Xu Hướng 3/2023 # Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội # Top 12 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Khoa học và Công nghệ

-

Khoa học xã hội chia ra làm hai nửa: khoa học xã hội truyền thống và khoa học xã hội tính toán. Phe nào sẽ được vinh danh trên ‘đại lộ danh vọng’ của ngành khoa học này?

Các nhà khoa học nghiên cứu dữ liệu từ hàng ngàn người sử dụng mạng xã hội để phân tích các nhóm có hành vi cực đoan. Nguồn: Minzhang Zheng và Neil Johnson

Sau gần một thập kỷ miệt mài trên con đường trở thành một nhà xã hội học thực thụ, bỗng ngày nọ khi đang thực hiện một dự án, Elizaveta Sivak – đang làm việc tại Trường Kinh tế Cao cấp trực thuộc Đại học Nghiên cứu Quốc gia ở Moscow, chuyên nghiên cứu về gia đình và thời thơ ấu – nhận ra rằng còn rất nhiều điều mà cô cần phải học.    Vào năm 2015, cô đã tiến hành nghiên cứu các hoạt động của thanh thiếu niên bằng cách thực hiện một loạt các cuộc phỏng vấn yêu cầu họ kể tên mười địa điểm mà họ đã đến trong năm ngày qua. Một năm sau, dù đã phân tích xong dữ liệu nhưng cô vẫn cảm thấy khá thất vọng vì kết quả chỉ dựa trên cơ sở các cuộc phỏng vấn riêng lẻ. Khi người đồng nghiệp cho Sivak xem một bài báo phân tích dữ liệu từ Copenhagen Networks Study – một dự án đột phá theo dõi các mối liên hệ trên mạng xã hội, nhân khẩu học và vị trí của khoảng 1.000 sinh viên, với thời gian cập nhật phân tích là 5 phút một lần, trong suốt năm tháng. Khoảnh khắc ấy, cô biết rằng lĩnh vực nghiên cứu của mình sắp rẽ sang một hướng mới. “Tôi nhận ra rằng những kiểu dữ liệu mới này sẽ cách mạng hóa ngành khoa học xã hội mãi mãi. Và tôi nghĩ điều đó thật tuyệt”. Sau đó, Sivak quyết định học lập trình, và tham gia vào “cuộc cách mạng”. Giờ đây, cô và các nhà khoa học xã hội tính toán khác đang khảo sát các tập dữ liệu khổng lồ và phức tạp, rút ra ý nghĩa từ những hoạt động trên nền tảng số của xã hội. Họ đang theo dõi các hoạt động  trực tuyến của mọi người; khảo sát sách và tài liệu lịch sử đã được số hóa; diễn giải dữ liệu từ các thiết bị cảm biến gắn trên người để ghi lại mọi bước đi và liên hệ của một cá nhân; thực hiện các cuộc khảo sát và thử nghiệm trực tuyến nhằm thu thập hàng triệu điểm dữ liệu; và thăm dò các cơ sở dữ liệu đồ sộ đến mức chúng có thể tiết lộ những bí mật to lớn của xã hội – chỉ bằng sự trợ giúp của các phép phân tích dữ liệu đầy tinh vi.  Markus Strohmaier, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Kỹ thuật Rhine-Westphalia Aachen ở Đức cho biết: “Thành tựu lớn nhất là các nhà khoa học đã thay đổi suy nghĩ của mình về dữ liệu hành vi kỹ thuật số và bắt đầu nhìn nhận nó như một nguồn dữ liệu thú vị và hữu ích”. Nhưng không phải ai cũng chấp nhận sự thay đổi này. Một số nhà khoa học xã hội lo ngại các nhà khoa học máy tính đang quá tham vọng, họ vội vã tràn vào lĩnh vực này dù những bộ dữ liệu lớn của họ vẫn chưa thực sự tương hợp với các nghiên cứu trước đó. Một số người thì phàn nàn rằng các nhà nghiên cứu tính toán chỉ xem xét mẫu mà bỏ quên nguyên nhân, hoặc họ đưa ra kết luận khá mau chóng từ nguồn dữ liệu không đầy đủ và lộn xộn – thường thu được từ các nền tảng truyền thông xã hội và các nguồn dữ liệu bẩn khác. Mặt khác, một số nhà khoa học xã hội tính toán đến từ các lĩnh vực như vật lý và kỹ thuật cho rằng nhiều lý thuyết khoa học xã hội quá viển vông hoặc không thể kiểm chứng. Marc Keuschnigg, nhà xã hội học phân tích tại Đại học Linköping ở Norrköping, Thụy Điển, cho biết tất cả những luồng tranh cãi này giống như “một cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phe phái. Kẻ chiến thắng cuối cùng sẽ được vinh danh trên ‘đại lộ danh vọng’ của ngành khoa học xã hội”. Nhưng hai phe rốt cục cũng hòa hoãn. Keuschnigg chia sẻ “Sự giao thoa của khoa học xã hội tính toán với khoa học xã hội truyền thống là không thể phủ nhận”, ông chỉ ra sự bùng nổ của nó trên các tạp chí, hội nghị và chương trình học. “Họ cũng bắt đầu tôn trọng nhau hơn”. 

Cuộc cách mạng tính toán

“Thành tựu lớn nhất là các nhà khoa học đã thay đổi suy nghĩ của mình về dữ liệu hành vi kỹ thuật số và bắt đầu nhìn nhận nó như một nguồn dữ liệu thú vị và hữu ích”. (Markus Strohmaier, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Kỹ thuật Rhine-Westphalia Aachen).

Sau đó, các tạp chí lớn đã xuất bản một loạt các nghiên cứu khoa học xã hội tính toán. Một nghiên cứu từ năm 2006 đã xem xét cách xã hội ảnh hưởng đến sự phổ biến của một bài nhạc bằng việc tạo ra một thị trường âm nhạc trực tuyến nhân tạo có 14.341 người sử dụng. Những người tham gia đã tải xuống các bài nhạc – mà không phải lúc nào cũng được biết trước rằng bài nhạc đó có nổi tiếng hay không. Nghiên cứu cho thấy mức độ phổ biến của một bài hát trở nên khó dự đoán hơn khi hành vi của người dùng bị ảnh hưởng bởi hành vi của những người khác, điều này phần nào giải thích cho lý do vì sao các nhà sản xuất khó có thể dự đoán trước thành công của một bài nhạc.  Hai năm sau, một nghiên cứu đã phân tích sự di chuyển của 100.000 người dùng điện thoại di động trong vòng sáu tháng và phát hiện ra rằng khá dễ để dự đoán xu hướng đi du lịch của mọi người. Các tác giả có thể tính toán khả năng tìm thấy một cá nhân ở bất kỳ địa điểm cụ thể nào, họ cho rằng việc xác định những điểm tương đồng trong các mô hình đi lại trong cộng đồng có thể là một nguồn tham khảo hữu ích cho các nhà quy hoạch đô thị, đồng thời giúp chúng ta hiểu được sự lây lan của dịch bệnh hoặc chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp. Cùng năm đó, một bài báo trên tạp chí công nghệ Wired cho rằng, kỷ nguyên dữ liệu lớn sẽ đánh dấu hồi kết của lý thuyết trong các ngành khoa học. Mặc dù bị nhiều người chỉ trích là bài báo đang làm quá lên, nhưng nó thực sự gây chấn động: hơn một thập kỷ sau, các nhà khoa học xã hội vẫn liên tục đề cập đến bài báo trên Wired như một tín hiệu cho thấy các lý thuyết khoa học xã hội đang bị tấn công.   Nhưng dữ liệu lớn vẫn tiếp tục phát triển. Đối với Duncan Watts, nhà xã hội học tại Đại học Pennsylvania ở Philadelphia, những thay đổi trong khoa học xã hội gợi nhớ đến những gì đã xảy ra trong ngành sinh học vào những năm 1990, khi công nghệ bắt đầu tạo ra hàng loạt dữ liệu về trình tự DNA và biểu hiện gene. “Dữ liệu mới ào ạt như thác đổ, đòi hỏi chúng tôi phải nhìn nhận về dữ liệu theo một cách rất khác”.  Nhưng các nhà khoa học xã hội truyền thống tỏ ra không mấy ấn tượng trước thành quả ban đầu của cuộc cách mạng. Họ coi các nghiên cứu về mạng xã hội là những thí nghiệm được thực hiện trên hàng nghìn người – mà những người ấy không hay biết rằng mình là ‘vật thí nghiệm’. Vào năm 2018, công ty tư vấn Cambridge Analytica của Anh bị cáo buộc đã thu thập dữ liệu từ hàng triệu tài khoản Facebook mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu. Sau vụ bê bối, mọi người tỏ ra ngờ vực các nghiên cứu trên mạng xã hội, thậm chí nhiều dự án đã vấp phải khó khăn khi các nền tảng đưa ra những chính sách bảo mật mới.

Mặt trái của thuật toán

Những nghiên cứu ban đầu về các vấn đề phức tạp đã làm nảy ra những câu hỏi là phương pháp tiếp cận mới này có thể thấy câu trả lời từ dữ liệu nhưng chắc gì đã giải quyết được những vấn đề cơ bản và tồn tại đã lâu của khoa học xã hội như vấn đề bất bình đẳng hoặc ảnh hưởng của quan điểm xã hội. “Tôi nghĩ là các nhà khoa học xã hội không quan tâm lắm đến nhiều nghiên cứu về mạng Twitter ở thời điểm bắt”, Claudia Wagner, một nhà khoa học xã hội tính toán tại Viện nghiên cứu KHXH GESIS Leibniz, Đức, nói. Một nhà trị liệu ở Mỹ đang kiểm tra phổi của bệnh nhân. Một thuật toán thiên kiến đã đưa ra khuyến nghị về chính sách y tế trên nhiều nhóm bệnh nhân. Nguồn: Alexandra Hootnick/NYT/Redux/eyevine Một số người cho rằng, ít nhất những nghiên cứu đó là sản phẩm của một lĩnh vực mới nổi đang tìm cách định vị mình trong thế giới khoa học. Khi các phân tích trở nên phức tạp và các nguồn dữ liệu trở nên đa dạng hơn, lĩnh vực này đã giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng như gốc rễ của phân biệt đối xử, bất bình đẳng và cực đoan hóa, Strohmaier nói. “Hiện tại thì chúng tôi mới có được loại dữ liệu mình cần để làm cơ sở nghiên cứu các vấn đề lớn”, ông cho biết. Ví dụ, năm ngoái, các nhà nghiên cứu về y tế công cộng và kinh tế học hành vi đã sử dụng bệnh án của hơn 50.000 bệnh nhân trong hệ thống y tế Hoa Kỳ để kiểm tra ngược một thuật toán phân tích, vốn được dùng để đưa ra khuyến nghị nên giám sát và can thiệp sức khỏe thêm đối với một số người. Họ đã dùng mô hình để chỉ ra là thuật toán này có xu hướng phân biệt đối xử một cách có hệ thống đối với người da đen, và do đó có thể ảnh hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe của hàng triệu người. Sau đó, các nhà nghiên cứu sử dụng hiểu biết này để tìm ra nguồn gốc của sự thiên vị đó và đề xuất các cách loại bỏ nó. Ví dụ, các thuật toán không nên căn cứ vào số tiền chi cho việc chăm sóc sức khỏe của một cá nhân là yếu tố để đánh giá mức độ chăm sóc mà họ cần vì khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe không bình đẳng bởi người Mỹ da đen thường chi ít tiền hơn so với người Mỹ da trắng, ngay cả khi họ có cùng nhu cầu chăm sóc sức khỏe. Nhưng đây không phải là thách thức duy nhất: các nhà khoa học xã hội tính toán từ ngành vật lý hoặc khoa học máy tính nhảy sang thường bị cho là không tìm hiểu các lý thuyết khoa học xã hội giải thích về hành vi của con người. Giulia Andrighetto, từng là một triết gia nhưng hiện là nhà khoa học xã hội tính toán tại Viện Khoa học Nhận thức và Công nghệ (Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Ý ở Rome), cho biết: “Họ có mẫu hành vi để phân tích nhưng thường thì họ không tìm hiểu cơ chế làm phát sinh những hành vi đó.”  Để làm được công việc đó đòi hỏi nhà khoa học phải nắm chắc lý thuyết khoa học – xã hội. Jisun An, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Hamad Bin Khalifa ở Doha, tiến hành nghiên cứu về hành vi chia sẻ tin tức trên mạng xã hội ngay khi phong trào khoa học xã hội tính toán bắt đầu nở rộ. Lúc đầu, cô chỉ làm việc với các nhà khoa học máy tính khác, và họ phải vật lộn để xoay sở với các lý thuyết khoa học xã hội khác nhau. Giờ đây, cô hợp tác với các nhà chính trị học để nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thông đối với dư luận – và ngược lại – cũng như cách khuyến khích mọi người tăng cường sự đa dạng cho các nguồn tin tức. “Theo thời gian, mỗi bên rồi cũng sẽ thấu hiểu về ngôn ngữ và phương pháp của nhau”, An cho biết. Đã có những dấu hiệu cụ thể về cú bắt tay này. Các nhà khoa học đang lên kế hoạch tổ chức hội nghị lớn đầu tiên kết hợp hai phương pháp tiếp cận vào năm 2021. Các trường đại học cũng đang mở ra những cơ sở nghiên cứu tập hợp thành viên từ các bộ phận khác nhau để thu hẹp dần khoảng cách, thậm chí Đại học George Mason ở Fairfax, Virginia đã thành lập một khoa riêng. Trại hè dành cho khoa học xã hội tính toán đã diễn ra tại hơn 30 địa điểm trên khắp thế giới, và một nhóm sinh viên trẻ nhiệt tình đã mang lại hy vọng rằng cuộc “đấu tranh” giờ đây sẽ nhường chỗ cho những hợp tác nghiên cứu đa dạng.

Những mâu thuẫn của hai cách tiếp cận 

Hai cách tiếp cận này có thể sẽ kết hợp vô cùng hiệu quả. Nhà khoa học dữ liệu Joshua Blumenstock tại Đại học Washington ở Seattle đã cùng các cộng sự sử dụng dữ liệu điện thoại di động của hàng triệu người ở Rwanda để suy ra tình trạng kinh tế xã hội của họ, sau đó xác nhận kết quả bằng cách so sánh chúng với dữ liệu được thu thập bằng các cuộc khảo sát thông thường. Các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng kết quả để đề xuất những vùng nghèo của đất nước cần được hưởng chính sách mới của chính phủ, hoặc để theo dõi tác động của các chính sách đã được ban hành. Johnson không phải là người duy nhất hoài nghi về tầm quan trọng của lý thuyết đối với các nghiên cứu kiểu như thế này. Giangiacomo Bravo, trước là nhà kinh tế xã hội và hiện là nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Linnaeus ở Växjö, Thụy Điển, cho rằng nhiều lý thuyết khoa học xã hội hiện nay quá viển vông để có thể kiểm chứng được bằng dữ liệu lớn. Ví dụ, các nhà khoa học thường định nghĩa vốn xã hội là những hiểu biết và giá trị được chia sẻ trong một xã hội cho phép các cá nhân làm việc cùng nhau. “Công thức ban đầu của khái niệm này quá mơ hồ để có thể kiểm chứng. Làm sao mà tôi đo lường được nó?”. Bà không đơn độc trên hành trình sử dụng khoa học xã hội để tác động vào xã hội. Watts cho biết ông và các nhà nghiên cứu khác thường thích xuất bản bài báo hơn là đưa ra các giải pháp thực tế. “Tôi cảm thấy công việc của mình hoàn thành vào lúc bài báo được xuất bản,” ông nói. “Nhiệm vụ của tôi là nêu những ý tưởng và tạo điều kiện cho người khác tìm ra cách biến chúng thành những biện pháp có ý nghĩa.” Watts cho biết, để những thay đổi đó xảy ra, các nhà nghiên cứu từ cả hai lĩnh vực phải hợp tác để cùng phát triển. Và hiện tại thì một vài người đã thấy điều đó đang xảy ra. “Khoa học xã hội truyền thống và khoa học xã hội tính toán đang xích lại gần nhau hơn theo thời gian”, Wagner cho biết. “Trong 20 năm tới, chúng sẽ nhập làm một”. □

Hà Trang dịch Nguồn: https://www.nature.com/articles/d41586-020-01747-1

Cuộc Cách Mạng Khoa Học Kỹ Thuật Trong Lịch Sử

CÁC CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI

Cách mạng khoa học – kỹ thuật là một khái niệm nói về những phát triển mang tính vượt bậc và bước ngoặt của khoa học và kỹ thuật diễn ra từ giữa thế kỷ 20, hoặc sau khi Thế chiến thứ hai (1939-45) kết thúc. Trên thực tế, “Cách mạng khoa học – kỹ thuật” là một khái niệm mới ra đời trong thế kỷ 20 và nội dung của khái niệm này có nhiều điều chưa được thống nhất trong giới học giả nói chung.

 

 

 

1. Cuộc cách mạng khoa học đầu tiên:

 

Thời điểm: Đầu thế kỷ XVII – Nửa đầu thế kỷ XVIII

Phạm vi: Tây Âu

Trung tâm: Anh, Pháp, Hà Lan, Italia, Đức

Các lĩnh vực: Vật lý học, Toán học, Sinh vật học, Hoá học…

 

 

Tiền đề của cuộc cách mạng này không gì khác, chính là những thành tựu khoa học và kỹ thuật của tất cả các thời kỳ trước cộng lại, nhất là sự kế thừa của thiên văn học, toán học, vật lý học…

 

Trước tiên cần trở về với Nicolaus Copernicus và tác phẩm Về sự vận động của những hành tinh mang tên ông, xuất bản năm 1540. Qua đó, ông chứng minh rằng Mặt Trời chứ không phải Trái Đất là trung tâm của vũ trụ, đánh đòn chí mạng vào hệ thống Địa tâm (Trái Đất là trung tâm của vụ trụ) của Ptolémeé vốn đã thống trị hàng ngàn năm nay. Bị giáo hội Cơ đốc cấm đoán, học thuyết của ông dường như đông lạnh. Bruno lên tiếng đấu tranh cho khoa học và bị kết án tử thiêu. Chưa bao giờ khoa học lại bị đối xử bạo tàn và nghiệt ngã đến thế. Chẳng bao lâu sau, Kepler (nhà bác học người Đức) đã chứng minh cho sự đúng đắn của tư tưởng Copernicus. Nhưng chỉ đến khi Galileé xuất bản cuốn Đàm thoại về hai hệ thống Ptolémeé và Copernicus (năm 1632), trong đó làm nổi bật tính khoa học của hệ thống Copernicus, thì mọi chuyện dường như mới ngã ngũ, sự thật đã được chấp nhận. Chân lý trả về khoa học. Galileé cũng là người đầu tiên dùng kính viên vọng quan sát bầu trời, lập ra vật lý học thực nghiệm, đặt cơ sở cho môn Động lực học và xây dựng phương pháp thực nghiệm khoa học.

 

Năm 1687, I.Newton viết tác phẩm Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên, đã hệ thống hoá những thành tựu của các nhà khoa học đi trước, trong đó có ba định luật về sự chuyển động các hành tinh của Kepler, đồng thời đưa ra định luật vạn vật hấp dẫn (lực hút). Ngoài ra, ông còn có cống hiến to lớn cho ngành quang học, toán học và là người đồng thời phát minh ra phép tính vi phân cùng với Leubniz (nhưng hai nhà bác học hoàn toàn nghiên cứu độc lập, không hề trao đổi gì trong quá trình sáng tạo).

 

Được chứng kiến sự thay đổi ngoạn mục của tri thức khoa học đương thời khiến Descartes không tin vào những gì đã biết. Ông nghi ngờ tất cả! Còn những thành tựu khoa học to lớn kia, trong đó có phần đóng góp đáng kể trí lực của ông thì sao? Chẳng lẽ lý trí của con người lại bất lực, không thể nhận thức chân lý ? Ông bừng tỉnh, nhắc nhở rằng: “Chúng ta phải tin vào lý trí của chúng ta”. Và ông tiếp tục bước lên các nấc thang của con đường khoa học, buông câu triết lý lừng danh: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.

 

Sang thế kỷ XVIII, những thành tựu to lớn tiếp tục nảy nở trên các lĩnh vực, đặt biệt là việc thực hiện những phản ứng nguyên tử trong hoá học, đồng thời khoa học bắt đầu có những thành tựu làm cơ sở để tìm tòi đi vào thế giới vi mô, nổi bật ở các ngành: Vật lý học, Toán học, Sinh Vật học, Hoá học… với sự cống hiến của các nhà bác học tên tuổi như: Euler, d’Alembert, Bernouli, Laplace, chúng tôi K.Linné, B.Lamark, Cuvier, Lavoisier, Galvani, Dalton…

 

Nhưng cuộc cách mạng khoa học diễn ra vào thời điểm từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII chưa ảnh hưởng mạnh đối với kỹ thuật, phần lớn thành tựu mang tác dụng lý giải quy luật tự nhiên và cải tiến kỹ thuật của các thế kỷ trước. Những cuộc cách mạng khoa học sau này sẽ gắn chặt với kỹ thuật, nên đồng thời với cách mạng khoa học đó chính là cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng sản xuất – công nghiệp.

 

2. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai:

 

Thời điểm: Đầu thế kỷ XVIII – Nửa đầu thế kỷ XIX

Phạm vi: Châu Âu, Bắc Mỹ.

Trung tâm: Tây Âu, Hoa Kỳ.

Các lĩnh vực: Giao thông – vận tải, thông tin – liên lạc, sản xuất công nghiệp…

 

Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, hệ thống khoa học cơ bản cổ điển đã được xác lập, hoàn thành cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất trong lịch sử xã hội loài người, là tiền đề trực tiếp mở ra cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Đây cũng đồng thời là cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ ở Tây Âu.

 

Những thành tựu có ý nghĩa như máy hơi nước (1712, do công của New Comen, người Anh), được James Wat hoàn thiện thành động cơ chạy bằng than và nước (năm 1784). Năm 1764, James Hargrever phát minh ra máy kéo sợi và năm 1785 Exmon Carryter sáng chế ra máy dệt, đưa năng suất tăng lên gấp 39 lần. Ngành luyện kim cũng mở ra chương mới khi Abraham Dary lần đầu tiên dùng than cốc để nấu gang (1709), sau đó, hai cha con ông đã đưa nó vào sản xuất công nghiệp (1735). Đến 1784, Henry Cart và Onios đã luyện gang thành thép, một loại hợp kim cực kỳ quan trọng trong nền đại công nghiệp sắp sửa ló rạng. Trong lĩnh vực giao thông liên lạc, tàu hơi nước vượt đại dương đi vào hoạt động (1815), trọng tải đạt hàng ngàn tấn. Năm 1814, Stephenson chế tạo tàu hoả chạy bằng hơi nước và sau đó tuyến đường sắt đầu tiên được xây dựng nối liền Darlington với Stockton ở nước Anh (1825). Đến 1858, thế giới đã có 40.000 km đường sắt, trong đó Mỹ chiếm 40%. Phát minh ra điện báo (1832 – 1835) của Samuel Mores cũng mang một ý nghĩa lịch sử cho sự ra đời của ngành thông tin liên lạc trong thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang phát triển ào ạt. Năm 1851 đã có cáp quang qua biển Manche và đường cáp qua Đại Tây Dương.

 

Những thành tựu trên (trong thế kỷ XVIII) có ý nghĩa bước ngoặt trong các lĩnh vực mà khoa học gắn với kỹ thuật làm biến đổi ngành dệt may, giao thông, thông tin liên lạc, luyện kim, chế tạo máy… Từ đó hình thành nên hệ thống kỹ thuật mới dựa trên máy hơi nước, than đá và sắt thép thay thế cho hệ thống kỹ thuật trước đó chủ yếu dựa vào cơ bắp, sức nước và sức của động vật. Sang thế kỷ XIX, những thành tựu đó tiếp tục được cải tiến, cùng với sự ra đời các phương tiện và công cụ sản xuất mới, tạo ra hệ thống máy móc ứng dụng vào sản xuất và đời sống, định hình nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa và xã hội công nghiệp ở các nước Anh, Pháp, Mỹ và sau này là hàng loạt các nước Tây Âu. Từ đây, xã hội công nghiệp đã thật sự trở thành một dòng chảy mới của nền văn minh, gõ cửa xông vào các quốc gia – dân tộc đang ở trong tình trạng tiền công nghiệp.

 

3. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ ba:

 

Thời điểm: Cuối thế kỷ XIX – Nửa đầu thế kỷ XX

Phạm vi: Châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Á.

Trung tâm: Tây Âu, Hoa Kỳ, Liên Xô, Nhật Bản.

Các lĩnh vực: Chế tạo máy, giao thông – liên lạc, vật liệu, năng lượng…

 

Khi hệ thống kỹ thuật dựa vào máy hơi nước, than đá và sắt thép truyền thống đã tận dụng hết công suất của mình, nền công nghiệp muốn nhảy vọt thì phải cần đến một hệ thống kỹ thuật mới hiệu quả hơn, thôi thúc các ngành khoa học – kỹ thuật sáng tạo nên những thành tựu thật xứng đáng trước các yêu cầu cháy bỏng từ công cuộc phát triển chung của xã hội loài người – yêu cầu công nghiệp hoá, xây dựng hình mẫu xã hội công nghiệp phát triển.

 

Cái gì cần sáng tạo đã được sáng tạo: Năm 1862, Jean Leneir chế được xe chạy bằng động cơ đốt trong; năm 1869, G.T.Grammer chế ra máy phát điện một chiều dyamo, sau đó là máy phát điện xoay chiều (1877); chúng tôi phát minh ra máy điện thoại (1876), sau đó G.Marconi đã phát triển để liên lạc bằng sóng điện từ giữa hai bờ biển Manche (1897); năm 1878 – 1879, chúng tôi và T.Edison phát minh ra bóng điện; năm 1895 động cơ diesel ra đời, để đến năm 1898 kỷ nguyên ô tô xuất hiện (khi lần đầu tiên loài người được biết đến cuộc triển lãm ô tô vào năm đó); năm 1903 – 1909, từ máy bay của anh em nhà Wringt (Mỹ) đến máy bay của Blériot (Pháp), đã mở ra thời đại hàng không… Ngoài ra, hàng loạt những thành tựu khác trên nhiều lĩnh vực đã hình thành nên một hệ thống ký thuật mới dựa vào điện, dầu mỏ và hợp kim thay thế cho hệ thống kỹ thuật trước đó dựa vào máy hơi nước, than đá và sắt thép; đồng thời làm xuất hiện thêm nhiều loại máy công cụ và phương tiện, vật liệu, hoá chất… thúc đẩy sản xuất và kinh tế phát triển lên một tầm cao mới – xác lập vững chắc nền đại công nghiệp gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

 

Đáng chú ý nữa, đó là việc phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của H.Becquerel (năm 1896) và của Mary Quyry (năm 1898) đã chỉ ra những khiếm khuyết lớn trong các định luật cơ bản của nền vật lý học cổ điển, đồng thời cho thấy nguyên tử không phải là thành phần nhỏ nhất và không thể chia cắt của vật chất. Cuộc khủng hoảng trong vật lý học diễn ra từ đó. Nhưng không lâu sau đã được giải quyết bởi M.Planck thông qua Thuyết Lượng tử (năm 1900), A.Einstien thông qua Thuyết Tương đối (năm 1905) và cơ học lượng tử sau đó (1925 – 1926).

 

Một trong những đặc điểm đáng lưu ý trong nền đại công nghiệp là dây chuyền sản xuất hàng loạt – áp dụng nguyên lý quản trị của F.W.Taylor (đề xuất năm 1909, ứng dụng vào thực tiễn năm 1913 – hãng Ford di tiên phong).

 

Nhưng cũng chính từ nền đại công nghiệp gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà nhân loại phải gánh chịu những hệ luỵ kinh hoàng bởi hai cuộc đại chiến thế giới (1914 – 1918 và 1939 – 1945), đồng thời làm cho đà phát triển khoa học – kỹ thuật chậm đi, mặc dù vẫn đạt được những tiến bộ to lớn như: Kỹ thuật hạt nhân, cùng nhiều phương tiện và công cụ hiện đại nhằm mục tiêu quân sự. Một khi đem chúng sử dụng vào mục đích chiến tranh thì hậu quả thật khủng khiếp.

 

Nói tóm lại, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ ba đã đưa nhân loại lên trình độ văn minh công nghiệp, hay nói chính xác hơn, xác lập nên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại, mà biểu hiện ra là nền sản xuất công nghiệp tiên tiến, có khả năng tạo ra nguồn của cải vật chất và tinh thần đồ sộ cho nhân loại. Nhưng cái giá phải trả quá đắt: Hai cuộc đại chiến thế giới đã huỷ diệt 80 triệu con người, trong đó phải kể đến hai quả bom nguyên tử dội xuống Nagazaki và Hirosima (8/1945). Đồng thời, nó rung chuông cảnh báo về mục đích sử dụng và năng lực làm chủ các thành tựu khoa học – kỹ thuật trên con đường nhân loại đi về phía trước.

* * *

 

thuật trong lịch sử, với ba giai đoạn phát triển mang tính cách mạng. Từ cuộc cách mạng lần thứ ba trở đi, khoa học ngày càng gắn liền với kỹ thuật, đồng thời khoa học – kỹ thuật nhanh chóng trở thành yếu tố của công nghệ trong sản xuất, tạo ra sự thay đổi vượt bậc trong nền sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, đưa nền kinh tế nông nghiệp bao phủ xã hội loài người hàng xưa nay lên nền kinh tế công nghiệp. Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội công nghiệp không chỉ được hình thành ở Anh, Pháp, Mỹ mà còn cả ở Liên Xô, Nhật, nhiều nước ở châu Âu.

 

Tuy nhiên, cần phải chờ đến cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ tư, khi khoa học – kỹ thuật trở thành công nghệ, biểu hiện ra trên thực tế là cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đương đại, thì không những nền sản xuất công nghiệp biến đổi về chất, mà cả đời sống con người – trên mọi phương diện – cũng biến đổi sâu sắc hơn bao giờ hết. Nền văn minh con người đang rung chuyển, thay đổi và đổi thay với tốc độ chóng mặt.

 

 

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session …

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 – 4:52:10  (13.20 – 13.50)

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos’ History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew – Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

Tặng Kim Âu

Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình. Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh. Văn phong thảo phạt, quần hùng phục. Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình. Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

Nghị Luận Xã Hội Về “Điều Quý Giá Nhất Trong Cuộc Sống” Tài Liệu Học Tập

Mỗi con người trên thế giới này đều có những thứ quý giá cho riêng mình. Đặc biệt đối với những con người đang trong tình trạng phải đối mặt với tử thần, được sống – đối với họ – đã là điều quý giá nhất. Chắc chắn có rất nhiều người khi được hỏi sẽ nói rằng bạn bè, gia đình, tình yêu, hôn nhân, cuộc sống ổn định, lương cao… là những thứ quý giá nhất. Nhưng cũng chắc chắn rằng không nhiều người nhận ra được rằng quý giá nhất đối với một người không phải là những thứ ấy, quý giá nhất đối với một người chính là những thứ giúp họ có được bạn bè, gia đình, tình yêu… Đó là sức khỏe, thời gian và cơ hội.

Vì sao nói sức khỏe, thời gian và cơ hội là quý giá nhất trong cuộc sống ?

Bởi con người chỉ cần nắm chắc trong tay ba thứ đó sẽ có thể tạo ra một cuộc sống tốt đẹp, sẽ hoàn thiện được nhân cách và góp phần giúp xã hội đi lên.

Trong ba thứ này, có thể nói, sức khỏe là yếu tố tiên quyết quan trọng đầu tiên. Vì sao ?

Sức khỏe chính là khởi nguồn bắt đầu của mọi thứ, là sự bắt đầu của một cuộc sống, một con người. Có sức khỏe, con người mới có khả năng lao động, làm ra những thứ mình cần, phục vụ cho chính bản thân. Chính sự lao động, làm ra những thứ mình cần, phục vụ cho cuộc sống của bản thân, của gia đình, của xã hội sẽ mang lại cho con người niềm vui, từ đó tạo động lực để không ngừng tiến lên phía trước, không ngừng hoàn thiện bản thân, không ngừng lao động. Không ngừng lao động, không ngừng làm ra vật chất, thì xã hội mới không ngừng đi lên, đất nước mới không ngừng phát triển. Chính vì vậy, sức khỏe là sự khởi nguồn của mọi niềm vui, mọi sự phát triển.

Sức khỏe cũng chính là vốn quý nhất của một con người. Không có sức khỏe, cuộc đời một con người cũng xem như không còn ý nghĩa gì. Ngay cả tiền bạc, thứ mà người ta coi là rất quý, có thể giẫm đạp lên nhau vì nó, cũng không thể giúp chúng ta mua được sức khỏe. Thế gian này, quý nhất chính là con người chúng ta. Một cơ thể khỏe mạnh, một tâm hồn không bệnh tật chính là chân hạnh phúc, là khởi nguồn của mọi thứ tốt đẹp. Có sức khỏe, bạn sẽ có cả ngàn ước muốn. Không có sức khỏe, bạn sẽ chỉ có một ước muốn duy nhất, đó là sức khỏe. Khi bạn khỏe mạnh bình thường, cụm từ “quan tâm đến sức khỏe” sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu bạn. Nhưng khi bạn lâm bệnh, lúc này bạn sẽ nhận ra, sức khỏe là quý nhất. Chính vì vậy, sức khỏe là vốn quý nhất của một con người.

Sức khỏe là yếu tố tiên quyết quan trọng đối với một con người. Nhưng có một yếu tố khác, cũng quan trọng không kém sức khỏe, luôn luôn trong mọi tình huống, để chứng minh một điều gì đó, bạn cần có nó. Đó chính là thời gian.

Thời gian chính là yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với chúng ta, bởi mọi hoạt động vui chơi, học tập, việc nhà, lao động ngoài cần sức khỏe, thì để gặt hái được thành công chúng ta cần có thời gian. Bạn sẽ chẳng bao giờ có được thành công nếu không có thời gian, bởi thành công chẳng bao giờ vừa lao động đã hiển hiện trước mắt. Ngược lại, để nhìn thấy sự thất bại của bản thân, bạn cũng cần thời gian, đó là những lý do hợp lí để chúng ta tin rằng thời gian chính là yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với mỗi con người.

Thời gian cũng chính là yếu tố tất yếu chứng mình con người bạn, cuộc đời bạn. Mỗi con người đều có một cuộc đời của bản thân, cũng chính là có một quỹ thời gian cho bản thân. Sử dụng thế nào là tùy ở mỗi người. Sử dụng một khoảng thời gian cho một công việc nào đó mà kết quả không được như ý, đó là chúng ta đã đánh mất một phần trong quỹ thời gian của mình, cũng chính là đánh một phần cuộc đời mình.

Thời gian còn là thứ duy nhất qua đi không lấy lại được. Có biết bao người trên thế giới này đã sống mà hoài phí cuộc đời, cũng có biêt bao người trên thế gian đã từng khao khát một mong ước mãnh liệt : “giá như thời gian có thể quay trở lại”. Một học sinh cá biệt suốt thời gian còn đi học đã không tự cố gắng, không tận dụng, để rồi sau này không có kiến thức, không thể làm việc, không thể tự đi lên, càng không thể giúp xã hội, chính là ví dụ điển hình cho sự hoài phí cuộc đời. Một thanh niên thay vì phấn đấu cho việc hoàn thiện bản thân thì lại sa vào các tệ nạn xã hội, hoài phí những năm tháng cuộc đời và còn tự tàn phá sức khỏe, cũng chính là tấm gương cho sự hoài phí, không biết quý trọng thời gian.

Karl Marx đã từng nói : ” Mọi tiết kiệm, suy cho cùng là tiết kiệm thời gian“. Bởi thời gian chính là thứ quan trọng không thể thiếu, là yếu tố chứng minh cuộc đời cũng chính là thứ qua đi sẽ mãi không quay lại; vì vậy, câu nói của K. Marx đã góp phần thức tỉnh biết bao thế hệ con người rằng hãy quý trọng thời gian, ” thì giờ là vàng bạc “, có thời gian sẽ có tất cả, không có thời gian thì không có gì cả.

Một con người đều có cuộc đời riêng của mình, là thành công hay thất bại đều tùy ở bản thân mỗi người. Nhưng chúng ta phải biết nên làm gì, không nên làm gì để cuộc đời mình là cuộc đời của sự thành công, nếu không thành công, thì cũng là sự mãn nguyện, không hoài phí thời gian, và là để đến ” khi nhắm mắt xuôi tay, không phải ân hận về những năm tháng đã sống hoài sống phí” (” Thép đã tôi thế đấy ” – Otsterropski).

Thời gian là vàng bạc, sức khỏe là vốn quý. Khi bạn có cả hai thứ này, bạn chính là người hạnh phúc, nhưng bạn không phải là người thành công. Để thành công, bạn cần nắm bắt thứ mà thời gian mang lại cho bạn, nếu biết cách tận dụng thứ ấy, bạn sẽ thành công trong mọi công việc. Thứ ấy, chính là cơ hội.

Cơ hội, chính là thứ mà mỗi người ai cũng từng có ít nhất một lần trong đời. Thậm chí, cơ hội là thứ chúng ta có tự tạo ra cho bản thân. Cơ hội chính là nhà đại diện của sự thành công, nếu bạn biết nắm bắt, gây ấn tượng tốt với “nhà đại diện”, bạn sẽ nhanh chóng tiếp cận được với “chủ của nhà đại diện”. Từ đó bạn sẽ dễ dàng tiếp cận với thành công của mình.

Cơ hội có những đặc trưng của thời gian. Nếu là cùng một việc, sẽ rất khó nếu bạn muốn nó đến với bạn lần thứ hai. Tin chắc rằng mỗi bản thân chúng ta, ai cũng từng một lần hoài phí cơ hội, từng một lần hoài phí thành công. Thời gian thì sẽ chẳng quay trở lại, còn cơ hội thì có khi chờ cũng mãi chẳng đến lần thứ hai, vì vậy, cơ hội giống như thời gian, chúng ta phải biết quý trọng.

Có được cơ hội thì không khó, vuột mất nó thì còn dễ hơn, nhưng biết nắm bắt, tận dụng thì sẽ là điều khó khăn, bởi không phải ai cũng dễ dàng nhìn ra được cơ hội để bản thân thành công. Kẻ thành công là kẻ biết nắm bắt cơ hội. Christina Amanpour – nữ phóng viên nổi tiếng trên thế giới – đã từng biết nắm bắt cơ hội, tạo bước ngoặt cho cuộc đời mình bằng việc đi học thay chị gái trong một khóa học đào tạo nghiệp vụ thông tin, chính việc này đã thay đổi cuộc đời cô. Cô đã từng nói : ” Cơ hội giống như cuộc hẹn hò không có chủ đích song lại diễn tiến thành cuộc hôn nhân bền vững, hoàn toàn là sự bất ngờ “. Và đích thật, thành công của cô đến từ sự ngẫu nhiên, nếu không có bước ngoặt bất ngờ như thế, không chừng nước Mỹ sẽ chẳng có được một nữ phóng viên tài năng như thế. Thành công của Amanpour đã chỉ ra cho chúng ta biết rằng : cái gọi là bất ngờ thực chất là Tạo hóa đã cho chúng ta cơ hội, mấu chốt chính là nếu biết nắm bắt cơ hội, nắm thật chắc là đằng khác, rồi gắng sức, nỗ lực, cuối cùng sẽ đi đến thành công.

Con người khi được sinh ra đã có được một cuộc đời, cũng chính là có được thời gian, có được sức khỏe, và chắc chắn cũng sẽ có được cơ hội. Nếu biết quý trọng sức khỏe, tiết kiệm thời gian, và nắm bắt cơ hội, một cuộc sống mãn nhãn, thành công, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta. Có được hai thứ và biết tận dụng thứ thứ ba, chúng ta sẽ có tất cả những gì mình muốn.

Thời gian, sức khỏe và cơ hội. Đó là những yếu tố quan trọng có quyền năng thay đổi cả cuộc đời một con người chỉ trong khoảnh khắc, là thứ để những ai không có được phải thèm muốn, những ai có được thì ra sức giữ gìn, những ai đã để vuột đi phải tiếc nuối, hối hận. Và đã không phải ân hận, để không phải ” sống hoài sống phí“, để mọi thứ ” hoàn toàn là sự bất ngờ ” đến với cuộc đời, hãy chào mời thành công bằng cách trân trọng những gì mình đang có, thời gian và sức khỏe, biết trân trọng thời gian và sức khỏe, cơ hội sẽ tự nhiên đến, thành công sẽ tự nhiên đến. Vậy còn gì hạnh phúc và thành công bằng việc có được cả thời gian, sức khỏe và cơ hội ? Chúng chính là những điều quý giá nhất trong cuộc sống này rồi.

Nguồn Edufly

Nghị Luận Xã Hội Về Cơ Hội Trong Cuộc Sống

Đề bài muốn đánh động tâm thế sống tích cực và khả năng thích ứng tốt vói thòi đại ở mỗi một con người. Phải tập trung suy nghĩ và trả lời các câu hỏi: Thế nào là cơ hội vàng? Cơ hội vàng cố ý nghĩa ra sao đối với từng cá nhân? Ý nghĩa của cơ hội vàng đối với một đất nước đang tìm đường phát triển? Những tác động tiêu cực của việc để uổng phí các cơ hội vàng? Phải làm gì để những cơ hội vàng không bị bỏ lỡ?

Bài viết có thể triển khai các ý chính sau:

– Chúng ta đang sống trong một thời đại có thật nhiều thách thức. Tuy nhiên, mỗi thách thức chính là một cơ hội để ta bứt phá và tự vượt lên mình. Việc tận dụng các cơ hội vàng trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu, không chỉ với các cá nhân mà còn với các tổ chức xã hội, các tập đoàn kinh doanh và cả với các quốc gia, dân tộc.

– Nói tói cơ hội vàng là nói tới những điều kiện, những thời cơ cực kì thuận lợi bày ra trước một hoạt động cụ thể của một chủ thể nào đó. Đó là tiền đề quan trọng để đưa ta tới những thành công ngoạn mục, tất nhiên, với điều kiện chúng ta phải “chóp” được nó. Trong cơ hội vàng hội tụ đầy đủ các yếu tố mà người xưa đã khái quát là “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” (trong những trường hợp khác nhau, sáu chữ mang đầy tính tượng trưng này có thể được cắt nghĩa khác nhau).

– Sự tồn tại của cơ hội vàng tuy có tính khách quan nhưng không phải ai cũng nhìn ra, cũng nắm bắt và tận dụng được. Để phát hiện ra nó, người hành động phải có nhãn quan nhạy bén, khả năng phán đoán tinh tế, chính xác và đặc biệt phải thực sự là người trong cuộc, đang ráo riết phấn đấu và kiếm tìm. Một điều kiện nào đó, đối với người này có thể là cơ hội vàng nhưng đối với người kia lại có thể là không phải (tất nhiên, ta đang nói tới những người cùng chia sẻ một nhiệm vụ, một hoạt động, bởi cơ hội vàng là cơ hội của một hoạt động xác định chứ không phải của mọi hoạt động trong đời sống).

– Nhìn ra cơ hội vàng là việc khó nhưng tận dụng được nó còn khó hơn nhiều. Ta chỉ có thể tận dụng được khi có sẵn tinh thần chuẩn bị với sự chủ động cao nhất. Chậm một chút, do dự một chút, thiếu quyết đoán một chút là tất cả trôi qua, khiến công việc trở về với tiến độ ì ạch, không hi vọng một sự đột phá nào. Còn lại lúc đó chỉ là sự nuối tiếc và người hoạt động, hành động chỉ còn biết tự trách mình.

– Đối với cá nhân từng người, việc chuẩn bị chào đón và tận dụng cơ hội vàng gắn liền với những nỗ lực không ngừng nghỉ, với sự bồi đắp thường xuyên về kiến thức và kĩ năng, đặc biệt là về năng lực thích ứng, năng lực nhận biết và giải quyết mọi tình huống có thể xảy ra. Những kiến thức tù đọng, không được cập nhật hay quá xa rời thực tiễn nhiều khi là lực cản, gây khó khăn cho ta trong việc nắm bắt những cơ hội, trong đó có cơ hội vàng, tức là thứ cơ hội tốt nhất bất ngờ tìm đến ta trong những thời khắc ngắn ngủi. Còn rất nhiều năng lực mà mỗi chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng như năng lực giao tiếp, năng lực tác, năng lực hoạt động nhóm, năng lực xử lí thông tin… Thiếu chúng, con người ngày nay dễ thành kẻ chậm chân, lỡ chuyến liên miên trong hành trình cuộc sống.

– Trên phạm vi quốc gia, dân tộc, việc bỏ phí các cơ hội vàng có thể gây những hậu quả nặng nề, sẽ bị lịch sử phán xét nghiêm khắc. Trong cuộc tranh cường ráo riết, quyết liệt hiện nay, tụt hậu một bước có thể là tụt hậu vĩnh viễn. Bởi vậy, chúng ta đang rất cần những bộ óc thông tuệ, sáng suốt, biết nhìn ra cơ hội, biết tin vào tiềm năng dồi dào của dân tộc để tận dụng mọi điều kiện tốt đẹp mà thời cuộc đưa đến nhằm đưa đất nước cất cánh bay lên.

Cập nhật thông tin chi tiết về Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!