5 tuổi (2015). Hoàn thành nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ. Ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất lượng dân số; phát triển văn hoá hài hoà với phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam; phát triển bền vững các đô thị, xây dựng nông thôn mới, phân bố hợp lý dân cư và lao động theo vùng; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước, vùng và địa phương;…

Về tài nguyên và môi trường, chống thoái hoá, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo vệ và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn ở các đô thị lớn và khu công nghiệp…

Việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi tiếp tục cho phát triển bền vững giai đoạn tới, thể hiện ở các điểm sau:

Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 6 năm đạt gần 7% giai đoạn 2006 – 2011; GDP bình quân đầu người đạt 2.100 USD (2015). Cơ cấu kinh tế cũng có những bước tiến triển tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP ngày càng tăng, khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP ngày càng giảm. An ninh lương thực được bảo đảm. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế đã góp phần tích cực vào việc phát triển bền vững các lĩnh vực khác.

Tuy nhiên, kinh tế giai đoạn 2011 – 2015 phục hồi chậm, tăng trưởng chưa đạt mục tiêu đề ra (5,82%), thấp hơn các giai đoạn trước, chất lượng tăng trưởng thấp. Đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP-Total Factor Productivity) vào tăng trưởng còn hạn chế, hệ số sử dụng vốn (ICOR- Incremental Capital – Output Ratio) cao. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.

Về xã hội: sự nghiệp giáo dục có bước phát triển, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt tới 20% tổng chi ngân sách; đến năm 2011, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực: trong 6 năm (2006 – 2011), đã giải quyết được việc làm cho hơn 9 triệu lao động. Năm 2012 đã tạo việc làm mới cho hơn 1,5 triệu người; năm 2013, phấn đấu tạo việc làm cho 1,6 triệu người; tuyển mới dạy nghề cho 1,9 triệu người; thực hiện chiến lược dạy nghề gắn với tạo việc làm.

Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 3,53%, ở khu vực nông thôn là 1,55%. Công tác xóa đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,6% và đến cuối năm 2013 ước còn 7,6%. Năm 2012, Việt Nam xếp thứ 127 trên tổng số 187 nước và vùng lãnh thổ về HDI và được xếp vào nhóm có tốc độ tăng chỉ số HDI cao. Việt Nam hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.

Vấn đề môi trường trong giai đoạn 2011 – 2015 đã được chú trọng hơn. Việc bảo vệ tài nguyên, môi trường đã đi vào nền nếp. Bằng những chính sách hợp lý, các giải pháp quyết liệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ô nhiễm các nguồn nước, không khí đã được tất cả các địa phương, các ngành và các tầng lớp nhân dân đồng thuận và cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng được quan tâm hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.

Định hướng mục tiêu phát triển kinh tế bền vững giai đoạn 2016 – 2020 của Việt Nam

Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 – 7%/năm. Đến năm 2020: GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 – 3.500 USD. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP trên 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 – 34% GDP. Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4% GDP. Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25 – 30%. Năng suất lao động xã hội bình quân tăng 4 – 5%/năm. Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 – 1,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 – 40%.

Về xã hội: Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 35 – 40% (2020). Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25 – 26%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Mục tiêu có 10 bác sĩ và trên 26 giường bệnh trên 1 vạn dân. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,3 – 1,5%/năm. Phấn đấu đến năm 2020 sẽ không còn hộ gia đình nghèo với mức thu nhập dưới 2 USD/ngày.

Về môi trường: Phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 80 – 85% chất thải nguy hại, 95 – 100% chất thải y tế được xử lý. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 44 – 45%.

Tài liệu tham khảo (1) Debra Lam (2014), Vietnam’s Sustainable Development Policies: Vision VS Implementation, World Scienctific Book, 2014 (2) Maho Mina d’s Ercole (2008), Statistics for Sustainable Development, OECD, 2008 (3) Nguyễn Quang Thái và Ngô Thắng Lợi (2007), Phát triển bền vững ở Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội, 2007 (4) Trần Ngọc Ngoạn (2007), “Một số vấn đề lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế trong phát triển bền vững nông thôn”, Tạp chí Nghiên cứu Phát triển bền vững, N2-2007, Tr.3 – 15 (5) Vũ Văn Hiển (2014), Phát triển bền vững ở Việt Nam, Tạp chí cộng sản (Communist Review), số tháng 1-2014

Phát Triển Thị Trường Là Gì? Chiến Lược Phát Triển Thị Trường

Việc làm Phát triển thị trường

1. Khái niệm phát triển thị trường

Khái niệm phát triển thị trường

Phát triển thị trường sản phẩm của doanh nghiệp, công ty… ngoài việc đưa sản phẩm hiện tại vào bán trong thị trường mới những công ty doanh nghiệp còn chú trọng đến việc phát triển và đáp ứng tốt thị trường ở hiện tại, để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, từ đó gia tăng và mở rộng thị phần và phát triển thị trường ngày một rộng lớn hơn.

2. Các cách phát triển thị trường

2.1. Phát triển thị trường theo chiều rộng

Lựa chọn phát triển thị trường theo chiều rộng sẽ thích hợp với những ngành nghề và lĩnh cự chưa có nhiều đối thủ cạnh tranh, hoặc có cạnh tranh nhưng chưa có cao, với những thị trường này thì các doanh nghiệp sẽ tập trung lựa chọn vào việc phát triển theo chiều rộng. Việc phát triển theo chiều rộng sẽ có nhiều vùng địa lý mà đối thủ chưa tìm đến, doanh nghiệp phát triển theo chiều rộng nhiều người sẽ biết đến, thị trường của doanh nghiệp sẽ rộng lớn, tiếp cận được nhiều khách hàng tiềm năng, vì chưa có đối thủ nên doanh nghiệp của bạn sẽ là lựa chọn duy nhất của khách hàng. Đây được xem là một lợi thế của ngành chưa có nhiều đối thủ cạnh tranh.

Các cách phát triển thị trường

2.2. Phát triển thị trường theo chiều sâu

Còn với những lĩnh vực đã có nhiều sự cạnh tranh thì việc mở rộng thị trường sẽ không mang đến những kết quả cao trong việc phát triển thị trường mà thay vào đó doanh nghiệp cần phải đào sâu khai thác vào thì trừng những khách hàng hiện có của doanh nghiệp, giữ chân khách hàng, nghiên cứu và mang đến những khách hàng tiềm năng, những khách hàng thường xuyên mua hàng những sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, thì đây được gọi là phát triển thị trường theo chiều sâu.

Nhưng để phát triển thị trường theo chiều sâu doanh nghiệp cần thực hiện theo những yêu cầu sau đây để có kết quả tốt nhất.

– Xúc tiến và mở rộng bán hàng với khách hàng hiện tại với những sản phẩm cũ. Với cách thức này công ty sẽ phải sử dụng nhiều chương trình khuyến mại, thay đổi bao bì sản phẩm, thay đổi cách thức bán hàng cũ, mở ra nhiều chương trình thu hút khách hàng…. Khuyến khích khách hàng hiện có mua sản phẩm dịch vụ

– Lựa chọn ngách thị trường tốt nhất trong thị trường hiện tại với sản phẩm cũ: Với cách thức này thì doanh nghiệp cần phải nghiên cứu nhóm khách hàng, những khách hàng mang lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp tập trung chăm sóc lượng khách hàng này một cách tốt nhất.

– Nghiên cứu tại sản phẩm mới cho thị trường cũ đây cũng là một cách phát triển thị trường theo chiều sâu và đây được xem là cách phát triển thị trường mà nhiều doanh nghiệp, công ty đang làm, với những thị trường mà doanh nghiệp và công ty đang khai thác, sau khi nghiên cứu nhận thấy những đòi hỏi khác hơn về sản phẩm, Các công ty doanh nghiệp bổ sung thêm 1 số tính chất mới tạo nên sự hấp dẫn cho sản phẩm của công ty mình, thu hút nhiều khách hàng hơn, đặc biệt là đáp ứng được các khách hàng cũ.

3. Mô tả công việc nhân viên phát triển thị trường

Với nhân viên phát triển thị trường thì công việc chính sẽ là thu thập, phân tích thông tin về thị trường.

Tổng hợp thông tin thị trường theo kế hoạch của cấp trên, Trưởng phòng, Phòng phân công, thu thập thông tin đối thủ cạnh tranh trực tiếp các khách hàng mình tiếp cận để có những hướng đi phù hợp.

Mô tả công việc nhân viên phát triển thị trường

Nhân viên phát triển thị trường có công việc chính là nghiên cứu và đề xuất quảng bá, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ công ty, đưa ra những hướng đi mới cho công ty.

Triển khai kế hoạch kinh doanh, bàn phương hướng và đưa ra phương hướng tìm kiếm khách hàng và xúc tiến ký kết hợp đồng.

Nhân viên phát triển thị trường cũng là người tiếp nhận thông tin, yêu cầu của khách hàng để đưa ra những phương hướng giải quyết.

Nhân viên phát triển thị trường cùng với bộ phận chăm sóc khách hàng

Kết hợp với Bộ phận chăm sóc khách hàng liên hệ, giải đáp, tư vấn về dịch vụ cho những khách hàng tiềm năng, những khách hàng cũ.

Lập danh sách các khách hàng tiềm năng, chăm sóc và tư vấn

Lập danh sách các khách hàng tiềm năng, chăm sóc và tư vấn những khách hàng đó. Để gặp gỡ, chăm sóc khách hàng nhằm quảng bá và giới thiệu dịch vụ của Công ty.

Cùng với việc chăm sóc thì nhân viên chăm sóc khách hàng cũng có nhiệm vụ, theo dõi, đôn đốc quá trình thực hiện hợp đồng và hỗ trợ thu hồi công nợ với những khách hàng đang còn công nợ với doanh nghiệp.

Kiểm tra, đôn đốc quá trình thực hiện hợp đồng đảm bảo đúng yêu cầu, thời hạn.

Cùng với bộ phận kế toán rà soát lại những khách hàng, hồ sơ còn nợ và đôn đốc thu hồi công nợ đến hạn.

Người nhân viên phát triển thị trường phải quản lý được hồ sơ khách hàng của mình, thực hiện công việc thường xuyên chăm sóc khách hàng, những khách hàng mới và cũ của mình.

Lập hồ sơ quản lý khách hàng để biết được phương hướng khách hàng

Nắm bắt hoạt động, tình hình tài chính của khách hàng do mình quản lý để chăm sóc và đưa ra những lựa chọn tốt nhất cho khách hàng.

Ngoài ra nhân viên phát triển thị trường còn phải thực hiện các công việc như báo cáo hàng ngày, báo cao theo quý cho những người quản lý của mình.

Việc làm nhân viên phát triển thị trường

4. Cơ hội việc làm cho nhân viên phát triển thị trường

– Nhân viên phát triển thị trường hiện nay đang là một công việc được nhiều ứng viên tìm kiếm vì nó có nhiều cơ hội phát triển cho nhân viên, bên cạnh đó công việc của nhân viên phát triển thị trường lại đa dạng và có nhu cầu tuyển nhân viên thị trường tại Hồ Chí Minh và hầu hết các tỉnh thành nhiều chính vì vậy mà ứng viên không lo thất nghiệp.

– Môi trường làm việc của nhân viên phát triển thị trường năng động, được tiếp xúc với nhiều khách hàng ở nhiều tầng lớp và lĩnh vực khác nhau chính vì vậy mà nhân viên phát triển thị trường rất năng động.

– Môi trường làm việc cũng là một trong những yếu tố để ứng viên lựa chọn theo đuổi công việc của mình, với nhiều ứng viên họ quan tâm đến môi trường làm việc, cái họ học được trong quá trình làm việc và đặc biệt là họ thấy yêu thích với công việc đo. Vậy nên nhân viên phát triển thị trường không quá gò bó trong môi trường làm việc, họ không phải chôn chân 8 tiếng ở văn phòng mà họ còn đi gặp khách hàng đối tác.

Cơ hội việc làm của nhân viên phát triển thị trường

– Bên cạnh đó mức lương của nhân viên phát triển thị trường cũng là một yếu tố quan trọng, những người có khả năng và năng lực làm việc tốt sẽ có những mức lương xứng đáng, và con số này làm nhiều người mơ ước. Còn đối với những ứng viên mới ra trường chưa có nhiều kinh nghiệm thì mức lương cũng được xem là cao hơn so với mặt bằng chung vì nó là dựa trên năng lực của chính ứng viên.

Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam Hiện Nay: Khái Niệm Và Tiêu Chí Đánh Giá

NGUYỄN ĐỨC CHIỆN( 1Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)

Từ khóa: Phát triển bền vững, khái niệm, tiêu chí đánh giá.

Phân loại ngành: Xã hội học.

ABSTRACT

Sustainable development is an issue which was started to be paid attention to quite early in the world. Scientists and the circle working on policies in Vietnam have also paid attention to itsstudy and application in reality in recent decades. However, so far, discussions among them on the connotations of the concept and criteria for the evaluation have not yet come to agreed conclusions, which has posed many questions requiring further studies to answer to.

Keywords: Sustainable development, concept, evaluation criteria.

Subject classification: Sociology.

1. Mở đầu

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa tư bản tự do phát triển mạnh ở các quốc gia phương Tây, với chiến lược khai thác nhanh nguồn tài nguyên thiên nhiên không được tái tạo, nhằm có được khoản lợi nhuận khổng lồ trong một thời gian ngắn nhất; mặt khác, quá trình gia tăng dân số, đặc biệt tại các nước đang phát triển và chậm phát triển đã tiêu thụ nguồn năng lượng lớn mà những quốc gia đó chưa kịp tái tạo. Đây là hai trong số các sự kiện quan trọng tạo lên động thái mới trong cuộc sống của xã hội loài người. Thực tiễn này đòi hỏi nhân loại phải kiến tạo định hình lại mô hình tăng trưởng và phát triển nhằm hướng đến việc điều chỉnh, kiểm soát hành vi con người phải hài hòa hơn trong mối quan hệ với tự nhiên, môi trường và xã hội. Phát triển không cho hiện tại mà còn vì một xã hội tương lai mai sau.

Vào năm 1915, Ủy ban bảo vệ môi trường Canada được thành lập, nhằm khuyến khích con người tôn trọng những chu kỳ tự nhiên, và cho rằng mỗi thế hệ có quyền khai thác lợi ích từ nguồn vốn thiên nhiên, nhưng nguồn vốn này phải được duy trì nguyên vẹn cho những thế hệ tương lai để họ hưởng thụ và sử dụng theo một cách thức tương tự. Trong báo cáo “Toàn thế giới bảo vệ động vật hoang dã” tại Hội nghị quốc tế về bảo vệ thiên nhiên họp tại Paris (Pháp) năm 1923, Paul Sarasin, nhà bảo vệ môi trường Thụy Sỹ đã biện hộ cho việc cần phải bảo vệ thiên nhiên trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Đặc biệt, mối quan hệ giữa bảo vệ thiên nhiên và sử dụng tài nguyên thiên nhiên tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu của các tổ chức quốc tế kể từ sau Chiến tranh thếgiới thứ hai. Các tổ chức Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), và Hội đồng khoa học quốc tế (ICSU)) đã phối hợp chặt chẽ để tìm hiểu diễn biến môi trường tự nhiên, từ đó đưa ra chương trình hành động hướng các quốc gia phát triển theo mô hình bền vững. Năm 1951, UNESCO đã xuất bản một tài liệu đáng lưu ý với tiêu đề Thực trạng bảo vệ môi trường thiên nhiên trên thế giới vào những năm 1950. Tài liệu này được cập nhật vào năm 1954 và được coi như một trong những tài liệu quan trọng cho “Hội nghị về môi trường – con người (1972) do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển) 2, và nó cũng được xem như là “tiền thân” của báo cáo Brundtland 3.

Thập kỷ 70 của thế kỷ XX, thuật ngữ phát triển bền vững tiếp tục được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây, như: Vòng tròn khép kín của Barry Commoner (1971), Kinh tế học nhà nước mạnh của Herman Daily (1973), và công trình Những con đường sử dụng năng lượng mềm: về một nền hoà bình lâu dài của Amory Lovins (1977)… Đặc biệt khái niệm này được đề cập toàn diện nhất trong công trình Xây dựng một xã hội bền vững của Laster Brown (1981) [1].

Đến đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thuật ngữ phát triển bền vững lần đầu tiên được sử dụng trong chiến lược bảo tồn thế giới do hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc đề xuất, cùng với sự trợ giúp của UNESCO và FAO. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, khái niệm này chính thức phổ biến rộng rãi trên thế giới từ sau báo cáo Brundtland (1987). Kể từ sau báo cáo Brundtland, khái niệm phát triển bền vững trở thành khái niệm chìa khoá giúp các quốc gia xây dựng quan điểm, định hướng, giải pháp tháo gỡ bế tắc trong các vấn đề trong phát triển. Nó cũng được xem là giai đoạn mở đường cho “Hội thảo về phát triển và môi trường của Liên Hợp Quốc và Diễn đàn toàn cầu hoá được tổ chức tại Rio de Janeiro (1992), và Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johannesburg (2002),Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp Quốc năm 2015 thông qua Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững” 4.

Dựa vào nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập được, với cách tiếp cận liên ngành, bài viết này bàn luận về nội hàm khái niệm, tiêu chí đánh giá phát triển bền vững, và gợi mở hướng xây dựng tiêu chí đánh giá đo lường phát triển bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

2. Khái niệm “phát triển bền vững” theo Brundtland

Như đã nêu, cho đến nay đã có nhiều quan điểm khác nhau bàn thảo về khái niệm phát triển bền vững, do vậy giới hạn của bài viết này chỉ đề cập đến khái niệm phát triển bền vững theo quan điểm của Liên Hợp Quốc, bắt đầu từ Uỷ ban Brundtland: “Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo và tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật” [5]. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm phát triển bền vững tiếp tục mở rộng thêm nội hàm không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà còn đi vào các nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí, nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững (Tuyên bố Alma Ata); Tuyên bố Isilio (Châu Phi) và Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp Quốc năm 2015 thông qua Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững, với 17 mục tiêu chung phát triển bền vững và 169 mục tiêu cụ thể được thông qua nhằm đảm bảo cho quá trình hội nhập và liên kết giữa các quốc gia, vì lợi ích chung của mọi người dân, cho thế hệ hôm nay và ngày mai. Nhìn chung, Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững có độ bao phủ chính sách phổ quát, rộng lớn, toàn diện, vì lợi ích của người dân trên toàn thế giới, cho các thế hệ hôm nay và ngày mai. Chương trình nghị sự đã đề ra tầm nhìn chiến lược mới, phản ánh khát vọng chung của toàn nhân loại được sống trong một thế giới hoà bình, an toàn, công bằng tạo khuôn khổ và định hướng mới cho mọi quốc gia trong việc ứng phó các thách thức chung về kinh tế, xã hội và môi trường.

Thực tế, Việt Nam rất quan tâm đến phát triển bền vững, thể hiện ngay từ Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) cho đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (2016), mục tiêu phát triển đất nước bền vững luôn được nhấn mạnh. Trong những năm qua Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để thể chế hóa các cam kết với quốc tế: Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000; đồng thời thành lập hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về môi trường và tài nguyên đến các cấp quận/huyện, phường/xã; tăng cường nguồn đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường và tài nguyên; lồng ghép vấn đề môi trường trong quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội… [8]. Năm 2012 Chính phủ đã Quyết định phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020, trong đó nhấn mạnh “Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội” [11].

Năm 2015, trên cơ sở 17 mục tiêu chung và 169 mục tiêu cụ thể thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc; căn cứ vào điều kiện thực tiễn, khả năng và ưu tiên phát triển trong từng giai đoạn Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “Xây dựng và ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững, muộn nhất trong năm 2018, đảm bảo xây dựng được các chỉ tiêu đánh giá định lượng. Đến năm 2020, hoàn thành cơ sở dữ liệu thống kê phục vụ giám sát, đánh giá thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.” [12].

Như vậy, khái niệm Phát triển bền vững được đề cập ban đầu trong báo cáo Brundtland (1983) cho đến Chương trình nghị sự 2030 (2015), luôn được cập nhật và mở rộng từ quan tâm đến môi trường, kinh tế và cho đến các chiều cạnh xã hội; với một nội hàm rộng và ngày càng đầy đủ các khía cạch của sự phát triển, không chỉ là nỗ lực nhằm hoà giải kinh tế và môi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, mà còn bao hàm những khía cạnh chính trị – quốc phòng, đặc biệt là bình đẳng xã hội được quan tâm. Với ý nghĩa này, nó được xem là “tiếng chuông” hay nói cách khác là “tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương đại. Luận điểm then chốt phản ánh bản chất, nội hàm khái niệm phát triển bền vững là phát triển thoả mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đảm bảo sự ổn định, hài hòa chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quyền bình đẳng… giữa các nhóm trong đời sống xã hội.

4. Kết luận

Chú thích

2 Sự kiện lớn đầu tiên đánh dấu việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là “Hội nghị của Liên Hợp Quốc về môi trường – con người” (1972) họp tại Stockholm (Thụy Điển). Hội nghị này đã xem xét nhu cầu cần có một quan điểm chung và nguyên tắc chung để hướng mọi dân tộc trên thế giới vào quá trình gìn giữ và làm tốt đẹp hơn môi trường sống của con người.

3 Brundtland: do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lập ra vào năm 1983. Uỷ ban gồm 6 thành viên phương Tây, 3 thành viên Đông Âu và 12 thành viên thuộc các nước phương Nam. 4 Hội nghị Rio de Janeiro về Môi trường và Phát triển (1992), lần đầu tiên khái niệm “phát triển bền vững” được hiểu thống nhất, với sự đồng thuận của 178 quốc gia. Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững (2002) tại Johannesburg (Nam Phi) tiếp tục tái khẳng định các nguyên tắc và văn bản đã được thông qua tại Hội nghị Rio de Janeiro (1992), đồng thời ra một kế hoạch thực hiện ở cấp độ toàn cầu để đạt được sự phát triển bền vững. Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp Quốc năm 2015, đây là hội nghị lớn nhất của Liên Hợp Quốc từ sau hội nghị năm 2000, thông qua các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG). Văn kiện hội nghị, với 17 mục tiêu và 169 chỉ tiêu phát triển bền vững, là kết quả của quá trình thương lượng tích cực trong hơn hai năm của các nước thành viên Liên Hợp Quốc, được đánh giá là đã đáp ứng được các quan tâm và lợi ích của tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Đức Chiện (2005), “Phát triển bền vững: tiền đề lịch sử và nội dung khái niệm”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1.

[2] Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2000), Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] Jean-guy Vaillancourt (2000), “Phát triển bền vững: Nguồn gốc và khái niệm”, Tạp chí Xã hội học, số 2.

[6] Phạm Xuân Nam (Chủ biên) (1997), Đổi mới chính sách xã hội – Luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[7] Ngân hàng Thế giới (2003), “Báo cáo phát triển thế giới năm 2003”, Phát triển bền vững trong một thế giới năng động thay đổi thể chế, tăng trưởng và chất lượng cuộc sống, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[8] Phạm Khôi Nguyên (2004), “Môi trường, tài nguyên và phát triển bền vững – cam kết của Việt Nam”, Tạp chí Xã hội học, số 4.

[9] Bùi Đình Thanh (2000), “Xã hội học trước ngưỡng thế kỷ XXI”, Tạp chí Xã hội học, số 1.

[10] Thiery de Montbrial & Philippe Moreau Defarges (2003), Thế giới toàn cảnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[11] Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số432/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12 tháng 4 năm 2012 về Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Hà Nội.

[12] Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 622/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10 tháng 5 năm 2017 Về việc ban hành Kếhoạch hành động quốc gia thực hiện hương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, Hà Nội.

[13] Lê Trình và Lê Thạc Cán (2003), Báo cáo đề tài nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam, Viện Môi trường và Phát triển bền vững, Hội Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

[14] Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Phát triển bền vững (Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam (2003), Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam – giai đoạn 1, Hà Nội.

[15] Trung tâm Tài nguyên và Môi trường (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội), (1995), Tiến tới môi trường bền vững, Hà Nội.

[16] Andrew Wedster (1990), Introduction to the Sociology of Development, Second Edition, Macmillan Press Ltd, London.

[17] Jorge Larrain (1998), Theories of Development, Capitalism, Colonialism and Dependency, Polity Press, London.

[18] http://sis.vnu.edu.vn/phat-trien-ben-vung-o-viet-nam-tieu-chi-danh-gia-va-dinh-huong-phat-trien/, truy cập ngày 03 tháng 4 năm 2019.

Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 – 2019

Cập nhật thông tin chi tiết về Đánh Giá Môi Trường Chiến Lược (Đmc) Và Sự Phát Triển Của Đmc Ở Việt Nam trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!