Xu Hướng 3/2023 # Cuộc Cách Mạng Của Galileo Trong Vật Lý Học Thế Kỷ 17 (A. Koyré, 1943) # Top 4 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Cuộc Cách Mạng Của Galileo Trong Vật Lý Học Thế Kỷ 17 (A. Koyré, 1943) # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Cuộc Cách Mạng Của Galileo Trong Vật Lý Học Thế Kỷ 17 (A. Koyré, 1943) được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

CUỘC CÁCH MẠNG CỦA GALILEO TRONG VẬT LÝ HỌC THẾ KỶ 17 (A. KOYRÉ, 1943)

Đưa lên mạng ngày 15-08-2020Từ khóa : Vật lý học – Thế kỷ 17 ; Cách mạng khoa học (Khái niệm) ; Koyré, Alexandre – Trích đoạn C2

CUỘC CÁCH MẠNG CỦA GALILEOTRONG VẬT LÝ HỌC Ở THẾ KỶ XVII(1943)

Tác giả: Alexandre Koyré*Bản tiếng Pháp:  Georgette P. VignauxNgười dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Nếu khái niệm tiến bộ tuyến tính[1] dường như rất «có vấn đề» trong sự phát triển của lịch sử nói chung, thì nó vẫn có vẻ như hoàn toàn thích hợp, ít nhất ở một lĩnh vực là lịch sử các khoa học. Sự sàng lọc và tinh tế hóa dần dần tri thức của ta, những tiến bộ kỹ thuật nhờ vào, đồng thời thúc đẩy trở lại, các bước tiến của khoa học, đã có thể cho phép chúng ta bênh vực và duy trì lâu năm một quan điểm như vậy. 

Nhưng nghiên cứu lịch sử khoa học thời Phục Hưng, rồi sau đó của thời   Galileo-Newton*, Alexandre Koyré (1882-1964) cho thấy tính thích đáng của khái niệm cách mạng nhằm phân tích sự phát triển của khoa học. Ở Pháp, cùng với Gaston Bachelard*, Georges Canguilhem*, ông đã góp phần đẩy lui ý tưởng tiến bộ tuyến tính trong khoa học vào hậu trường. Ý tưởng «cách mạng» là thích đáng, nếu ta nghĩ tới trọng lượng của những «yếu tố ngoài lô-gic» đã giải thích sự thành công cả nghìn năm của truyền thống nhân danh Aristotelês: mặc dù đầy sai trật, thứ vật lý học định tính của ông ta hiển nhiên là vừa gần gũi với các giác quan của chúng ta hơn, vừa gắn kết hết sức chặt chẽ với quan niệm triết học về thế giới làm nền tảng cho nó; đấy là chưa kể tới tầm vóc bác học của bản thân Aristotelês. Để lật đổ nó, cần cả một sự tẩy não, một sự lột xác, một sự cải đạo.

*

Tên họ của Galileo Galilei đã gắn liền, không thể tách rời, với cuộc cách mạng khoa học của thế kỷ XVII, một trong những cuộc cách mạng sâu sắc nhất, nếu không phải là cái sâu sắc nhất của tư duy con người, kể từ khi tư tưởng Hy Lạp phát hiện ra [ý tưởng] Vũ Trụ (Kosmos)[2]. Bởi cuộc cách mạng này bao hàm một sự đột biến trí tuệ triệt để mà khoa học vừa là biểu hiện, vừa là thành quả[3].    

Cuộc cách mạng này đôi khi được đặc trưng hóa, đồng thời giải thích, bằng một cuộc trỗi dậy tinh thần, thông qua một biến đổi toàn diện trong thái độ cơ bản của trí tuệ con người: lối sống năng động (vita activa) từ nay chiếm chỗ của theoria[4], cách sống chiêm nghiệm (vita conlemplativa) từng được xem là hình thức cao nhất của nó. Con người hiện đại tìm cách thống trị thiên nhiên, trong khi con người Trung Cổ hay Cổ Đại dồn mọi nỗ lực vào việc chiêm nghiệm nó trước hết và trên hết. Như vậy, chúng ta phải giải thích, bằng mong muốn hành động và ý muốn thống trị, cái xu hướng cơ học của vật lý học cổ điển – thứ vật lý học của Galileo, Descartes, Hobbes* –, một khoa học tích cực, thao tác (scientia activa, operativa), thứ vật lý học phải biến con người thành «chủ nhân và người sở hữu thiên nhiên»[5] – nghĩa là chúng ta phải xem nó như đã xuất phát đơn thuần từ thái độ này, như thể đây chỉ là sự áp dụng các phạm trù tư tưởng của loại người chế tác (homo faber)[6] vào thế giới tự nhiên. Khoa học của Descartes – hay của Galileo còn đúng hơn nữa – chính là thứ khoa học của nhà công nghệ và kỹ sư[7] chứ chẳng là gì khác.  

Xin thú thực rằng giải thích trên không thỏa mãn tôi hoàn toàn. Tất nhiên, đúng là triết học hiện đại, cũng như đạo đức và tôn giáo hiện đại, đều nhấn mạnh trên hành động, trên thực tiễn hơn là tư tưởng Cổ Đại và Trung Cổ từng làm. Điều này cũng đúng cho khoa học hiện đại: tôi nghĩ tới vật lý học của Descartes, tới những đối chiếu của nó với nào ròng rọc, nào dây, nào đòn bẩy. Tuy nhiên, thái độ mà chúng ta vừa mô tả được thấy nhiều hơn ở Bacon – người mà vai trò trong lịch sử khoa học không thuộc cùng một trật tự[8] – hơn là ở Galileo hay Descartes. Khoa học của họ không phải là công việc của các nhà kỹ sư hay thợ thủ công[9], mà là của những người mà sự nghiệp hiếm khi vượt quá trình tự lý thuyết[10]. Khoa đạn đạo mới được phát triển không phải bởi các tay bắn pháo hoa hay pháo binh, mà chống lại họ. Và Galileo đã không học nghề của mình từ những người làm việc trong các kho vũ khí và xưởng đóng tàu của Venezia. Trái lại, ông dạy họ cái nghề của họ. Hơn nữa, lý thuyết trên đã giải thích vừa quá nhiều, vừa quá ít. Nó giải thích sự phát triển phi thường của khoa học trong thế kỷ XVII bằng sự phát triển của công nghệ. Tuy nhiên, sự phát triển của cái sau lại vô cùng ít ấn tượng hơn của cái trước. Ngoài ra, nó còn bỏ quên những thành tựu kỹ thuật của thời Trung Cổ. Nó coi  thường thèm muốn quyền lực và sự giàu có đã truyền cảm hứng cho thuật giả kim qua suốt lịch sử của kỹ thuật này.

Nhiều học giả khác đã nhấn mạnh trên cuộc chiến của Galileo chống lại chính quyền, chống lại truyền thống, đặc biệt là từ Aristotelês: chống lại cái truyền thống khoa học và triết học được  Giáo Hội duy trì, bảo vệ và đem ra dạy tại các trường đại học. Họ nhấn mạnh trên vai trò của sự quan sát và kinh nghiệm trong nền khoa học mới về tự nhiên[11]. Tất nhiên, quan sát và thí nghiệm là phần nội dung đặc trưng nhất của khoa học hiện đại, điều này là hoàn toàn đúng. Và chắc chắn rằng trong số tác phẩm của Galileo, chúng ta tìm thấy vô số lời kêu gọi hãy quan sát và thử nghiệm, và một sự mỉa mai cay đắng đối với những người không dám tin vào chứng cứ của cặp mắt mình, bởi điều họ nhìn thấy là trái ngược với lời dạy của quyền uy [Giáo Hội], hoặc tệ hơn nữa, những kẻ, như Cesare Cremonini[12], không muốn nhìn vào kính viễn vọng của Galileo vì sợ nhìn thấy điều gì đó mâu thuẫn với các lý thuyết và niềm tin truyền thống của họ. Và trên thực tế, chính xác là nhờ sự chế tạo ra và sử dụng một kính viễn vọng, bằng cách chăm chú quan sát Mặt Trăng và các hành tinh, nhờ sự phát hiện ra các vệ tinh của Sao Mộc, mà Galileo đã giáng một đòn chí mạng vào khoa thiên văn học và vũ trụ học trong thời đại ông.

Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng quan sát hoặc kinh nghiệm, theo nghĩa kinh nghiệm bộc phát của thông kiến, không đóng một vai trò lớn lao nào – hoặc nếu có, thì đấy là cái vai trò tiêu cực của chướng ngại – trong nền móng của khoa học hiện đại[13].  Theo Paul Tannery* và Pierre Duhem[14], thứ vật lý học của Aristotelês[15], và còn đúng hơn nữa, thứ vật lý học của các nhà duy danh chủ nghĩa ở Paris, như Jean Buridan và Nicole Oresme[16], đều gần gũi với kinh nghiệm của thông kiến hơn là của Galileo và Descartes[17] rất nhiều. Chính là «thí nghiệm», chứ không phải «kinh nghiệm», mới có một vai trò tích cực đáng kể, nhưng cũng chỉ sau này mà thôi. Nội dung của thí nghiệm là tra hỏi thiên nhiên có phương pháp;  và sự truy vấn này vừa giả định, vừa bao hàm một thứ ngôn ngữ trong đó những câu hỏi được đặt ra, cũng như một thứ từ điển cho phép chúng ta đọc và diễn giải các câu trả lời. Chúng ta đều biết rõ rằng, đối với Galileo, chính là bằng những đường cong, hình tròn và hình tam giác, bằng thứ ngôn ngữ toán học hoặc chính xác hơn nữa là hình học[18] – chứ không phải là ngôn ngữ của thông kiến hoặc biểu tượng thuần túy – mà chúng ta phải nói với thiên nhiên để nhận được những câu trả lời từ nó. Sự lựa chọn, cũng như quyết định sử dụng cái ngôn ngữ này hiển nhiên là không thể được quy định bởi một thứ kinh nghiệm đã trở thành khả thi bởi ngay chính việc sử dụng nó, mà phải đến từ các nguồn khác.

Nhiều sử gia và triết gia khoa học khác[19] đã thử đặc trưng hóa nền vật lý hiện đại, trong danh nghĩa khoa học vật lý, một cách khiêm tốn hơn, bằng một số nét nổi bật của nó như vai trò của nguyên lý quán tính[20] ở đây chẳng hạn. Lại cũng chính xác, lần nữa: nguyên lý quán tính chiếm một vị trí cao trội trong khoa cơ học cổ điển, so với môn cơ học của người xưa. Ở đây, nó là định luật cơ bản của chuyển động, và ngự trị trên lý thuyết vật lý một cách mặc nhiên ở Galileo, hiển nhiên ở Descartes và Newton. Nhưng theo ý kiến của tôi, dừng lại trên đặc trưng này là hơi hời hợt, bởi chỉ đơn giản xác lập sự kiện thôi không thể được xem là đã đầy đủ. Chúng ta còn phải hiểu và giải thích nó – giải thích vì sao vật lý học hiện đại lại có khả năng thu nhận nguyên lý này; hiểu vì sao và như thế nào, nguyên lý quán tính – một nguyên lý có vẻ đơn giản, rõ ràng, hữu lý, thậm chí hiển nhiên như vậy đối với chúng ta – đã đạt được quy chế của sự hiển nhiên và chân lý tiên nghiệm này, trong khi đối với người Hy Lạp, cũng như đối với các nhà tư tưởng thời Trung Cổ, cái ý tưởng rằng một cơ thể, một khi đã được đưa vào chuyển động, sẽ tiếp tục di chuyển mãi mãi, dường như là hoàn toàn sai lầm, thậm chí phi lý[21].

Tôi sẽ không cố gắng giải thích ở đây những lý do và nguyên nhân đã kích động cuộc cách mạng tinh thần của thế kỷ XVII. Chỉ cần mô tả, đặc trưng hóa thái độ tinh thần hay trí tuệ của khoa học hiện đại bằng hai tính năng thống nhất sau đây là đủ để làm rõ quan điểm của chúng tôi. Đó là: 1) sự triệt hạ [ý tưởng] Vũ Trụ, [Kosmos] nghĩa là sự biến mất trong khoa học của mọi suy tư dựa trên ý niệm[22] này; 2) sự hình học hóa không gian – nghĩa là sự thay thế quan niệm một không gian vũ trụ cụ thể và khác biệt về phẩm chất trong vật lý học trước Galileo, bằng quan niệm không gian đồng nhất và trừu tượng trong hình học của Eukleidês. Chúng ta có thể tóm tắt và biểu đạt hai đặc trưng trên như sau: toán học (hình học) hóa tự nhiên, và như hệ quả, toán học (hình học) hóa khoa học.

Sự giải thể của Vũ Trụ có nghĩa là sự hủy diệt của một ý tưởng: ý tưởng một thế giới có cấu trúc hữu hạn, được sắp xếp theo cấp bậc, một thế giới khác biệt về phẩm chất theo quan điểm bản thể học; nó được thay thế bằng ý tưởng một Vũ trụ mở, bất định và thậm chí là vô hạn, được hợp nhất và cai quản bởi cùng những  quy luật phổ quát; một Vũ trụ trong đó vạn vật thuộc về cùng một cấp bậc Hiện Hữu, trái với quan niệm truyền thống vốn phân biệt và đối lập hai thế giới Trời và Đất [Sublunarius= dưới Mặt Trăng, chỉ Trái Đất và không gian gần với nó]. Các quy luật của Trời và quy luật của Đất giờ đây tan chảy vào nhau. Thiên văn học và vật lý học trở thành tương thuộc, thậm chí thống nhất và hợp nhất[23]. Điều này hàm nghĩa rằng mọi cân nhắc đặt trên giá trị, sự hoàn hảo, sự hài hòa, ý nghĩa và mục đích[24] đều biến khỏi quan điểm khoa học. Chúng tan biến vào không gian vô tận của Vũ trụ mới. Chính là trong Vũ trụ mới này, trong thế giới mới này của khoa hình học biến thành hiện thực, mà các định luật của khoa vật lý học cổ điển tìm được giá trị và ứng dụng.

Xin nhắc lại, chính sự triệt tiêu Vũ Trụ mới có vẻ là cuộc cách mạng khoa học, và theo tôi là cuộc cách mạng sâu sắc nhất mà trí tuệ con người từng thực hiện hoặc hứng chịu, kể từ khi người Hy Lạp phát minh ra [ý tưởng] Kosmos. Đây là một cuộc cách mạng thâm sâu, với những hệ quả vươn xa, tới mức mà suốt nhiều thế kỷ và ngoài một số ngoại lệ hiếm hoi, trong đó có Pascal*, con người đã không nắm bắt được hết tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của nó; thậm chí cả ngày nay nữa, nhiều khi cũng còn bị ngộ nhận và đánh giá thấp.

Như vậy, điều mà các nhà sáng lập của nền khoa học hiện đại như Galileo phải làm, không chỉ là phê phán và chống lại những lý thuyết sai lầm nhất định, nhằm chỉnh sửa hay thay thế chúng bằng những học thuyết tốt hơn. Họ phải làm một cái gì đó hoàn toàn khác. Họ phải phá hủy một thế giới, và thay thế nó bằng một thế giới khác. Họ phải cải tổ ngay chính cấu trúc của trí tuệ chúng ta, xây dựng lại và sửa đổi những khái niệm của nó, suy xét cái tồn tại theo một cách nhìn mới, xây dựng một khái niệm mới về tri ​​thức, một khái niệm mới về khoa học – thậm chí thay thế một quan điểm khá tự nhiên, quan điểm của thông kiến, bằng một quan điểm khác không tự nhiên chút nào[25].

Điều này giải thích tại sao việc phát hiện ra những vật thể, các định luật, mà ngày nay có vẻ đơn giản và dễ dàng tới mức ta có thể dạy chúng cho trẻ em được – các quy luật về sự chuyển động, về sự rơi của những cơ thể – lại đòi hỏi một nỗ lực lâu dài, gian khổ, dù thường là vô hiệu đến như vậy, ở một số thiên tài vĩ đại nhất của nhân loại, một Galileo hay một Descartes[26]. Đến lượt nó,  sự kiện này dường như cũng bác bỏ các nỗ lực hiện đại nhằm hạ thấp, thậm chí phủ nhận tính độc đáo hay ít ra là tính cách mạng của tư tưởng Galileo;  nó cũng cho thấy rằng tính liên tục rõ ràng trong sự phát triển của vật lý học từ thời Trung Cổ đến thời Hiện Đại – thứ tính liên tục mà Raffaello Caverni[27] và Pierre Duhem14 từng quyết liệt nhấn mạnh – chỉ là ảo tưởng[28]. Tất nhiên, đúng là có một truyền thống không gián đoạn dẫn chúng ta đi từ trước tác của các nhà duy danh chủ nghĩa ở Paris đến các tác phẩm của Giambattista Benedetti[29], Giordano Bruno[30], Galileo và Descartes. (Bản thân tôi cũng từng thêm một khâu vào lịch sử của truyền thống này[31]). Nhưng kết luận mà Duhem rút ra từ đấy là sai trật: một cuộc cách mạng đã được chuẩn bị kỹ dù sao vẫn là một cuộc cách mạng, và bất chấp thực tế là bản thân Galileo khi còn trẻ (như ngay cả Descartes nữa đôi khi) từng chia sẻ nhiều quan điểm và dạy lại các học thuyết của những tác giả phê phán Aristotelês thời Trung Cổ, nền khoa học hiện đại – thứ khoa học phát sinh từ những nỗ lực và khám phá của ông – không hề lấy cảm hứng từ «những tiền bối của Galileo ở Paris»16 mà đã tức thì tự đặt mình ở một cấp độ hoàn toàn khác – cấp độ Arkhimedês[32], theo lối gọi ưa thích của tôi. […]

Alexandre KoyréGalileo and Plato(Journal of the History of Ideas,t. IV, số 4, 1943, tr. 400-428);Galilée et Platon,(Études d’histoire de la pensée scientifique,Paris, Gallimard, 1964, tr. 166-172).

[2] Kόσμος (Kósmos). Từ có thể được dịch là Vũ Trụ hay Thế Giới. Do trong thế giới quan Hy Lạp cổ đại, kόσμος đối lập với χάος (khaos = hỗn mang, do từ χαίνω = kainô = mở toác hoác), vốn là cái nguyên thủy trong Thần Phả (Theogonia) của Hêsiodos, nên Kósmos chỉ một vũ trụ có tổ chức, có trật tự, có giới hạn. Thế nên, Sôkratês nói với Kalliklês: «Cứ theo lời các hiền giả thì, Trời và Đất, Thượng Đế và con người, được kết hợp với nhau bởi những quan hệ thứ bậc, thân thiện, tiết độ và công chính; và chính vì vậy mà, ông bạn ạ, Vũ Trụ này được gọi là Kosmos, hay cái được sắp xếp có trật tự, chứ không phải là cái vô trật tự, cái hỗn loạn, cái không luật lệ» (Platôn, Gorgias, 507e – 508a). Xem tiếp giải thích và đánh giá của A. Koyré về khái niệm Kósmos trên ở các đoạn sau của bài này. NVK

[4] θεωρία = theôría, do từ theôrô = tôi nhìn, tôi chiêm ngưỡng. Do đó, không nên hiểu theôria theo nghĩa theory (lý thuyết) ngày nay, mà theo từ La-tinh dùng để dịch theôria là contemplatio (do templum, nơi dùng cho sự thờ phụng), dù vẫn có rắc rối là contemplatio xưa hay contemplation nay đều mang hàm nghĩa tôn giáo. Nếu bỏ ra ngoài ý nghĩa tôn giáo này, thì theôría hay contemplatio chỉ sự tập trung tinh thần vào việc nhìn hay quan sát một số hiện tượng nào đấy. Ở Platôn, chính là thông qua sự chiêm nghiệm mà tinh thần vươn tới hiểu biết về Ý thể cái Thiện và các Ý thể khác. Ở Aristotelêslês, hạnh phúc cũng tùy thuộc vào sự chiêm nghiệm, vốn là năng lực (energeia) cao cấp nhất cho phép trí tuệ ta đạt được những tri thức bởi loại nỗ lực nghiên cứu thuần lý, bởi «hoạt động tìm hiểu những nguyên nhân và các nguyên lý của hiện thực». NVK

[5]  […] «et ainsi nous rendre comme maîtres et possesseurs de la nature», câu văn nổi tiếng của René Descartes trong Discours de la méthode. NVK

[6]  Đừng nhầm quan điểm được phổ biến rộng rãi này với quan điểm của H. Bergson*. Theo tác giả sau, vật lý học của Aristotelês cũng như của Platôn, nói cho cùng, đều là sản phẩm của loại người chế tác.

[7] Xem L. Laberthonnière, Études sur Descartes, Paris, 1935, II, tr. 288, 297, 304: «Physique de l’exploitation des choses». AK. Lucien Laberthonnière (1860-1932): tu sĩ, nhà thần học và triết học người Pháp. Tác phẩm tiêu biểu: Théorie de l’éducation (1901); Le réalisme chrétien et l’idéalisme grec (1904); Le catholicisme et la société (1907); Positivisme et catholicisme (1911); Sur le chemin du catholicisme (1913); Études sur Descartes (2 q., 1935); Étude de philosophie cartésienne et Premiers écrits philosophiques (1937); Esquisse d’une philosophie personnaliste (1945); Critique du laïcisme (1948); La notion chrétienne de l’autorité (1955). NVK

[8]  F. Bacon là người thổi tù và để loan báo, hơn là một trong những người tạo dựng khoa học hiện đại. AK. Xem: Robert Blanché, Francis Bacon: người báo hiệu phương pháp mới trên trang mục Nhà Khoa Học & Triết Gia. NVK 

Về phần Galileo, ông được kết nối với truyền thống của các nhà thủ công, thợ xây dựng, kỹ sư thời Phục Hưng,… bởi Leonardo Olschki (Galileo und seine Zeit, Halle, 1927), và gần đây hơn bởi Edgar Zilsel (The sociological roots of sciences, trg The American Journal of Sociology, XLVII, 1942). Zilsel nhấn mạnh trên vai trò của những «thợ thủ công lành nghề» thời Phục Hưng trong sự phát triển của não trạng khoa học hiện đại. Tất nhiên, đúng là các nghệ sĩ, kỹ sư, kiến ​​trúc sư thời Phục Hưng, … đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại truyền thống Aristotelês và một số người trong số họ – như Leonardo da Vinci* và Giambattista Benedetti (1530-1590)29 – thậm chí còn cố gắng phát triển một môn động lực học mới chống lại Aristotelês15; tuy nhiên, như Duhem đã chỉ ra một cách rõ ràng, môn động lực học này, trong những nét chính, là của những nhà duy danh chủ nghĩa ở Paris, thứ động lực học đà đẩy (impetus) của Jean Buridan (khg 1301-1362) và Nicole Oresme (khg 1320-1382)16. Và nếu Benedetti – người đáng chú ý nhất trong số những «người báo trước» này của Galileo – đôi khi vượt qua trình độ động lực học của trường phái Paris đi nữa, thì đấy không phải là nhờ công việc của ông như kỹ sư và pháo thủ, mà bởi vì ông đã từng nghiên cứu Arkhimedês, và quyết định áp dụng «triết lý toán học» vào cuộc tra hỏi thiên nhiên.

[10] Tất nhiên, nền khoa học hiện đại của Descartes và Galileo là cực kỳ quan trọng cho giới kỹ thuật gia và kỹ sư, bởi cuối cùng nó đã thúc đẩy cả một cuộc cách mạng kỹ thuật. Tuy nhiên, nó không hề được tạo ra và triển khai  bởi các kỹ sư và nhà kỹ thuật, mà bởi các triết gia và lý thuyết gia. 

[11] Gần đây, một nhà phê bình đã thân thiện trách rằng tôi đã bỏ qua khía cạnh này trong học thuyết của Galileo (Xem: L. Olschki, «The Scientific Personality of Galileo», Bulletin of the History of Medicine, XII, 1942). Dù tôi tin sâu sắc rằng khoa học chủ yếu là lý thuyết, chứ không phải là sự sưu tập «những sự kiện», cũng xin thú nhận rằng tôi không đáng phải nhận lãnh lời khiển trách trên. 

[12] Cesare Cremonini hay Cesare Cremonino (1550-1631, thường ký tác phẩm bằng tiếng La-tinh là Cæsar Cremoninus hay Cæsar Cremonius): triết gia tự nhiên học người Ý. Ông dạy suốt 30 năm tại Ferrara (Ferrare) và Padua (Padoue) các học thuyết của Aristotelês, Alexandros ở Aphrodisias (Alexandre d’Aphrodise), và Averroes. Bên trong Nhà Trường Kinh Viện, Cremonini cho thấy một mặt sáng và một mặt tối. Mặt sáng là ông đã đề cao chủ nghĩa duy lý (chống thuyết thần khải) và chủ nghĩa duy vật của Aristotelês (chống thuyết linh hồn bất tử của phái nhị nguyên), nên từng bị kết tội là theo chủ nghĩa vô thần. Mặt tối của ông là đã bị đời sau vĩnh viễn ghi nhớ như một trong hai nhà bác học đã từ chối nhìn vào kính viễn vọng của Galileo Galilei. NVK

[13]  Xem: E. Meyerson, Identité et réalité, 3e éd., Paris, 1926, tr. 156. Ở đây, tác giả cho thấy một cách rất thuyết phục, sự không ăn khớp giữa «kinh nghiệm» với các nguyên lý của vật lý học hiện đại. AK. Émile Azriel Meyerson (1859-1933): triết gia và triết gia khoa học người Pháp gốc Ba Lan. Tác phẩm chính: Identité et réalité (1908, 1912, 1926, 2001); De l’explication dans les sciences (1921, 1995); La Déduction relativiste (1925); Du cheminement de la pensée (3 q., 1931, 2011); Réel et déterminisme dans la physique quantique (1933). NVK 

[14]  Pierre [Maurice Marie] Duhem (1861-1916):  nhà vật lý, hóa học, sử gia và triết gia khoa học người Pháp. Tác phẩm chính về lịch sử và triết lý khoa học: Les Théories de la chaleur (1895), Les théories électriques de J. Clerk Maxwell (1902),  L’évolution de la mécanique (1905), Les Origines de la statique (2 q., 1903), Études sur Léonard de Vinci (3 q., 1903-1913); La Théorie physique (1906, 2007), Sauver les phénomènes (1908, 1992, 2005), Le Mouvement Absolu et le Mouvement Relatif (1909); Le Système du Monde: Histoire des Doctrines Cosmologiques de Platon à Copernic (10 q., 1913-1959); La Science Allemande (1915). NVK

[15]  Trong vật lý [động lực] học của Aristotelês, có hai loại chuyển động, chuyển động tự nhiên (mọi vật thể đều trở về sở cứ của nó, vật nặng như hòn đá sẽ rơi xuống, trong khi vật nhẹ như khói sẽ bay lên – xem: Aristotelês, Vật Thể Rơi Xuống Hoặc Bay Lên Theo Định Hướng Tự Nhiên trên trang mục này), và chuyển động do tác động của một lực từ bên ngoài. Ở trường hợp sau, chuyển động (hòn đá ném lên không trung) sẽ ngừng, khi lực tác động lên nó ngừng – nghĩa là chuyển động của vật thể chỉ được duy trì bởi tác động của một động lực bên ngoài, hoàn toàn trái với nguyên lý quán tính. Mặt khác, trong quan điểm trên, vấn đề phải giải thích là sự kiện hòn đá ném lên không trung không rơi xuống ngay, mà vẫn tiếp tục di chuyển một thời lượng. Theo Aristotelês, chính không khí đảm bảo cho sự liên tục của chuyển động: hòn đá để lại một khoảng trống đằng sau khi di chuyển, khoảng trống này sẽ được lấp đầy tức thì bởi không khí, và lượng khí mới đó sẽ vừa đẩy hòn đá về phía trước vừa tạo ra một khoảng trống thứ hai, và cứ như thế cho đến khi sức đẩy của những khoảng không khí kế tiếp nhau giảm dần, tới mức không còn đủ sức tác động nữa, thì hòn đá sẽ rơi xuống theo lẽ tự nhiên.  

[16]  Vào thế kỷ thứ VI, Joannes Philoponus (Jean Philippon, khg 490-570, triết gia thuộc trường phái tân-Platôn tại Alexandreia) cho rằng cái lực tác động lên hòn đá lúc đầu (người ném hòn đá lên không) đã truyền cho nó một impetus (đà đẩy) khiến sự chuyển động được duy trì cho đến khi nó mất hết sức đẩy do sự tương tác với không khí – nghĩa là, ở đây, chuyển động được duy trì bởi một đặc tính trong vật thể –, lúc đó hòn đá sẽ theo lẽ tự nhiên mà rơi xuống. Đến thế kỷ XIV, thuyết impetus đã được chấp nhận rộng rãi và được đưa vào giảng dạy tại Đại học Paris khoảng năm 1320, với Jean Buridan* và Nicole Oresme* như những người quảng bá chính. So với Philoponus, học thuyết của Buridan bao hàm một số ý kiến độc đáo: impetus là nguyên nhân khiến một vật thể chuyển động; impetus của một vật thể tăng lên với vận tốc khiến nó chuyển động và với lượng vật chất trong nó; impetus chỉ ngừng vì lực cản của không khí và sức nặng của vật thể, thay vì tự suy yếu dần rồi biến mất một cách bộc phát; sự chuyển động «sẽ tiếp tục khi nào impetus còn mạnh hơn kháng lực, và có thể kéo dài vô tận nếu không bị suy giảm và hủy hoại bởi một lực trái ngược chống lại nó, hay một cái gì đó quay nó về một chuyển động ngược chiều = and would continue to be moved as long as the impetus remained stronger than the resistance, and would be of infinite duration were it not diminished and corrupted by a contrary force resisting it or by something inclining it to a contrary motion» (Questions on Aristotle’s Metaphysics, XII.9: 73ra). Có lẽ do ý kiến cuối cùng này mà Buridan được xem là một  trong «những tiền bối của Galileo ở Paris».

[17]  «Thực vậy, thứ động lực học này dường như thích ứng một cách hoàn hảo với những quan sát thường ngày, tới mức là nó không thể không tự áp đặt, trước hết cho những người đầu tiên suy đoán về lực và chuyển động chấp nhận… Để các nhà vật lý học tiến tới sự vất bỏ động lực học của Aristoteles và xây dựng khoa động lực học hiện đại, họ phải hiểu được rằng những sự kiện mà họ chứng kiến ​​hàng ngày không hề là những sự kiện đơn giản, sơ đẳng, mà các quy luật cơ bản của động lực học phải áp dụng vào được tức thì: rằng sự kiện con tàu trôi tới do có người kéo, sự kiện cỗ xe có đóng ách lăn bánh trên tuyến đường… phải được xem là những chuyển động cực kỳ phức tạp; nói tóm lại, để hiểu cái nguyên lý của khoa học về sự chuyển động, chúng ta phải xem xét, thông qua sự trừu tượng hóa, một động tử chuyển động trong chân không dưới tác động của một lực duy nhất. Thế nhưng, từ môn động lực học của mình, Aristotelês đã đi xa tới mức kết luận rằng một chuyển động như vậy là không thể có». (P. Duhem, Le Système du monde, Paris, 1913, I, tr. 194 và tt).

[18]  Xem trên trang mục này: Galileo Galilei, Ngôn Ngữ Của Tự Nhiên. NVK

[19]  Xem: Kurd Lasswitz, Geschichte der Atomistik, Hamburg, 1890, II, tr. 23 tt.; E. Mach, Die Mechanik in ihrer Entwicklung, xb lần 8, Leipzig, 1921, tr. 117 tt.; E. Wohlwill, «Die Entdeckung des Beharrunggesetzes», Zeitschrift fur Volkerpsychologie und Sprachwissenschaft, q. XIV et XV, 1883 và 1884 ; E. Cassirer, Das Erkenntnisproblem in der Philosophie und Wissenschaft der neueren Zeit, xb lần 2, Berlin, 1911, I, tr. 394 và tt.

[20]  Xem trên trang mục này: Albert Einstein & Leopold Infeld, Vai Trò Của Trực Giác Và Suy Luận Trong Sự Hình Thành Của Luật Quán Tính. NVK

[21]  Xem: E. Meyerson, sđd, tr. 124 và tt.

[22] Ý niệm Kosmos biến mất, nhưng từ kosmos vẫn còn. Newton không ngừng nói về vũ trụ và trật tự của nó (như ông vẫn nói về impetus16), nhưng trong một nghĩa hoàn toàn mới.

[23]  Như tôi đã cố gắng chỉ ra, khoa học hiện đại là kết quả của sự thống nhất thiên văn học với vật lý học, và sự kiện này đã cho phép ta áp dụng các phương pháp toán học, cho đến lúc đó chỉ được dùng để nghiên cứu những hiện tượng thấy trên bầu trời, vào việc nghiên cứu những hiện tượng thấy trên mặt đất. (A. Koyré, Études galiléennes, III, Galilée et la loi d’inertie, Paris, 1940).

[24] «Descartes đã giải thoát khoa vật lý học khỏi nỗi ám ảnh của Vũ Trụ Hy Lạp hóa, nghĩa là khỏi hình ảnh của một trạng thái ưu đãi nào đó phù hợp với nhu cầu mỹ học của chúng ta… Không có trạng thái nào được ưu đãi hết, bởi vì mọi trạng thái đều tương đương. Như vậy là không có chỗ cho sự truy tìm những lý do mục đích, và sự cân nhắc xem trạng thái nào là tốt nhất trong vật lý học» (E. Bréhier, Histoire de la philosophie, q. II, t. l, Paris, 1929, tr. 95).

[25] «Để đánh giá hệ thống động lực học của Aristotelês, nếu chúng ta gác bỏ được những thành kiến phát xuất từ nền giáo dục hiện đại của ta, và nếu chúng ta tìm được cách tự đặt mình vào não trạng mà một người suy nghĩ độc lập vào đầu thế kỷ XVII có thể có, thì ta khó lòng không nhận biết rằng hệ thống ấy là phù hợp với sự quan sát trực tiếp những sự kiện hơn là hệ thống của chúng ta rất nhiều» (P. Tannery, «Galilée et les principes de la dynamique», Mémoires scientifiques, VI, Paris, 1926, tr. 399).

[26]  Xem: A. Koyré, Études galiléennes, II, La loi de la chute des corps, Paris, 1940.

[27]  Raffaello Caverni (1837-1900): sử gia khoa học người Ý. Tác phẩm: Storia del metodo sperimentale in Italia (5 q., 1891-1896). NVK

[28] Xem :  R. Caverni, Storia del metodo sperimentale in Italia, 5 q., Firenze, 1891-1896, đặc biệt các q. IV et V. – P. Duhem, Le Mouvement absolu et le mouvement relatif, Paris, 1905; «De l’accélération produite par une force constante», Congrès international de l’Histoire des Sciences, lần III, Genève, 1906; Études sur Léonard de Vinci: Ceux qu’il a lus et ceux qui l’ont lu, 3 vol., Paris, 1909-1913, đặc biệt q. III: Les précurseurs parisiens de Galilée. Gần đây thôi, luận điểm về tính liên tục còn được John Herman Randan Jr. bênh vực trong một bài báo xuất sắc: «Scientific method in the school of Padua», Journal of the History of Ideas, l, 1940; ở đây, Randan cho thấy một cách thuyết phục sự xây dựng dần dần các phương pháp phân tích và tổng hợp («résolution et composition») trong giảng dạy của các nhà lô-gic học thời Phục Hưng. Tuy nhiên, cũng chính Randan lại tuyên bố rằng:  a) «không có [thiếu] một yếu tố trong phương pháp do Zabarella thiết lập: ông ta không đòi hỏi rằng các nguyên lý của khoa học tự nhiên phải là toán học» (tr. 204), và b) rằng quyển Tractatus de paedia của Cremonini «ngân vang như lời cảnh cáo long trọng cho các nhà toán học đầy vẻ đắc thắng của truyền thống kinh nghiệm chủ nghĩa lý tính» (sđd). Thế nhưng, theo tôi, chính sự nhấn mạnh trên vai trò của toán học cộng thêm vào phương pháp lô-gic của Zabarella mới chính xác tạo ra nội dung của cuộc cách mạng khoa học của thế kỷ XVII, và vạch ra đường phân thủy giữa phe theo Platôn và bên theo Aristotelês trong ý kiến của người đương thời.   

[29] Giambattista Benedetti, hay, Giovanni Battista Benedetti (1530-1590): nhà toán học và vật lý học người Ý. Tác phẩm: Resolutio omnium Euclidis problematum aliorumque (1553), Consideratione d’intorno al discorso della grandezza della terra e dell’acqua (1579), De gnomonum umbrarumque solarium usu (1574), Diversarum speculationum mathematicarum et physicarum liber (1585). NVK

[30]  Giordano Bruno (1548-1600): tu sĩ dòng Đa Minh, nhà triết học, toán học và thiên văn học người Ý, bị hỏa thiêu tại Roma năm 1600 vì những tư tưởng tôn giáo và khoa học trái ngược với truyền thống. Tác phẩm chính : La Cena de le Ceneri (1584) = The Ash Wednesday Supper; De la causa, principio, et uno (1584) = Concerning Cause, Principle, and Unity ; De l’infinito universo et mondi (1584) = On the Infinite Universe and Worlds. NVK

[31] Xem:  A. Koyré, Études galiléennes, I : À l’aube de la science classique, Paris, 1940.

[32] Thế kỷ XVI, ít nữa trong nửa sau của nó, là thời kỳ mà người ta tiếp nhận, nghiên cứu, và dần dần hiểu Arkhimêdês.

Cuộc Cách Mạng Khoa Học Kỹ Thuật Trong Lịch Sử

CÁC CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI

Cách mạng khoa học – kỹ thuật là một khái niệm nói về những phát triển mang tính vượt bậc và bước ngoặt của khoa học và kỹ thuật diễn ra từ giữa thế kỷ 20, hoặc sau khi Thế chiến thứ hai (1939-45) kết thúc. Trên thực tế, “Cách mạng khoa học – kỹ thuật” là một khái niệm mới ra đời trong thế kỷ 20 và nội dung của khái niệm này có nhiều điều chưa được thống nhất trong giới học giả nói chung.

 

 

 

1. Cuộc cách mạng khoa học đầu tiên:

 

Thời điểm: Đầu thế kỷ XVII – Nửa đầu thế kỷ XVIII

Phạm vi: Tây Âu

Trung tâm: Anh, Pháp, Hà Lan, Italia, Đức

Các lĩnh vực: Vật lý học, Toán học, Sinh vật học, Hoá học…

 

 

Tiền đề của cuộc cách mạng này không gì khác, chính là những thành tựu khoa học và kỹ thuật của tất cả các thời kỳ trước cộng lại, nhất là sự kế thừa của thiên văn học, toán học, vật lý học…

 

Trước tiên cần trở về với Nicolaus Copernicus và tác phẩm Về sự vận động của những hành tinh mang tên ông, xuất bản năm 1540. Qua đó, ông chứng minh rằng Mặt Trời chứ không phải Trái Đất là trung tâm của vũ trụ, đánh đòn chí mạng vào hệ thống Địa tâm (Trái Đất là trung tâm của vụ trụ) của Ptolémeé vốn đã thống trị hàng ngàn năm nay. Bị giáo hội Cơ đốc cấm đoán, học thuyết của ông dường như đông lạnh. Bruno lên tiếng đấu tranh cho khoa học và bị kết án tử thiêu. Chưa bao giờ khoa học lại bị đối xử bạo tàn và nghiệt ngã đến thế. Chẳng bao lâu sau, Kepler (nhà bác học người Đức) đã chứng minh cho sự đúng đắn của tư tưởng Copernicus. Nhưng chỉ đến khi Galileé xuất bản cuốn Đàm thoại về hai hệ thống Ptolémeé và Copernicus (năm 1632), trong đó làm nổi bật tính khoa học của hệ thống Copernicus, thì mọi chuyện dường như mới ngã ngũ, sự thật đã được chấp nhận. Chân lý trả về khoa học. Galileé cũng là người đầu tiên dùng kính viên vọng quan sát bầu trời, lập ra vật lý học thực nghiệm, đặt cơ sở cho môn Động lực học và xây dựng phương pháp thực nghiệm khoa học.

 

Năm 1687, I.Newton viết tác phẩm Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên, đã hệ thống hoá những thành tựu của các nhà khoa học đi trước, trong đó có ba định luật về sự chuyển động các hành tinh của Kepler, đồng thời đưa ra định luật vạn vật hấp dẫn (lực hút). Ngoài ra, ông còn có cống hiến to lớn cho ngành quang học, toán học và là người đồng thời phát minh ra phép tính vi phân cùng với Leubniz (nhưng hai nhà bác học hoàn toàn nghiên cứu độc lập, không hề trao đổi gì trong quá trình sáng tạo).

 

Được chứng kiến sự thay đổi ngoạn mục của tri thức khoa học đương thời khiến Descartes không tin vào những gì đã biết. Ông nghi ngờ tất cả! Còn những thành tựu khoa học to lớn kia, trong đó có phần đóng góp đáng kể trí lực của ông thì sao? Chẳng lẽ lý trí của con người lại bất lực, không thể nhận thức chân lý ? Ông bừng tỉnh, nhắc nhở rằng: “Chúng ta phải tin vào lý trí của chúng ta”. Và ông tiếp tục bước lên các nấc thang của con đường khoa học, buông câu triết lý lừng danh: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.

 

Sang thế kỷ XVIII, những thành tựu to lớn tiếp tục nảy nở trên các lĩnh vực, đặt biệt là việc thực hiện những phản ứng nguyên tử trong hoá học, đồng thời khoa học bắt đầu có những thành tựu làm cơ sở để tìm tòi đi vào thế giới vi mô, nổi bật ở các ngành: Vật lý học, Toán học, Sinh Vật học, Hoá học… với sự cống hiến của các nhà bác học tên tuổi như: Euler, d’Alembert, Bernouli, Laplace, chúng tôi K.Linné, B.Lamark, Cuvier, Lavoisier, Galvani, Dalton…

 

Nhưng cuộc cách mạng khoa học diễn ra vào thời điểm từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII chưa ảnh hưởng mạnh đối với kỹ thuật, phần lớn thành tựu mang tác dụng lý giải quy luật tự nhiên và cải tiến kỹ thuật của các thế kỷ trước. Những cuộc cách mạng khoa học sau này sẽ gắn chặt với kỹ thuật, nên đồng thời với cách mạng khoa học đó chính là cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng sản xuất – công nghiệp.

 

2. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai:

 

Thời điểm: Đầu thế kỷ XVIII – Nửa đầu thế kỷ XIX

Phạm vi: Châu Âu, Bắc Mỹ.

Trung tâm: Tây Âu, Hoa Kỳ.

Các lĩnh vực: Giao thông – vận tải, thông tin – liên lạc, sản xuất công nghiệp…

 

Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, hệ thống khoa học cơ bản cổ điển đã được xác lập, hoàn thành cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất trong lịch sử xã hội loài người, là tiền đề trực tiếp mở ra cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Đây cũng đồng thời là cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ ở Tây Âu.

 

Những thành tựu có ý nghĩa như máy hơi nước (1712, do công của New Comen, người Anh), được James Wat hoàn thiện thành động cơ chạy bằng than và nước (năm 1784). Năm 1764, James Hargrever phát minh ra máy kéo sợi và năm 1785 Exmon Carryter sáng chế ra máy dệt, đưa năng suất tăng lên gấp 39 lần. Ngành luyện kim cũng mở ra chương mới khi Abraham Dary lần đầu tiên dùng than cốc để nấu gang (1709), sau đó, hai cha con ông đã đưa nó vào sản xuất công nghiệp (1735). Đến 1784, Henry Cart và Onios đã luyện gang thành thép, một loại hợp kim cực kỳ quan trọng trong nền đại công nghiệp sắp sửa ló rạng. Trong lĩnh vực giao thông liên lạc, tàu hơi nước vượt đại dương đi vào hoạt động (1815), trọng tải đạt hàng ngàn tấn. Năm 1814, Stephenson chế tạo tàu hoả chạy bằng hơi nước và sau đó tuyến đường sắt đầu tiên được xây dựng nối liền Darlington với Stockton ở nước Anh (1825). Đến 1858, thế giới đã có 40.000 km đường sắt, trong đó Mỹ chiếm 40%. Phát minh ra điện báo (1832 – 1835) của Samuel Mores cũng mang một ý nghĩa lịch sử cho sự ra đời của ngành thông tin liên lạc trong thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang phát triển ào ạt. Năm 1851 đã có cáp quang qua biển Manche và đường cáp qua Đại Tây Dương.

 

Những thành tựu trên (trong thế kỷ XVIII) có ý nghĩa bước ngoặt trong các lĩnh vực mà khoa học gắn với kỹ thuật làm biến đổi ngành dệt may, giao thông, thông tin liên lạc, luyện kim, chế tạo máy… Từ đó hình thành nên hệ thống kỹ thuật mới dựa trên máy hơi nước, than đá và sắt thép thay thế cho hệ thống kỹ thuật trước đó chủ yếu dựa vào cơ bắp, sức nước và sức của động vật. Sang thế kỷ XIX, những thành tựu đó tiếp tục được cải tiến, cùng với sự ra đời các phương tiện và công cụ sản xuất mới, tạo ra hệ thống máy móc ứng dụng vào sản xuất và đời sống, định hình nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa và xã hội công nghiệp ở các nước Anh, Pháp, Mỹ và sau này là hàng loạt các nước Tây Âu. Từ đây, xã hội công nghiệp đã thật sự trở thành một dòng chảy mới của nền văn minh, gõ cửa xông vào các quốc gia – dân tộc đang ở trong tình trạng tiền công nghiệp.

 

3. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ ba:

 

Thời điểm: Cuối thế kỷ XIX – Nửa đầu thế kỷ XX

Phạm vi: Châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Á.

Trung tâm: Tây Âu, Hoa Kỳ, Liên Xô, Nhật Bản.

Các lĩnh vực: Chế tạo máy, giao thông – liên lạc, vật liệu, năng lượng…

 

Khi hệ thống kỹ thuật dựa vào máy hơi nước, than đá và sắt thép truyền thống đã tận dụng hết công suất của mình, nền công nghiệp muốn nhảy vọt thì phải cần đến một hệ thống kỹ thuật mới hiệu quả hơn, thôi thúc các ngành khoa học – kỹ thuật sáng tạo nên những thành tựu thật xứng đáng trước các yêu cầu cháy bỏng từ công cuộc phát triển chung của xã hội loài người – yêu cầu công nghiệp hoá, xây dựng hình mẫu xã hội công nghiệp phát triển.

 

Cái gì cần sáng tạo đã được sáng tạo: Năm 1862, Jean Leneir chế được xe chạy bằng động cơ đốt trong; năm 1869, G.T.Grammer chế ra máy phát điện một chiều dyamo, sau đó là máy phát điện xoay chiều (1877); chúng tôi phát minh ra máy điện thoại (1876), sau đó G.Marconi đã phát triển để liên lạc bằng sóng điện từ giữa hai bờ biển Manche (1897); năm 1878 – 1879, chúng tôi và T.Edison phát minh ra bóng điện; năm 1895 động cơ diesel ra đời, để đến năm 1898 kỷ nguyên ô tô xuất hiện (khi lần đầu tiên loài người được biết đến cuộc triển lãm ô tô vào năm đó); năm 1903 – 1909, từ máy bay của anh em nhà Wringt (Mỹ) đến máy bay của Blériot (Pháp), đã mở ra thời đại hàng không… Ngoài ra, hàng loạt những thành tựu khác trên nhiều lĩnh vực đã hình thành nên một hệ thống ký thuật mới dựa vào điện, dầu mỏ và hợp kim thay thế cho hệ thống kỹ thuật trước đó dựa vào máy hơi nước, than đá và sắt thép; đồng thời làm xuất hiện thêm nhiều loại máy công cụ và phương tiện, vật liệu, hoá chất… thúc đẩy sản xuất và kinh tế phát triển lên một tầm cao mới – xác lập vững chắc nền đại công nghiệp gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

 

Đáng chú ý nữa, đó là việc phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của H.Becquerel (năm 1896) và của Mary Quyry (năm 1898) đã chỉ ra những khiếm khuyết lớn trong các định luật cơ bản của nền vật lý học cổ điển, đồng thời cho thấy nguyên tử không phải là thành phần nhỏ nhất và không thể chia cắt của vật chất. Cuộc khủng hoảng trong vật lý học diễn ra từ đó. Nhưng không lâu sau đã được giải quyết bởi M.Planck thông qua Thuyết Lượng tử (năm 1900), A.Einstien thông qua Thuyết Tương đối (năm 1905) và cơ học lượng tử sau đó (1925 – 1926).

 

Một trong những đặc điểm đáng lưu ý trong nền đại công nghiệp là dây chuyền sản xuất hàng loạt – áp dụng nguyên lý quản trị của F.W.Taylor (đề xuất năm 1909, ứng dụng vào thực tiễn năm 1913 – hãng Ford di tiên phong).

 

Nhưng cũng chính từ nền đại công nghiệp gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà nhân loại phải gánh chịu những hệ luỵ kinh hoàng bởi hai cuộc đại chiến thế giới (1914 – 1918 và 1939 – 1945), đồng thời làm cho đà phát triển khoa học – kỹ thuật chậm đi, mặc dù vẫn đạt được những tiến bộ to lớn như: Kỹ thuật hạt nhân, cùng nhiều phương tiện và công cụ hiện đại nhằm mục tiêu quân sự. Một khi đem chúng sử dụng vào mục đích chiến tranh thì hậu quả thật khủng khiếp.

 

Nói tóm lại, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ ba đã đưa nhân loại lên trình độ văn minh công nghiệp, hay nói chính xác hơn, xác lập nên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại, mà biểu hiện ra là nền sản xuất công nghiệp tiên tiến, có khả năng tạo ra nguồn của cải vật chất và tinh thần đồ sộ cho nhân loại. Nhưng cái giá phải trả quá đắt: Hai cuộc đại chiến thế giới đã huỷ diệt 80 triệu con người, trong đó phải kể đến hai quả bom nguyên tử dội xuống Nagazaki và Hirosima (8/1945). Đồng thời, nó rung chuông cảnh báo về mục đích sử dụng và năng lực làm chủ các thành tựu khoa học – kỹ thuật trên con đường nhân loại đi về phía trước.

* * *

 

thuật trong lịch sử, với ba giai đoạn phát triển mang tính cách mạng. Từ cuộc cách mạng lần thứ ba trở đi, khoa học ngày càng gắn liền với kỹ thuật, đồng thời khoa học – kỹ thuật nhanh chóng trở thành yếu tố của công nghệ trong sản xuất, tạo ra sự thay đổi vượt bậc trong nền sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, đưa nền kinh tế nông nghiệp bao phủ xã hội loài người hàng xưa nay lên nền kinh tế công nghiệp. Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội công nghiệp không chỉ được hình thành ở Anh, Pháp, Mỹ mà còn cả ở Liên Xô, Nhật, nhiều nước ở châu Âu.

 

Tuy nhiên, cần phải chờ đến cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ tư, khi khoa học – kỹ thuật trở thành công nghệ, biểu hiện ra trên thực tế là cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đương đại, thì không những nền sản xuất công nghiệp biến đổi về chất, mà cả đời sống con người – trên mọi phương diện – cũng biến đổi sâu sắc hơn bao giờ hết. Nền văn minh con người đang rung chuyển, thay đổi và đổi thay với tốc độ chóng mặt.

 

 

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session …

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 – 4:52:10  (13.20 – 13.50)

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos’ History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew – Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

Tặng Kim Âu

Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình. Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh. Văn phong thảo phạt, quần hùng phục. Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình. Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội

Khoa học và Công nghệ

-

Khoa học xã hội chia ra làm hai nửa: khoa học xã hội truyền thống và khoa học xã hội tính toán. Phe nào sẽ được vinh danh trên ‘đại lộ danh vọng’ của ngành khoa học này?

Các nhà khoa học nghiên cứu dữ liệu từ hàng ngàn người sử dụng mạng xã hội để phân tích các nhóm có hành vi cực đoan. Nguồn: Minzhang Zheng và Neil Johnson

Sau gần một thập kỷ miệt mài trên con đường trở thành một nhà xã hội học thực thụ, bỗng ngày nọ khi đang thực hiện một dự án, Elizaveta Sivak – đang làm việc tại Trường Kinh tế Cao cấp trực thuộc Đại học Nghiên cứu Quốc gia ở Moscow, chuyên nghiên cứu về gia đình và thời thơ ấu – nhận ra rằng còn rất nhiều điều mà cô cần phải học.    Vào năm 2015, cô đã tiến hành nghiên cứu các hoạt động của thanh thiếu niên bằng cách thực hiện một loạt các cuộc phỏng vấn yêu cầu họ kể tên mười địa điểm mà họ đã đến trong năm ngày qua. Một năm sau, dù đã phân tích xong dữ liệu nhưng cô vẫn cảm thấy khá thất vọng vì kết quả chỉ dựa trên cơ sở các cuộc phỏng vấn riêng lẻ. Khi người đồng nghiệp cho Sivak xem một bài báo phân tích dữ liệu từ Copenhagen Networks Study – một dự án đột phá theo dõi các mối liên hệ trên mạng xã hội, nhân khẩu học và vị trí của khoảng 1.000 sinh viên, với thời gian cập nhật phân tích là 5 phút một lần, trong suốt năm tháng. Khoảnh khắc ấy, cô biết rằng lĩnh vực nghiên cứu của mình sắp rẽ sang một hướng mới. “Tôi nhận ra rằng những kiểu dữ liệu mới này sẽ cách mạng hóa ngành khoa học xã hội mãi mãi. Và tôi nghĩ điều đó thật tuyệt”. Sau đó, Sivak quyết định học lập trình, và tham gia vào “cuộc cách mạng”. Giờ đây, cô và các nhà khoa học xã hội tính toán khác đang khảo sát các tập dữ liệu khổng lồ và phức tạp, rút ra ý nghĩa từ những hoạt động trên nền tảng số của xã hội. Họ đang theo dõi các hoạt động  trực tuyến của mọi người; khảo sát sách và tài liệu lịch sử đã được số hóa; diễn giải dữ liệu từ các thiết bị cảm biến gắn trên người để ghi lại mọi bước đi và liên hệ của một cá nhân; thực hiện các cuộc khảo sát và thử nghiệm trực tuyến nhằm thu thập hàng triệu điểm dữ liệu; và thăm dò các cơ sở dữ liệu đồ sộ đến mức chúng có thể tiết lộ những bí mật to lớn của xã hội – chỉ bằng sự trợ giúp của các phép phân tích dữ liệu đầy tinh vi.  Markus Strohmaier, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Kỹ thuật Rhine-Westphalia Aachen ở Đức cho biết: “Thành tựu lớn nhất là các nhà khoa học đã thay đổi suy nghĩ của mình về dữ liệu hành vi kỹ thuật số và bắt đầu nhìn nhận nó như một nguồn dữ liệu thú vị và hữu ích”. Nhưng không phải ai cũng chấp nhận sự thay đổi này. Một số nhà khoa học xã hội lo ngại các nhà khoa học máy tính đang quá tham vọng, họ vội vã tràn vào lĩnh vực này dù những bộ dữ liệu lớn của họ vẫn chưa thực sự tương hợp với các nghiên cứu trước đó. Một số người thì phàn nàn rằng các nhà nghiên cứu tính toán chỉ xem xét mẫu mà bỏ quên nguyên nhân, hoặc họ đưa ra kết luận khá mau chóng từ nguồn dữ liệu không đầy đủ và lộn xộn – thường thu được từ các nền tảng truyền thông xã hội và các nguồn dữ liệu bẩn khác. Mặt khác, một số nhà khoa học xã hội tính toán đến từ các lĩnh vực như vật lý và kỹ thuật cho rằng nhiều lý thuyết khoa học xã hội quá viển vông hoặc không thể kiểm chứng. Marc Keuschnigg, nhà xã hội học phân tích tại Đại học Linköping ở Norrköping, Thụy Điển, cho biết tất cả những luồng tranh cãi này giống như “một cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phe phái. Kẻ chiến thắng cuối cùng sẽ được vinh danh trên ‘đại lộ danh vọng’ của ngành khoa học xã hội”. Nhưng hai phe rốt cục cũng hòa hoãn. Keuschnigg chia sẻ “Sự giao thoa của khoa học xã hội tính toán với khoa học xã hội truyền thống là không thể phủ nhận”, ông chỉ ra sự bùng nổ của nó trên các tạp chí, hội nghị và chương trình học. “Họ cũng bắt đầu tôn trọng nhau hơn”. 

Cuộc cách mạng tính toán

“Thành tựu lớn nhất là các nhà khoa học đã thay đổi suy nghĩ của mình về dữ liệu hành vi kỹ thuật số và bắt đầu nhìn nhận nó như một nguồn dữ liệu thú vị và hữu ích”. (Markus Strohmaier, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Kỹ thuật Rhine-Westphalia Aachen).

Sau đó, các tạp chí lớn đã xuất bản một loạt các nghiên cứu khoa học xã hội tính toán. Một nghiên cứu từ năm 2006 đã xem xét cách xã hội ảnh hưởng đến sự phổ biến của một bài nhạc bằng việc tạo ra một thị trường âm nhạc trực tuyến nhân tạo có 14.341 người sử dụng. Những người tham gia đã tải xuống các bài nhạc – mà không phải lúc nào cũng được biết trước rằng bài nhạc đó có nổi tiếng hay không. Nghiên cứu cho thấy mức độ phổ biến của một bài hát trở nên khó dự đoán hơn khi hành vi của người dùng bị ảnh hưởng bởi hành vi của những người khác, điều này phần nào giải thích cho lý do vì sao các nhà sản xuất khó có thể dự đoán trước thành công của một bài nhạc.  Hai năm sau, một nghiên cứu đã phân tích sự di chuyển của 100.000 người dùng điện thoại di động trong vòng sáu tháng và phát hiện ra rằng khá dễ để dự đoán xu hướng đi du lịch của mọi người. Các tác giả có thể tính toán khả năng tìm thấy một cá nhân ở bất kỳ địa điểm cụ thể nào, họ cho rằng việc xác định những điểm tương đồng trong các mô hình đi lại trong cộng đồng có thể là một nguồn tham khảo hữu ích cho các nhà quy hoạch đô thị, đồng thời giúp chúng ta hiểu được sự lây lan của dịch bệnh hoặc chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp. Cùng năm đó, một bài báo trên tạp chí công nghệ Wired cho rằng, kỷ nguyên dữ liệu lớn sẽ đánh dấu hồi kết của lý thuyết trong các ngành khoa học. Mặc dù bị nhiều người chỉ trích là bài báo đang làm quá lên, nhưng nó thực sự gây chấn động: hơn một thập kỷ sau, các nhà khoa học xã hội vẫn liên tục đề cập đến bài báo trên Wired như một tín hiệu cho thấy các lý thuyết khoa học xã hội đang bị tấn công.   Nhưng dữ liệu lớn vẫn tiếp tục phát triển. Đối với Duncan Watts, nhà xã hội học tại Đại học Pennsylvania ở Philadelphia, những thay đổi trong khoa học xã hội gợi nhớ đến những gì đã xảy ra trong ngành sinh học vào những năm 1990, khi công nghệ bắt đầu tạo ra hàng loạt dữ liệu về trình tự DNA và biểu hiện gene. “Dữ liệu mới ào ạt như thác đổ, đòi hỏi chúng tôi phải nhìn nhận về dữ liệu theo một cách rất khác”.  Nhưng các nhà khoa học xã hội truyền thống tỏ ra không mấy ấn tượng trước thành quả ban đầu của cuộc cách mạng. Họ coi các nghiên cứu về mạng xã hội là những thí nghiệm được thực hiện trên hàng nghìn người – mà những người ấy không hay biết rằng mình là ‘vật thí nghiệm’. Vào năm 2018, công ty tư vấn Cambridge Analytica của Anh bị cáo buộc đã thu thập dữ liệu từ hàng triệu tài khoản Facebook mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu. Sau vụ bê bối, mọi người tỏ ra ngờ vực các nghiên cứu trên mạng xã hội, thậm chí nhiều dự án đã vấp phải khó khăn khi các nền tảng đưa ra những chính sách bảo mật mới.

Mặt trái của thuật toán

Những nghiên cứu ban đầu về các vấn đề phức tạp đã làm nảy ra những câu hỏi là phương pháp tiếp cận mới này có thể thấy câu trả lời từ dữ liệu nhưng chắc gì đã giải quyết được những vấn đề cơ bản và tồn tại đã lâu của khoa học xã hội như vấn đề bất bình đẳng hoặc ảnh hưởng của quan điểm xã hội. “Tôi nghĩ là các nhà khoa học xã hội không quan tâm lắm đến nhiều nghiên cứu về mạng Twitter ở thời điểm bắt”, Claudia Wagner, một nhà khoa học xã hội tính toán tại Viện nghiên cứu KHXH GESIS Leibniz, Đức, nói. Một nhà trị liệu ở Mỹ đang kiểm tra phổi của bệnh nhân. Một thuật toán thiên kiến đã đưa ra khuyến nghị về chính sách y tế trên nhiều nhóm bệnh nhân. Nguồn: Alexandra Hootnick/NYT/Redux/eyevine Một số người cho rằng, ít nhất những nghiên cứu đó là sản phẩm của một lĩnh vực mới nổi đang tìm cách định vị mình trong thế giới khoa học. Khi các phân tích trở nên phức tạp và các nguồn dữ liệu trở nên đa dạng hơn, lĩnh vực này đã giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng như gốc rễ của phân biệt đối xử, bất bình đẳng và cực đoan hóa, Strohmaier nói. “Hiện tại thì chúng tôi mới có được loại dữ liệu mình cần để làm cơ sở nghiên cứu các vấn đề lớn”, ông cho biết. Ví dụ, năm ngoái, các nhà nghiên cứu về y tế công cộng và kinh tế học hành vi đã sử dụng bệnh án của hơn 50.000 bệnh nhân trong hệ thống y tế Hoa Kỳ để kiểm tra ngược một thuật toán phân tích, vốn được dùng để đưa ra khuyến nghị nên giám sát và can thiệp sức khỏe thêm đối với một số người. Họ đã dùng mô hình để chỉ ra là thuật toán này có xu hướng phân biệt đối xử một cách có hệ thống đối với người da đen, và do đó có thể ảnh hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe của hàng triệu người. Sau đó, các nhà nghiên cứu sử dụng hiểu biết này để tìm ra nguồn gốc của sự thiên vị đó và đề xuất các cách loại bỏ nó. Ví dụ, các thuật toán không nên căn cứ vào số tiền chi cho việc chăm sóc sức khỏe của một cá nhân là yếu tố để đánh giá mức độ chăm sóc mà họ cần vì khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe không bình đẳng bởi người Mỹ da đen thường chi ít tiền hơn so với người Mỹ da trắng, ngay cả khi họ có cùng nhu cầu chăm sóc sức khỏe. Nhưng đây không phải là thách thức duy nhất: các nhà khoa học xã hội tính toán từ ngành vật lý hoặc khoa học máy tính nhảy sang thường bị cho là không tìm hiểu các lý thuyết khoa học xã hội giải thích về hành vi của con người. Giulia Andrighetto, từng là một triết gia nhưng hiện là nhà khoa học xã hội tính toán tại Viện Khoa học Nhận thức và Công nghệ (Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Ý ở Rome), cho biết: “Họ có mẫu hành vi để phân tích nhưng thường thì họ không tìm hiểu cơ chế làm phát sinh những hành vi đó.”  Để làm được công việc đó đòi hỏi nhà khoa học phải nắm chắc lý thuyết khoa học – xã hội. Jisun An, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Hamad Bin Khalifa ở Doha, tiến hành nghiên cứu về hành vi chia sẻ tin tức trên mạng xã hội ngay khi phong trào khoa học xã hội tính toán bắt đầu nở rộ. Lúc đầu, cô chỉ làm việc với các nhà khoa học máy tính khác, và họ phải vật lộn để xoay sở với các lý thuyết khoa học xã hội khác nhau. Giờ đây, cô hợp tác với các nhà chính trị học để nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thông đối với dư luận – và ngược lại – cũng như cách khuyến khích mọi người tăng cường sự đa dạng cho các nguồn tin tức. “Theo thời gian, mỗi bên rồi cũng sẽ thấu hiểu về ngôn ngữ và phương pháp của nhau”, An cho biết. Đã có những dấu hiệu cụ thể về cú bắt tay này. Các nhà khoa học đang lên kế hoạch tổ chức hội nghị lớn đầu tiên kết hợp hai phương pháp tiếp cận vào năm 2021. Các trường đại học cũng đang mở ra những cơ sở nghiên cứu tập hợp thành viên từ các bộ phận khác nhau để thu hẹp dần khoảng cách, thậm chí Đại học George Mason ở Fairfax, Virginia đã thành lập một khoa riêng. Trại hè dành cho khoa học xã hội tính toán đã diễn ra tại hơn 30 địa điểm trên khắp thế giới, và một nhóm sinh viên trẻ nhiệt tình đã mang lại hy vọng rằng cuộc “đấu tranh” giờ đây sẽ nhường chỗ cho những hợp tác nghiên cứu đa dạng.

Những mâu thuẫn của hai cách tiếp cận 

Hai cách tiếp cận này có thể sẽ kết hợp vô cùng hiệu quả. Nhà khoa học dữ liệu Joshua Blumenstock tại Đại học Washington ở Seattle đã cùng các cộng sự sử dụng dữ liệu điện thoại di động của hàng triệu người ở Rwanda để suy ra tình trạng kinh tế xã hội của họ, sau đó xác nhận kết quả bằng cách so sánh chúng với dữ liệu được thu thập bằng các cuộc khảo sát thông thường. Các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng kết quả để đề xuất những vùng nghèo của đất nước cần được hưởng chính sách mới của chính phủ, hoặc để theo dõi tác động của các chính sách đã được ban hành. Johnson không phải là người duy nhất hoài nghi về tầm quan trọng của lý thuyết đối với các nghiên cứu kiểu như thế này. Giangiacomo Bravo, trước là nhà kinh tế xã hội và hiện là nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Linnaeus ở Växjö, Thụy Điển, cho rằng nhiều lý thuyết khoa học xã hội hiện nay quá viển vông để có thể kiểm chứng được bằng dữ liệu lớn. Ví dụ, các nhà khoa học thường định nghĩa vốn xã hội là những hiểu biết và giá trị được chia sẻ trong một xã hội cho phép các cá nhân làm việc cùng nhau. “Công thức ban đầu của khái niệm này quá mơ hồ để có thể kiểm chứng. Làm sao mà tôi đo lường được nó?”. Bà không đơn độc trên hành trình sử dụng khoa học xã hội để tác động vào xã hội. Watts cho biết ông và các nhà nghiên cứu khác thường thích xuất bản bài báo hơn là đưa ra các giải pháp thực tế. “Tôi cảm thấy công việc của mình hoàn thành vào lúc bài báo được xuất bản,” ông nói. “Nhiệm vụ của tôi là nêu những ý tưởng và tạo điều kiện cho người khác tìm ra cách biến chúng thành những biện pháp có ý nghĩa.” Watts cho biết, để những thay đổi đó xảy ra, các nhà nghiên cứu từ cả hai lĩnh vực phải hợp tác để cùng phát triển. Và hiện tại thì một vài người đã thấy điều đó đang xảy ra. “Khoa học xã hội truyền thống và khoa học xã hội tính toán đang xích lại gần nhau hơn theo thời gian”, Wagner cho biết. “Trong 20 năm tới, chúng sẽ nhập làm một”. □

Hà Trang dịch Nguồn: https://www.nature.com/articles/d41586-020-01747-1

Iot Là Gì? Ý Nghĩa Của Iot Trong Cuộc Cách Mạng 4.0

Sự ra đời của Internet là thành tựu phát triển vượt bậc của công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu tìm kiếm thông tin và trở thành một phần thiết yếu cho đời sống con người. IOT là một thuật ngữ đã quá quen thuộc đối với mỗi người dân trong thời đại công nghệ 4.0 ngày nay. Vậy IOT là gì?

IOT được viết tắt bởi cụm từ “Internet of Thing” hiểu đúng như nghĩa của chúng là mạng lưới truyền tải thông tin của mọi sự vật, của mọi thứ.

Internet vạn vật có đến hàng tỷ thiết bị vật lý trên toàn thế giới được kết nối với nhau qua mạng internet để thu thập, xử lý dữ liệu, kết nối từ thiết bị đến thiết bị, kết nối con người với thiết bị, thiết bị điều khiểm thiết bị, con người điều khiển thiết bị. Nhờ bộ xử lý giá rẻ, mạng internet không dây cho phép các thiết bị giao tiếp với nhau hợp nhất thế giới kỹ thuật số và vật lý. Qua đó con người có thể theo dõi, điều khiển, kết nối mọi thiết bị với nhau.

Công nghệ IOT phát triển dựa trên nền tảng kết hợp công nghệ mạng Internet( mạng wifi, mạng viễn thông băng rộng 4G, 5G) và công nghệ vi cơ điện tử. Các công nghệ hiện đại kết hợp với nhau mang đến nhiều ứng dụng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dùng giúp tăng trưởng, hiệu quả năng suất công việc.

Lịch sử ra đời của IOT

Và internet of thing được Kevin Ashton đưa ra lần đầu tiên vào năm 1999 dùng để chỉ các vật thể có thể được nhận biết cũng như sự tồn tại của chúng. Đến năm 2016 IOT đã khẳng định vị trí và bước tiến vượt bậc của mình nhờ có sự phát triển công nghệ bao gồm truyền tải thông tin thông qua hệ thống mạng internet không dây, mạng viễn thông 3G, 4G…

Ban đầu, IOT được áp dụng với lĩnh vực kinh doanh và sản xuất, một trong những ứng dụng của nó là machine – to – mahine, nhưng cho đến thời điểm hiện nay, khoa học công nghệ đã biến văn phòng, nhà xưởng hay căn hộ của chúng ta tràn ngập những thiết bị thông minh phù hợp, thuận tiện với nhu cầu của người dùng

Một số ví dụ điển hình về ứng dụng IOT

Khi tất cả mọi thứ đều được kết nối thì việc liên lạc làm việc trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. con người có thể kiểm soát được mọi thứ ví dụ như số tiền có trong thẻ ATM, các giao dịch thực hiện, thời gian và số tiền giao dịch, chúng ta có thể thanh toán các hóa đơn, mua sắm trực tiếp chỉ thông qua ứng dụng trên smart phone… mà không cần phải trực tiếp đi đến ngân hàng hay cửa hàng.

Hoặc như công nghệ phun nước, tưới nước tự động trong các trang trại nuôi trồng được tích hợp công nghệ IOT giúp con người điều khiển, kiểm soát quy trình tưới nước, lượng nước trong một lần phun…việc này rất dơn giản khi các ứng dụng này được kết nối với máy tính, laptop hay thậm chí là cả smart phone. Nhờ có công nghệ như vậy chúng ta có thể tiết kiệm được rất nhiều thời gian cũng như kiểm soát làm chủ được với mọi thứ xung quanh.

Ý nghĩa của công nghệ IOT trong cuộc cách mạng 4.0

Công nghệ IOT được con người nghiên cứu và phát triển nhằm đáp ứng như cầu, phục vụ cho đời sống con người trong mọi lĩnh vực. Thế giới ngày càng phát triển, công nghệ ngày càng đi lên và IOT đang dần trở thành một phần không thể thiếu của con người.

Đối với các doanh nghiệp, lợi ích của IOT phụ thuộc vào các ứng dụng triển khai cụ thể, doanh nghiệp có thể truy cập vào nguồn dữ liệu vô tận về sản phẩm của mình và có hệ thống nội bộ riêng.

Với nguồn dự liệu vô tận, cùng với việc thu thập, phân tích dữ liệu toàn diện, theo thời gian, các hệ thống sản xuất sẽ trở nên nhanh nhạy và năng suất hơn bao giờ hết. Các doanh nghiệp đang áp dụng công nghệ cảm biến vào các sản phẩm để họ có thể truyền tải dữ liệu, điều này giúp cho các công ty có thể phát hiện ra khả năng sản phẩm bị lỗi và trao đổi, điều khiển nó trước khi gây ra lỗi.

Trong thì trường Việt Nam, thương hiệu BKAV đã đạt được nhiều thành tựu đáng nể về internet of thing. BKAV đã cho ra đời mô hình hệ thống ngôi nhà thông minh được kết nối internet và có thể tự động điều chỉnh, điều khiển qua smartphone. Sau nhiều năm nghiên cứu, sản xuất và phát triển BKAV đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường và hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các thương hiệu phần mềm thông minh khác trên thế giới.

Bên cạnh đó, các thương hiệu nổi tiếng như Google, Apple, Microsoft, Samsung, LG…. cũng đang xâm nhập vào thị trường Việt Nam hứa hẹn sẽ có một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ về cả chất lượng cũng như giá cả, đưa IOT vươn lên một tầm cao mới.

Như vậy, internet of thing đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của con người trong xã hội hiện tại. Xã hội được internet hóa, người dùng hoàn toàn có thể điều khiển, kiểm tra kiểm soát mọi vật chỉ thông qua một thiết bị thông minh, có thể nói internet of thing chính là xu hướng của xã hội trong thời đại 4.0.

Ứng dụng IOT trong chiếu sáng

Chắc hẳn bạn đã nghe đến cụm từ Smart home – nhà thông minh? Đây là những thiết kế nhằm mang lại sự thoải mái nhất cho người dùng, bạn có thể mở hoặc tắt đèn cầu thang hay điều chỉnh màu ánh sáng nếu bạn muốn dù bạn đang không ở nhà bằng kết nối wifi- đó chính là 1 dạng ứng dụng IOT trong chiếu sáng.

Chỉ số IP là gì ? Các cấp độ IP ứng dụng trong ngành chiếu sáng

Công suất là gì ? Hệ số công suất và ý nghĩa trong thiết bị điện

Cập nhật thông tin chi tiết về Cuộc Cách Mạng Của Galileo Trong Vật Lý Học Thế Kỷ 17 (A. Koyré, 1943) trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!