Xu Hướng 3/2023 # Công Ước Về Việc Bảo Vệ Di Sản Văn Hóa Và Thiên Nhiên Của Thế Giới # Top 4 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Công Ước Về Việc Bảo Vệ Di Sản Văn Hóa Và Thiên Nhiên Của Thế Giới # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Công Ước Về Việc Bảo Vệ Di Sản Văn Hóa Và Thiên Nhiên Của Thế Giới được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Công ước về việc bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên của thế giới

Đại hội đồng Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc họp tại Paris ngày 17 tháng 10 đến 21 tháng 11 năm 1972, kỳ họp thứ 17.

Nhận thấy rằng di sản văn hóa và di sản tự nhiên ngày càng có nguy cơ bị phá hoại không những bởi những nguyên nhân cổ truyền là xuống cấp mà còn bởi sự tiến triển của đời sống xã hội và kinh tế làm cho các nguyên nhân cổ truyền trầm trọng thêm do các hiện tượng làm hư hỏng hoặc phá hoại ghê gớm hơn nữa.

Xét rằng sự xuống cấp hoặc sự biến đổi của một tài sản thuộc di sản văn hóa và tự nhiên là một sự làm nghèo nàn di sản của tất cả các dân tộc trên thế giới.

Xét rằng việc bảo vệ di sản đó ở cấp quốc gia thường không được hoàn chỉnh vì việc bảo vệ đó đòi hỏi rất nhiều phương tiện và nước có tài sản phải bảo tồn đó trên lãnh thổ của mình thì lại không có  đủ các nguồn lực kinh tế, khoa học và kỹ thuật.

Xét rằng các công ước, khuyến nghị và quyết định quốc tế hiện có đối với các tài sản văn hóa và tự nhiên chứng minh tầm quan trọng, đối với tất cả các dân tộc trên thế giới, của việc bảo tồn các tài sản độc nhất và không thể thay thế được đó mặc dù chúng thuộc về dân tộc nào.

Xét rằng trước những mối nguy hiểm to lớn và trầm trọng mới đang đe doạ chúng, toàn thể cộng đồng quốc tế phải tham gia vào việc bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên có giá trị quốc tế đặc biệt, bằng cách viện trợ tập thể mà không phải là thay thế công việc của hữu quan để hoàn thành một cách có hiệu quả.

Xét rằng muốn như vậy thì cần thiết phải có những điều khoản công ước mới đặt ra một hệ thống có hiệu lực để cùng nhau bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên có giá trị quốc tế đặc biệt, hệ thống này phải được tổ chức một cách thường xuyên và theo cách phương pháp khoa học và hiện đại.

Sau khi đã quyết định tại kỳ họp thứ mười sáu rằng vấn đề này sẽ là đề tài của một Công ước quốc tế.

Thông qua bản Công ước này vào ngày mười sáu tháng mười một 1972.

I- ĐỊNH NGHĨA DI SẢN VĂN HÓA VÀ TỰ NHIÊN.

ĐIỀU KHOẢN I:

Theo công ước này, “Di sản văn hóa” là:

Các di tích: Các công trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội hoạ hoành tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ học, các văn bản, các hang động và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sự, nghệ thuật hay khoa học.

Các quần thể: các nhóm công trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do kiến trúc, sự thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hóa của chúng vào cảnh quan.

Các thắng cảnh: các công trình của con người hoặc những công trình của con người kết hợp với công trình của tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có một giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.

ĐIỀU 2:

Theo Công ước này, “Di sản tự nhiên” là:

Các di tích tự nhiên được tạo thành bởi những cấu trúc hình thể và sinh vật  học hoặc bởi các nhóm cấu trúc như vậy, một giá trị đặc biệt về phương diện thẩm mỹ hoặc khoa học.

Các cấu trúc địa chất học và địa lý tự nhiên và các khu vực có ranh giới đã được xác định là nơi cư trú của các giống động vật và thực vật có nguy cơ bị tiêu diệt, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện khoa học hoặc bảo tồn.

Các cảnh vật tự nhiên hoặc các khu vực tự nhiên có ranh giới đã được xác định cụ thể, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện khoa học, bảo tồn hoặc vẻ đẹp thiên nhiên.

ĐIỀU 3:

Mỗi quốc gia tham gia công ước này cần phải xác định và phân định những tài nguyên khác nhau nằm trên lãnh thổ của mình tương ứng với các điều 1 và 2 ở trên.

II- SỰ BẢO VỆ CỦA QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI

 DI SẢN VĂN HÓA VÀ TỰ NHIÊN.

ĐIỀU 4:

Mỗi một quốc gia tham gia Công ước này công nhận rằng trách nhiệm bảo đảm việc xác định, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và truyền lại cho các thế hệ tương lai di sản văn hóa và tự nhiên nêu trong điều 1 và 2 nằm trên lãnh thổ của mình, là trách nhiệm trước tiên của mình. Quốc gia này phải nỗ lực hành động tối đa cho mục đích trên bằng những nguồn lực mà mình sẵn có và nếu có, thì bằng cả sự viện trợ và hợp tác quốc tế mà nó có thể được hưởng nhất là về mặt tài chính, nghệ thuật, khoa học và kỹ thuật.

ĐIỀU 5:

Để đảm bảo việc bảo vệ và bảo tồn càng hiệu quả càng tốt và tôn tạo càng tích cực càng tốt di sản văn hóa và tự nhiên nằm trên lãnh thổ của mỗi nước và theo những điều kiện thích hợp của mỗi nước, các nước tham gia vào Công ước này sẽ cố gắng hết mình để thực hiện các công tác sau đây:

a) Đề ra một chính sách chung để trao cho di sản văn hóa và tự nhiên một chức năng nhất định trong đời sống tập thể và đưa việc bảo vệ di sản đó vào các chương trình của việc kế hoạch hóa chung;

b) Thành lập trên lãnh thổ của mình (trong trường hợp chưa có) một hoặc vài cơ quan bảo vệ, bảo tồn và tôn tạo di sản văn hóa và tự nhiên, có số nhân viên thích hợp và có đủ phương tiện thực hiện các nhiệm vụ được giao;

c) Phát triển các công trình nghiên cứu và tìm tòi khoa học kỹ thuật và cải tiến các phương pháp can thiệp cho phép một quốc gia ứng phó với những tai hoạ đang đe doạ di sản văn hóa hay tự nhiên của nó.

d) Áp dụng các biện pháp luật pháp, khoa học, kỹ thuật, hành chính và tài chính thích hợp để xác định, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và tái sử dụng (réanimatron) di sản đó;

e) Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập hoặc phát triển các trung tâm quốc gia hoặc vùng về đào tạo cán bộ trong lĩnh vực bảo vệ, bảo tồn và tôn tạo di sản văn hóa và tự nhiên và khuyến khích việc nghiên cứu khoa học về lĩnh vực này.

ĐIỀU 6:

1- Với tinh thần hoàn toàn tôn trọng chủ quyền của các quốc gia có di sản văn hóa và tự nhiên theo điều 1 và 2 nằm trên lãnh thổ của mình và không làm thiệt hại đến các quyền lợi cụ thể dự kiến trong luật pháp quốc gia về di sản đó, các nước tham gia Công ước này thừa nhận rằng đó là một di sản của thế giới mà toàn thể cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ hợp tác để bảo vệ.

2- Các quốc gia tham gia Công ước xin nguyện góp sức một cách tương xứng và căn cứ vào các điều khoản của bản Công ước này, vào việc xác định, bảo vệ, bảo tồn và tôn tạo di sản văn hóa và tự nhiên nêu trong các phần 2 và 4 của điều 11 nếu quốc gia có di sản nằm trên lãnh thổ của nó, yêu cầu.

3- Mỗi nước tham gia Công ước xin nguyện kiên quyết không dùng bất cứ biện pháp nào có thể phương hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến di sản văn hóa và tự nhiên nêu trong các điều 1 và 2, nằm trên lãnh tổ của các nước khác tham gia Công ước này.

ĐIỀU 7:

Trong Công ước này, cần  phải hiểu sự  bảo vệ quốc tế đối với di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới là việc thành lập một hệ thống hợp tác và viện trợ quốc tế nhằm hỗ trợ các nước tham gia Công ước trong các nỗ lực để bảo tồn và xác định di sản đó.

III- UỶ BAN LIÊN CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC BẢO VỆ DI SẢN

 VĂN HÓA VÀ TỰ NHIÊN CỦA THẾ GIỚI

ĐIỀU 8:

1- Bên cạnh tổ chức Liên hiệp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa được thành lập một Uỷ ban liên chính phủ về việc bảo vệ di sản văn hóa và tự  nhiên có giá trị quốc tế đặc biệt, được gọi là “Uỷ ban di sản thế giới”. Uỷ ban này bao gồm 15 nước tham gia Công ước, được các nước tham gia Công ước họp thành Đại hội đồng trong các kỳ họp thường kỳ của Hội nghị toàn thể  Tổ chức  liên hợp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa lựa chọn. Số lượng các nước thành viên của Uỷ ban sẽ tăng lên 21 kể từ kỳ hợp thường kỳ của Hội nghị toàn thể sau khi Công ước này có hiệu lực đối với ít nhất 40 quốc gia.

2- Việc bầu các thành viên của Uỷ ban đó cần phải bảo đảm một thành phần đại biểu công bằng của các vùng khác nhau về các nền văn hóa khác nhau trên thế giới.

3- Tham gia vào các kỳ họp của Uỷ ban, với tư cách đại biểu tư vấn, còn có một đại biểu của trung tâm quốc tế về bảo tồn và phục chế các tài sản văn hóa (Trung tâm Roma), một đại biểu của Hội đồng quốc tế các di tích và thắng cảnh (ICOMOS) và một đại biểu của liên đoàn quốc tế về bảo tồn tự nhiên và tài nguyên (UICN), và nếu các nước tham gia Công ước họp toàn thể vào các kỳ họp thường kỳ của Hội nghị toàn thể của Tổ chức Liên hiệp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa, yêu cầu, thì còn có thể có các đại biểu của các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ khác cùng có những mục đích tương tự.

ĐIỀU 9:

1- Các quốc gia thành viên của Uỷ ban di sản thế giới thực hiện nhiệm kỳ của mình từ khi kết thúc kỳ họp thường kỳ của Hội nghị toàn thể tại đó họ đã được bầu cho đến khi kết thúc kỳ họp thường kỳ thứ ba sau đó.

2- Tuy nhiên nhiệm kỳ của 1/3 số thành viên được bầu tại cuộc bầu thứ nhất sẽ kết thúc vào cuối kỳ họp thường kỳ lần thứ nhất của Hội nghị toàn thể tiếp theo sau kỳ họp tại đó họ đã được bầu và nhiệm kỳ của 1/3 đại biểu thứ hai được bầu cùng lúc đó sẽ kết thúc vào cuối kỳ họp thường kỳ thứ hai của Hội nghị toàn thể tiếp theo sau kỳ họp tại đó họ đã được bầu. Tên của các thành viên sẽ do ông Chủ tịch Hội nghị toàn thể rút thăm sau lần bầu thứ nhất.

3- Các nước thành viên Uỷ ban lựa chọn những người có khả năng về lĩnh vực di sản văn hóa hoặc di sản tự nhiên để đại diện cho mình.

ĐIỀU 10:

1- Uỷ ban di sản thế giới thông qua nội quy của mình.

2- Bất kỳ lúc nào, Uỷ ban này cũng có thể mời các tổ chức công hoặc tư cũng như các tư nhân đến tham dự các cuộc họp của Uỷ ban để tham khảo ý kiến của họ về những vấn đề riêng.

3- Uỷ ban có thể thành lập các cơ quan tư vấn mà nó cho là cần thiết cho việc thực thi nhiệm vụ của nó.

ĐIỀU 11:

1- Mỗi một nước tham gia vào Công ước này đề đạt cho Uỷ ban di sản thế giới, trong phạm vi có thể, một bản kiểm kê các tài sản của di sản văn hóa và tự nhiên nằm trên lãnh thổ của mình và có thể ghi vào danh sách dự kiến ở  phần 2 của điều này. Bản kiểm kê đó, chưa thể xem là đầy đủ, phải bao gồm tư liệu về địa điểm của các tài sản nói tới và về tầm quan trọng của chúng.

2- Trên cơ sở những bản kiểm kê tài sản mà các quốc gia đề đạt, khi họ thi hành phần 1 ở trên, Uỷ ban sẽ soạn thảo, chỉnh lý và phổ biến dưới cái tên “danh sách di sản thế giới” một danh sách các di sản văn hóa và di sản tự nhiên như chúng được định nghĩa ở các điều 1 và 2 của Công ước này, được Uỷ ban xem như có một giá trị quốc tế đặc biệt áp dụng theo những tiêu chuẩn mà Uỷ ban đề ra. Một danh sách được chỉnh lý kịp thời sẽ được phổ biến ít nhất hai năm một lần.

3- Việc ghi một tài sản vào danh sách di sản thế giới chỉ có thể làm với sự đồng ý của Quốc gia hữu quan. Việc ghi một tài sản nằm trên lãnh thổ đang còn là mục tiêu tranh chấp chủ quyền hoặc còn là mục tiêu chế định pháp luật của nhiều quốc gia, không hề là việc công nhận quyền lợi của các bên trong sự tranh chấp.

4- Uỷ ban sẽ soạn thảo, chỉnh lý và phổ biến, mỗi khi hoàn cảnh bắt buộc, một bản danh sách mang tên “danh sách di sản thế giới có nguy cơ” trong đó ghi các tài sản nằm trong danh sách di sản thế giới hiện cần phải tôn tạo nhiều và đã có đơn xin viện trợ, theo đúng những điều khoản của Công ước này. Danh sách đó còn bao gồm một dự tính chi phí. Chỉ được ghi trong danh sách này những tài sản của di sản văn hóa và tự nhiên đang bị những nguy cơ lớn và rõ ràng đe doạ, ví dụ như nguy cơ tiêu vong do bị xuống cấp nhanh, do những đề án công trình lớn của nhà nước hoặc tư nhân, phát triển nhanh chóng về đô thị hóa và du lịch, phá hoại do những thay đổi sử dụng đất hoặc sở hữu đất, những hư hỏng do một nguyên nhân không rõ, bỏ hoang phế vì những nguyên nhân nào đó, tranh chấp có vũ khí vừa mới xảy ra hoặc đe doạ xảy ra, thiên tai và thảm hoạ, hoả hoạn lớn, động đất, sụt lở, núi lửa phun, thay đổi mực nước, lụt, sóng thần. Uỷ ban có thể, bất kỳ lúc nào, trong trường hợp cấp bách, ghi thêm vào danh sách di sản thế giới bị nguy cơ và phổ biến ngay phần ghi mới đó.

5- Uỷ ban xác định những tiêu chuẩn mà dựa vào đó một tài sản của di sản văn hóa và tự nhiên có thể được ghi vào danh sách này hay danh sách kia theo các phần 2 và 4 của điều này.

6- Trước khi từ chối một đơn xin ghi vào một trong hai danh sách ở các phần 2 và 4 của điều này, Uỷ ban tham khảo ý kiến của quốc gia tham gia Công ước, mà trên lãnh thổ của nước này hiện có các di sản văn hóa đó.

ĐIỀU 12:

Một tài sản văn hóa và tự nhiên nào không được ghi vào một trong hai danh sách nêu ở các phần 2 và 4 của điều 11 không hề có nghĩa là nó không có một giá trị quốc tế đặc biệt đối với các mục đích khác với mục đích của việc ghi tên vào các danh sách đó.

ĐIỀU 13:

1- Uỷ ban di sản thế giới nhận và nghiên cứu các đơn xin viện trợ quốc tế của các nước tham gia Công ước, về các tài sản văn hóa và tự nhiên nằm trên lãnh thổ của mình được ghi hoặc cần được ghi vào các danh sách ở các phần 2 và 4 của điều 11. Các đơn đó có thể là để xin bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo hoặc hồi sinh các tài sản đó.

2- Các đơn xin viện trợ quốc tế theo phần 1 của điều này cũng có thể là để xác định các tài sản của di sản văn hóa và tự nhiên nói rõ ở các điều 1 và 2, khi mà các cuộc nghiên cứu sơ bộ đã cho phép khẳng định rằng cần phải tiếp tục.

3- Uỷ ban sẽ quyết định trả lời các đơn đó và trong trường hợp chấp nhận thì sẽ xác định tính chất và tầm quan trọng của sự viện trợ của Uỷ ban và cho phép thay mặt Uỷ ban mà ký kết những điều khoản cần thiết với Chính phủ hữu quan.

4- Uỷ ban quy định một trật tự ưu tiên cho các việc can thiệp của mình. Uỷ ban làm như vậy là có tính đến tầm quan trọng của các tài sản phải bảo tồn cho di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới, đến sự cần thiết cung cấp viện trợ quốc tế cho những tài sản tiêu biểu nhất của tự nhiên hoặc cuả tài năng, lịch sử của các dân tộc trên thế giới và tính đến tính chất cấp bách của các công trình phải tiến hành, đến mức độ nguồn lực của các quốc gia mà trên lãnh thổ của họ có các tài sản đang bị đe doạ và nhất là tính đến mức độ mà các quốc gia đó có thể bảo đảm được việc bảo tồn các tài sản bằng các phương tiện của chính mình.

5- Uỷ ban sẽ lập, chỉnh lý và phổ biến một danh sách những tài sản đã được sự viện trợ quốc tế.

6- Uỷ ban quyết định việc sử dụng các nguồn lực của công quỹ được thành lập theo điều 15 của Công ước này. Uỷ ban sẽ tìm mọi cách tăng các nguồn lực đó và sẽ áp dụng nhiều biện pháp có ích nhằm mục đích đó.

7- Uỷ ban hợp tác với các tổ chức quốc tế và quốc gia, tổ chức chính phủ và phi chính phủ có những mục tiêu tương tự như các mục tiêu của Công ước này. Để thực hiện các chương trình và tiến hành các đề án của mình, Uỷ ban có thể kêu gọi các tổ chức đó, nhất là Trung tâm nghiên cứu quốc tế về bảo tồn tài sản văn hóa (Trung tâm Roma), Hội đồng quốc tế về di tích và thắng cảnh (ICOMOS) và Liên đoàn quốc tế bảo tồn tự nhiên và tài nguyên (UICN) cũng như các tổ chức công hoặc tư khác và các tư nhân.

8- Những quyết định của Uỷ ban được biểu quyết theo đa số hai phần ba số thành viên hiện tại và có quyền bỏ phiếu. Số đại biểu hợp lệ là đa số thành viên của Uỷ ban.

ĐIỀU 14:

1- Uỷ ban di sản thế giới được một Ban thư ký giúp việc do Tổng Giám đốc tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc đề cử.

2- Ông Tổng Giám đốc tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc chuẩn bị tài liệu cho uỷ ban, chương trình nghị sự của các cuộc họp của Uỷ ban và bảo đảm việc thực hiện các nghị quyết của Uỷ ban bằng cách tận dụng những dịch vụ của Trung tâm nghiên cứu quốc tế về bảo tồn và phục chế tài sản văn hóa (Trung tâm Roma) và liên đoàn quốc tế bảo tồn tự nhiên và tài nguyên (UICN) trong các lĩnh vực chuyên môn và khả năng của các tổ chức đó.

IV- QUỸ BẢO VỆ DI SẢN VĂN HÓA VÀ TỰ NHIÊN THẾ GIỚI.

1- Đã được thành lập một quỹ cho việc bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên thế giới có giá trị quốc tế đặc biệt gọi là “Quỹ di sản thế giới”.

2- Quỹ được tạo thành bằng quỹ ký nộp căn cứ vào điều  lệ tài chính của tổ chức Liên hiệp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa.

3- Các nguồn của quỹ bao gồm:

a) Những đóng góp bắt buộc và những đóng góp tự nguyện của các quốc gia tham gia Công ước này.

b) Các khoản góp quà tặng hoặc di sản có thể là của:

+ Các quốc gia khác.

+ Tổ chức LHQ về giáo dục, khoa học và văn hóa và các tổ chức khác của hệ thống Liên hiệp quốc, nhất là chương trình phát triển của Liên hiệp quốc và các tổ chức liên chính phủ khác.

+ Các tổ chức công hoặc tư hay các tư nhân.

c) Mọi món lãi về các khoản tài chính của Quỹ.

d) Kết quả các khoản quyên góp và thu của các cuộc biểu diễn giúp quỹ.

đ) Tất cả các nguồn lực khác do nội quy của Uỷ ban sẽ được soạn thảo, cho phép.

4- Những đóng góp vào quỹ và các hình thức viện trợ khác cung cấp cho Uỷ ban chỉ được dùng vào các mục đích do Uỷ ban xác định. Uỷ ban có thể nhận những đóng góp chỉ dành riêng cho một chương trình nào đó hoặc cho một đề án riêng, với điều kiện là việc tiến hành chương trình đó hoặc thực hiện đề án đó đã được Uỷ ban quyết định các đóng góp cho quỹ không được kèm theo một điều kiện chính trị nào.

ĐIỀU 16:

1- Không làm hại cho bất kỳ sự đóng góp tự nguyện bổ sung nào, các quốc gia thành viên của Công ước nguyện đóng góp đều hoà, hai năm một lần vào quỹ di sản thế giới những khoản đóng mà số tiền được tính theo một tỷ lệ chung áp dụng cho tất cả các nước và sẽ do đại hội đồng các nước tham gia Công ước quyết định, các hội đồng này được nhóm họp tại các kỳ họp của Hội nghị toàn thể tổ chức Liên hợp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa. Quyết định đó của đại hội đồng đòi hỏi đa số phiếu của các nước thành viên có mặt và có quyền bầu cử đã không tuyên bố như trong phần 2 của điều này. Tuy nhiên, sự đóng góp bắt buộc của các quốc gia tham gia công ước không thể quá 1% sự đóng góp của họ và quỹ bình thường của tổ chức Liên hợp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa.

2- Tuy nhiên, một quốc gia nêu ở điều 31 hoặc 32 của Công ước này có thể tuyên bố khi nộp các văn bản chuẩn y, chấp nhận hoặc gia nhập, rằng nước đó sẽ không bị ràng buộc bởi những điều khoản của  phần 1 của điều này.

3- Một quốc gia tham gia Công ước này nếu đã từng tuyên bố như trong phần 2 của điều này, bất kỳ lúc nào cũng có thể rút lui lời tuyên bố đó chỉ cần sự ghi nhận bằng văn bản (notipication) của ông Tổng giám đốc Tổ chức Liên hợp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa. Tuy nhiên, sự rút lui lời tuyên bố sẽ chỉ có tác dụng đối với sự đóng góp bắt buộc của nước đó từ thời điểm của Đại hội đồng tiếp theo của các nước thành viên.

4- Để cho Uỷ ban có thể dự kiến được các công tác của  mình một cách có hiệu quả, các nước tham gia Công ước này đã từng tuyên bố như theo phần 2 của điều này phải nộp các khoản đóng góp của họ một cách đều hoà, ít nhất 2 năm một lần và các khoản đóng góp đó cũng không thể thấp hơn những đóng góp mà họ phải nộp nếu họ bị ràng buộc bởi những điều khoản của phần 1 của điều này.

5- Bất kỳ nước nào tham gia Công ước mà chậm trễ trong việc nộp khoản đóng góp bắt buộc hay tự nguyện của mình trong năm hiện tại hoặc năm vừa qua, thì không có quyền ứng cử vào Uỷ ban di sản thế giới, điều khoản này không áp dụng khi bầu cử lần thứ nhất. Nhiệm kỳ của một nước tham gia công ước như vậy sẽ kết thúc vào lúc bắt đầu cuộc bầu cử vào dự kiến ở điều 8, phần 1 của Công ước này.

ĐIỀU 17:

Các quốc gia tham gia Công ước này sẽ xem xét hay tạo thuận lợi cho việc thành lập các hội quốc gia công hay tư có mục đích khuyến khích những sự hào phóng có lợi cho việc bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên được định nghĩa trong các điều 1 và 2 của Công ước này.

ĐIỀU 18:

V- CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ THỂ THỨC CỦA VIỆN TRỢ QUỐC TẾ.

ĐIỀU 19:

Bất kỳ nước nào tham gia Công ước này đều có quyền xin viện trợ quốc tế có lợi cho các tài sản của di sản văn hóa hoặc tự nhiên có giá trị quốc tế đặc biệt nằm trên lãnh thổ của mình. Nước đó phải kèm vào đơn xin của mình những yếu tố thông tin và những tài liệu nêu ra trong điều 21 mà nước đó hiện có và Uỷ ban cần có để ra quyết định.

ĐIỀU 20:

Với sự hạn chế của các điều khoản của phần 2 của điều 13, của đoạn C của điều 22 và của điều 23, sự viện trợ quốc tế dự kiến bởi Công ước này chỉ có thể cấp cho những tài sản của di sản văn hóa và tự nhiên mà Uỷ ban di sản thế giới đã hoặc đang quyết định ghi vào một trong hai bản danh sách thuộc phần 2 và 4 của điều 11.

ĐIỀU 21:

1- Uỷ ban di sản thế giới xác định thể thức xem xét các đơn xin viện trợ quốc tế mà nó phải cấp và nêu rõ những yếu tố cần phải ghi rõ trong tờ đơn, đơn nào cần phải miêu tả công việc dự định làm, các công trình cần thiết, ước tính chi phí, tính cấp thiết của chúng và những lý do tại sao các nguồn lực của quốc gia thỉnh cầu lại không trang trải được toàn bộ chi phí. Các đơn xin, mỗi lần đều phải dựa vào ý kiến của các chuyên viên.

2- Vì có những công trình phải tiến hành không chậm trễ, các đơn có cơ sở là thiên tai và thảm hoạ phải được Uỷ ban cấp tốc và ưu tiên xét trước, như vậy Uỷ ban cần phải có một quỹ dự trữ để sử dụng trong những biến cố như vậy.

3- Trước khi quyết định, Uỷ ban tiến hành nghiên cứu và tham khảo ý kiến nếu xét thấy cần thiết.

ĐIỀU 22:

Viện trợ mà Uỷ ban di sản thế giới cấp có thể thuộc các dạng như sau:

a) Các nghiên cứu về các vấn đề mỹ thuật, khoa học và kỹ thuật đặt ra bởi việc bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và hồi sinh di sản văn hóa và tự nhiên, như đã được định nghĩa tại các phần 2 và 4 của điều 11 của Công ước này.

b) Cung cấp chuyên viên, kỹ thuật viên và công nhân chuyên nghiệp để đảm bảo việc thực hiện tốt đề án được chuẩn y.

c) Đào tạo chuyên gia mọi trình độ trong lĩnh vực xác định, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và phục hồi di sản văn hóa và tự nhiên.

d) Cung cấp trang thiết bị mà quốc gia hữu quan không có hoặc không thể mua được.

e) Cho vay lãi suất thấp hoặc sau một thời gian dài mới phải hoàn trả.

g) Trong những trường hợp ngoại lệ và có lý do đặc biệt, cấp những viện trợ không hoàn lại.

ĐIỀU 23:

Uỷ ban di sản thế giới cũng có thể cấp viện trợ quốc tế để đào tạo chuyên gia mọi trình độ về lĩnh vực xác định, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và hồi sinh di sản văn hóa và tự nhiên cho các trung tâm quốc gia và vùng.

ĐIỀU 24:

Một viện trợ quốc tế rất quan trọng chỉ có thể được cấp sau khi đã nghiên cứu kỹ về mặt khoa học, kinh tế và kỹ thuật. Việc nghiên cứu đó cần phải vận dụng các kỹ thuật tiến bộ nhất của việc bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và hồi sinh di sản văn hóa và tự nhiên và phù hợp với mục tiêu của công ước này. Việc nghiên cứu cũng phải tìm ra được các cách sử dụng hợp lý các nguồn lực có sẵn trong quốc gia hữu quan.

ĐIỀU 25:

ĐIỀU 26:

Uỷ ban di sản thế giới và nước được hưởng viện trợ quốc tế sẽ xác định trong hiệp định mà họ ký kết những điều kiện theo đó một chương trình hay một đề án được cấp viện trợ quốc tế căn cứ vào Công ước này. Nước được nhận viện trợ quốc tế phải tiếp  tục bảo vệ, bảo tồn và tôn tạo các tài sản đã được bảo tồn đó, theo đúng những điều kiện nêu ra trong Hiệp định.

VI- CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC

ĐIỀU 27:

1- Các nước tham gia Công ước này cố gắng bằng mọi cách thích hợp, nhất là bằng các chương trình giáo dục và thông tin để làm cho nhân dân nước họ củng cố lòng tôn trọng và gắn bó đối với di sản văn hóa và tự nhiên như đã định nghĩa tại các điều 1 và 2 của Công ước.

2- Họ xin nguyện thông tin rộng rãi cho công chúng biết về những mối đe doạ đang đè nặng lên di sản đó và về những hoạt động được tiến hành để vận dụng Công ước này.

ĐIỀU 28:

Các quốc gia tham gia Công ước nhận được viện trợ quốc tế  theo Công ước này thì họ sẽ thi hành những biện pháp cần thiết để làm cho mọi người hiểu biết tầm quan trọng của những tài sản đã được bảo tồn và vai trò của viện trợ đó.

VII- BÁO CÁO.

ĐIỀU 29:

1- Các nước tham gia Công ước phải nêu trong các báo cáo trình bày trước Hội nghị toàn thể tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của LHQ vào thời điểm và dưới hình thức do tổ chức quy định về những điều luật quy định về các biện pháp mà các nước đó sẽ áp dụng để thi hành Công ước, cũng như về kinh nghiệm mà họ đã thu được trong lĩnh vực này.

2- Các báo cáo đó sẽ được gửi cho Uỷ ban di sản thế giới.

3- Uỷ ban sẽ trình bày một bản báo cáo tại mỗi kỳ họp thường kỳ của Hội nghị toàn thể tổ chức LHQ về giáo dục, khoa học và văn hóa.

VIII- CÁC ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG.

ĐIỀU 30:

Công ước này được lập bằng tiếng Anh, Ả Rập, Tây Ban Nha, Pháp và Nga, cả năm bản đều có giá trị tin cậy.

ĐIỀU 31:

1- Công ước này sẽ được đưa ra để được sự chuẩn y hoặc chấp nhận của các quốc gia thành viên của Tổ chức LHQ về giáo dục, khoa học và văn hóa, căn cứ vào các thể thức hiến pháp của từng nước.

2- Các văn kiện chuẩn y hoặc chấp nhận sẽ được nộp cho ông Tổng giám đốc Tổ chức LHQ về giáo dục, khoa học và văn hóa.

ĐIỀU 32:

1- Công ước này được mở ra cho sự tham gia của bất kỳ nước nào chưa phải là thành viên của Tổ chức LHQ về giáo dục, khoa học và văn hóa được Hội nghị toàn thể của Tổ chức mời tham gia.

2- Việc tham gia được tiến hành  bằng cách nộp một đơn xin tham gia cho ông Tổng giám đốc của Tổ chức giáo dục, khoa  học và văn hóa của Liên hiệp quốc.

ĐIỀU 33:

Công ước này sẽ có hiệu lực ba tháng sau ngày nộp văn kiện chuẩn y, chấp thuận hoặc tham gia thứ hai mươi chỉ riêng đối với những quốc gia đã nộp các văn kiện chuẩn y, chấp thuận hoặc tham gia vào thời điểm đó hoặc trước đó. Nó sẽ có hiệu lực với một nước khác ba tháng sau khi nước đó nộp văn kiện chuẩn y, chấp thuận hoặc tham gia của mình.

ĐIỀU 34:

a) Về các điều khoản của Công ước này mà việc thi hành thuộc về công tác lập pháp của quyền lập pháp liên bang hay trung ương, thì các nghĩa vụ của chính phủ liên bang hay trung ương cũng sẽ giống như nghĩa vụ của các quốc gia thành viên mà không phải là những quốc gia nằm trong một liên bang.

b) Về các điều khoản của Công ước này mà việc thi hành thuộc về công tác lập pháp của mỗi bang, nước, tỉnh hoặc tổng mà không phụ thuộc vào hệ thống hiến pháp của liên bang có nhiệm vụ đề ra các biện pháp lập pháp, thì chính phủ liên bang sẽ chuyển các điều khoản này, với ý kiến tán thành, cho các cơ quan có thẩm quyền của các bang, nước, tỉnh hoặc xã.

ĐIỀU 35:

1- Mỗi một quốc gia tham gia Công ước này sẽ có quyền từ bỏ Công ước.

2- Việc từ bỏ sẽ được báo bằng một văn bản giấy trắng mực đen nộp cho ông Tổng giám đốc Tổ chức LHQ về giáo ducj, khoa học và văn hóa.

3- Việc từ bỏ sẽ có hiệu lực 12 tháng sau khi nhận được văn bản từ bỏ. Nó không hề làm thay đổi gì những nghĩa vụ tài chính mà quốc gia xin từ bỏ phải đảm nhiệm cho tơí thời điểm mà sự rút lui có giá trị.

ĐIỀU 36:

Tổng giám đốc Tổ chức LHQ về giáo dục, khoa học và văn hóa sẽ thông báo cho các nước thành viên của Tổ chức, các nước không thành viên nêu trong điều 32 cũng như cho Liên hiệp quốc về việc nộp tất cả các văn kiện chuẩn y, chấp thuận hoặc tham gia nêu trong các điều 31 và 32 cũng như những việc từ bỏ dự kiến trong điều 35.

ĐIỀU 37:

1- Công ước này có thể được hội nghị toàn thể Tổ chức LHQ về giáo dục, khoa học và văn hóa chỉnh lý lại. Nhưng việc chỉnh lý chỉ ràng buộc các quốc gia sẽ trở thành thành viên của Công ước chỉnh lý.

2- Trong trường hợp Hội nghị toàn thể thông qua một Công ước mới có chỉnh lý toàn bộ hay từng phần công ước hiện tại mà công ước mới không quy định khác thì công ước hiện tại thôi không đưa ra để chuẩn y, chấp thuận hay tham gia kể từ thời điểm có hiệu lực của công ước mới bổ sung chỉnh lý.

ĐIỀU 38:

Căn cứ vào điều 102 của Hiến chương Liên hiệp quốc, Công ước này sẽ được vào sổ tại Ban thư ký LHQ theo yêu cầu của ông Tổng giám đốc Tổ chức LHQ về giáo dục, khoa học và văn hóa. Làm tại Paris ngày hai mươi ba tháng mười một năm 1972 thành hai bản chính thức có chữ ký của ông chủ tịch Hội nghị toàn thể họp kỳ thứ mười bảy và chữ ký của ông Tổng giám đốc Tổ chức Liên hiệp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa, các bản này sẽ được nộp vào lưu trữ của Tổ chức Liên hiệp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa và các bản sao y bản chính sẽ được gửi cho tất cả các quốc gia nêu trong điêù 31 và 32 cũng như cho Liên hiệp quốc.

Để nhận thực việc này, ngày hai mươi ba tháng mười một năm 1972, đã có chữ ký của ông Chủ tịch Hội nghị toàn thể./.                                                                  TỔNG GIÁM ĐỐC UNESCO                                                                                 (Đã ký) Tải văn bản về

Luật Di Sản Văn Hóa Là Gì ? Tìm Hiểu Quy Định Về Luật Di Sản Văn Hóa

Luật di sản văn hóa là đạo luật quy định hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Với nhận thức di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân, để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới và để tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, ngày 29.6.2001, Quốc hội Khóa X đã thông qua Luật di sản văn hoá (Luật số 28/2001/QH10). Đây là đạo luật về di sản văn hoá đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2002. Luât di sản văn hoá gồm 74 điều, được chia làm 7 EfiƯỡHg: Chương I – Những quy định chung (Điều 1 đến Điều 13); Chương lÏ – Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hoá (Điều 14 đến

Điều 16); Chương III – Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá phi vật thể (Điều 17 đến Điều 27); Chương IV – Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá vật thể (Điều 28 đến Điều 53); Chương V – Quản lí nhà nước về di sản văn hoá (Điều 54 đến Điều 68); Chương VỊ – Khen thưởng và xử lí vi phạm (Điều 69 đến Điều 72);

Chương VII – Điều khoản thi hành (Điều 73 đến Điều 74).

Di sản văn hoá trong Luật này được hiểu bao gồm cả di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể. Đó là những sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tỉnh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao

gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Luật di sản văn hoá quy định rõ trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy di sản văn hoá không chỉ thuộc về ngành văn hoá mà là trách nhiệm chung của mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức, cá nhân và của toàn xã hội. Một quy định rất quan trọng của Luật là việc thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với một số loại di sản văn hoá bên cạnh các hình thức sở hữu truyền thống như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng đối với di sản văn hoá, Quy định này tạo điều kiện để huy động toàn dân tham gia vào việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy các dị sản văn hoá mà cha ông đã dày công vun đắp và truyền lại. Theo quy định của Luật thì mọi tổ chức, cá nhân đều có các quyền và nghĩa vụ như sở hữu hợp pháp di sản văn hóa; tham quan, nghiên cứu dị sản văn hóa; tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị dị sản văn hóa; thông báo kịp thời địa điểm phát hiện di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do mình tìm được cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất; ngăn chặn hoặc để nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyển ngăn chặn, xử lí kịp thời những hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di sản văn hóa.

Luật cũng quy định rõ trình tự, thủ tục công nhận di sản văn hoá, các biện pháp bảo vệ di sản văn hoá, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hoá – Thông tin, Hội đồng di sản văn hoá quốc gia, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan khác trong việc công nhận, bảo vệ, giữ gìn, quản lí các di sản văn hoá (cả di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể).

Luật nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tới di sản văn hoá như chiếm đoạt, làm sai lệch di sản văn hóa; hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa; đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép; lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; mua bán, trao đổi và vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.

Tính Chất Vật Lý Và Hóa Học Của Khí Thiên Nhiên. Nồng Độ Nổ Của Khí Thiên Nhiên Giới Hạn Nổ Của Khí Là Gì

Giới hạn nổ dưới và trên (LEL và ERL) là gì?

Để hình thành một bầu không khí dễ nổ, chất cháy phải có ở một nồng độ nhất định.

Về cơ bản, oxy cần thiết để đốt cháy tất cả các chất khí và hơi. Khi dư oxy và thiếu oxy, hỗn hợp sẽ không bốc cháy. Ngoại lệ duy nhất là axetylen, không cần oxy để đốt cháy. Nồng độ thấp và cao được gọi là “giới hạn nổ”.

Giới hạn nổ dưới (LEL): giới hạn nồng độ của hỗn hợp khí-không khí mà dưới đó hỗn hợp khí-không khí không thể bắt cháy.

Giới hạn nổ trên (UEL): Giới hạn nồng độ của hỗn hợp khí-không khí, trên đó hỗn hợp khí-không khí không thể bắt cháy.

Giới hạn nổ đối với môi trường dễ nổ:

Nếu nồng độ của một chất trong không khí quá thấp (hỗn hợp nạc) hoặc quá cao (hỗn hợp bão hòa) thì sẽ không xảy ra cháy nổ, nhưng rất có thể xảy ra phản ứng cháy chậm, hoặc hoàn toàn không xảy ra. Phản ứng bắt lửa sau một vụ nổ sẽ xảy ra giữa giới hạn nổ dưới (LEL) và trên (UEL). Giới hạn nổ phụ thuộc vào áp suất của bầu khí quyển xung quanh và nồng độ oxy trong không khí.

Ví dụ về giới hạn nổ dưới và trên đối với các loại khí và hơi khác nhau: Bụi cũng dễ nổ ở một số nồng độ nhất định:

Giới hạn nổ dưới đối với bụi: khoảng 20 đến 60 g / m3 không khí.

Giới hạn nổ trên đối với bụi: khoảng 2 đến 6 kg / m3 không khí.

Các thông số này có thể được thay đổi đối với các loại bụi khác nhau. Các loại bụi đặc biệt dễ cháy có thể tạo thành hỗn hợp dễ cháy với nồng độ nhỏ hơn 15 g / m3.

Nếu nồng độ khí trong không khí trong nhà nhỏ hơn 5% hoặc hơn 15% thì sẽ không xảy ra cháy nổ. Sẽ có lửa hoặc cháy. Khi nhỏ hơn 5% sẽ thiếu gas và ít nhiệt hỗ trợ quá trình cháy. Trong trường hợp thứ hai (nồng độ hơn 15%) sẽ có ít không khí, tức là chất oxy hóa, và một lượng nhỏ nhiệt để duy trì quá trình cháy.

Ngày 3 tháng 6 năm 2011

Một vụ nổ là một sự biến đổi hóa học tức thời, kèm theo sự giải phóng năng lượng và hình thành các khí nén.

Sự nổ của hỗn hợp khí – không khí tạo ra một lượng nhiệt lớn và một lượng lớn chất khí.

Các chất khí, do nhiệt tỏa ra, được nung nóng đến nhiệt độ cao, thể tích tăng mạnh và nở ra, ép với lực lớn lên các kết cấu bao quanh của các tòa nhà hoặc các bức tường của thiết bị trong đó xảy ra vụ nổ.

Áp suất tại thời điểm nổ hỗn hợp khí đạt 10 kgf / cm 2, nhiệt độ dao động trong khoảng 1500-2000 ° C, tốc độ lan truyền của sóng nổ đạt vài trăm mét / giây. Các vụ nổ có xu hướng gây ra tàn phá lớn và hỏa hoạn.

Tính chất dễ cháy của các chất dễ cháy được đặc trưng bởi một số chỉ tiêu: điểm chớp cháy, đánh lửa, tự bốc cháy, v.v.

Các đặc tính khác của chất cháy bao gồm áp suất nổ, hàm lượng ôxy nổ tối thiểu, dưới đó quá trình bắt lửa và đốt cháy hỗn hợp không thể xảy ra ở bất kỳ nồng độ nào của chất cháy trong hỗn hợp, bản chất của tương tác với chất chữa cháy, v.v.

“Bảo hộ lao động và an toàn trong ngành khí”, A.N. Yanovich, chúng tôi Astvatsaturov, A.A. Busurin

Chỉ số Methane Propane n-Butane Xăng hàng không Dầu máy kéo Dầu công nghiệp Điểm chớp cháy của hơi, ° С -188 – -77 -34 27 200 Nhiệt độ tự bốc cháy, ° С 537 600-588 490-569 300 250 380 Giới hạn nồng độ khi bắt lửa, % theo thể tích 6, 3-15 2,2-9,5 1,9-8,5 0,8-5,2 1,4-7,5 1-4 Giới hạn nhiệt độ bắt lửa của hơi trên chất lỏng, ° С -188 / + 180 – – (77/52) – (34 / 4) 27-69 146-191 Tốc độ …

Nồng độ nổ của khí đốt tự nhiên và hóa lỏng được hình thành trong quá trình ngừng hoạt động của đường ống, bể chứa và thiết bị, khi khí chưa được loại bỏ hoàn toàn và khi nó được trộn với không khí đi vào, một hỗn hợp nổ được tạo ra. Về vấn đề này, trước khi bắt đầu công việc, các đường ống dẫn khí và bể chứa phải được rửa sạch bằng nước, hấp và làm sạch bằng khí trơ. Để tránh khí gas bị rò rỉ ra các bồn chứa hoặc đường ống khác, …

Phân tích các vụ cháy xảy ra tại các cụm cơ sở vận hành khí đốt hóa lỏng cho thấy các dạng tai nạn chính như sau: rò rỉ khí, đứt đường ống và ống mềm, đứt các mối nối mặt bích và đứt phích cắm, vỡ niêm phong hộp nhồi khi dừng. van, van bị lỏng, phá hủy bình chứa khí đốt hóa lỏng do bị tràn; các sự cố khác nhau trên đường ống và bể chứa (phá hủy …

Khi khí bay hơi, một hỗn hợp khí nổ được tạo thành. Trong trường hợp xảy ra tai nạn trong phòng, nồng độ khí nổ trước hết phát sinh ở gần nơi rò rỉ khí, sau đó lan ra khắp phòng. Khi khí bốc hơi ở những khu vực thoáng gần chỗ rò rỉ, một vùng ô nhiễm khí sẽ hình thành, lan ra khắp nhà kho. Kích thước của vùng ô nhiễm khí trong quá trình xả khí khẩn cấp phụ thuộc vào nhiều …

Khó khăn chính trong việc dập tắt đám cháy khí là chống ô nhiễm khí và sự bùng cháy trở lại sau khi dập tắt đám cháy. Không có chất chữa cháy nào trong số các chất chữa cháy đã biết loại trừ nguy cơ nhiễm khí và bắt lửa lại. Nhiệm vụ chính trong công tác chữa cháy khí gas là khoanh vùng đám cháy. Nó nên được thực hiện bằng cách giới hạn thời gian hết hạn và khối lượng khí đi ra ngoài, cũng như bằng cách bảo vệ nhiệt …

Được biết, có một giá trị giới hạn nhất định đối với nồng độ của các chất dễ cháy trong bầu khí quyển xung quanh, được gọi là giới hạn nổ dưới (LEL). Nếu nồng độ của các thành phần dễ cháy trong không khí thấp hơn LEL, thì không thể bắt lửa: hỗn hợp không dễ cháy. Tuy nhiên, các giá trị LEL đưa ra trong tài liệu tham khảo thường được xác định đối với nhiệt độ bình thường là 20 ° C. Khi thiết kế hệ thống điều khiển khí hoạt động trong môi trường nhiệt độ cao, liệu có thể tiến hành từ giả định rằng metan, propan và các khí dễ cháy khác giữ nguyên các giá trị LEL mà chúng ta biết, ở nhiệt độ, ví dụ, 150 ° С không?

Không, bạn không thể. Thật vậy, với sự gia tăng nhiệt độ, các giá trị LEL của khí cháy giảm.

Chúng ta hãy tìm hiểu nồng độ LEL thực sự có nghĩa là gì: nó là nồng độ tối thiểu của các chất dễ cháy trong không khí ở nhiệt độ môi trường, đủ để bắt đầu quá trình cháy tự duy trì. Tất cả năng lượng cần thiết để duy trì sự cháy được giải phóng trong quá trình phản ứng oxy hóa (nhiệt của quá trình cháy). Ở nồng độ dưới LEL, không có đủ năng lượng để duy trì quá trình đốt cháy. Chúng ta có thể khẳng định rằng nhiệt của quá trình cháy là cần thiết để đốt nóng hỗn hợp khí từ nhiệt độ môi trường đến nhiệt độ ngọn lửa. Tuy nhiên, ở nhiệt độ môi trường cao, cần ít năng lượng hơn để đốt nóng hỗn hợp khí đến nhiệt độ ngọn lửa, hay nói cách khác, bạn cần ít chất dễ cháy hơn để quá trình cháy tự duy trì. Nghĩa là, khi nhiệt độ tăng, LEL giảm.

Đối với hầu hết các hydrocacbon, người ta thấy rằng LEL giảm với tốc độ 0,14% LEL mỗi độ. Giá trị tốc độ này đã bao gồm biên độ an toàn (bằng 2) để có được sự phụ thuộc vào nhiệt độ có giá trị đối với tất cả các khí và hơi dễ cháy.

Do đó, ở nhiệt độ môi trường t, LEL có thể được tính bằng công thức gần đúng sau:

LEL (t) u003d LEL (20 ° C) * (1 – 0,0014 * (t – 20))

Đương nhiên, công thức này chỉ có thể được sử dụng cho nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ bắt lửa của một loại khí nhất định.

LEL của mêtan ở nhiệt độ bình thường (20 ° C) là 4,4% thể tích. Ở nhiệt độ 150 ° C, LEL của mêtan sẽ là:

LEL (150 ° C) u003d 4,4 * (1 – 0,0014 * (150 – 20)) u003d 4,4 * (1 – 0,0014 * 130) u003d 4,4 * (1-0,182) u003d 3,6% thể tích d.

Sự phụ thuộc của giới hạn nổ dưới của khí cháy vào nhiệt độ

Sự phụ thuộc của giới hạn nổ dưới của khí cháy vào nhiệt độ Người ta biết rằng có một giá trị giới hạn nhất định của nồng độ các chất dễ cháy trong khí quyển xung quanh,

Bảo hộ lao động và an toàn

Bảo hộ lao động và an toàn tính mạng

Bảo hộ lao động trong điều kiện gia tăng nguy hiểm Cơ sở khí. Hoạt động của thiết bị khí

Vận hành thiết bị khí

Trong công nghiệp, cùng với việc sử dụng khí nhân tạo, khí thiên nhiên ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Ở dạng tinh khiết, nó không màu và không mùi, tuy nhiên, sau khi tạo mùi, khí có mùi trứng thối, điều này quyết định sự hiện diện của nó trong không khí.

Khí này, giống như nhiều chất tương tự của nó, bao gồm các thành phần sau: mêtan – 90%, nitơ – 5%, oxy – 0,2%, hydrocacbon nặng – 4,5%, carbon dioxide – 0,3%.

Nếu hỗn hợp không khí và khí được tạo thành với một lượng ít nhất là tối thiểu nhất định thì khí có thể nổ. Mức tối thiểu này được gọi là giới hạn nổ dưới và bằng 5% hàm lượng khí trong không khí.

Khi hàm lượng khí trong hỗn hợp này vượt quá lượng lớn nhất, hỗn hợp trở nên không nổ. Tối đa này được gọi. giới hạn trên của thuốc nổ và bằng 15% hàm lượng khí trong không khí. Hỗn hợp có hàm lượng khí trong khoảng quy định từ 5 đến 15%, khi có nhiều nguồn bắt lửa khác nhau (lửa hở, tia lửa, vật nóng sáng hoặc khi hỗn hợp này được nung nóng đến nhiệt độ tự cháy), dẫn đến nổ.

Nhiệt độ bốc cháy của khí tự nhiên là 700 0 C. Nhiệt độ này giảm đáng kể do hoạt động xúc tác của một số vật liệu và bề mặt được nung nóng (hơi nước, hydro, cặn cacbon muội than, bề mặt chamotte nóng, v.v.). Vì vậy, để ngăn ngừa cháy nổ, trước hết cần phải ngăn chặn sự hình thành hỗn hợp không khí với chất khí, nghĩa là phải đảm bảo kín tất cả các thiết bị khí và duy trì áp suất dương trong chúng. Thứ hai, không để gas tiếp xúc với bất kỳ nguồn phát lửa nào.

Kết quả của quá trình đốt cháy không hoàn toàn khí tự nhiên, carbon monoxide CO được hình thành, có tác dụng độc hại đối với cơ thể con người. Hàm lượng cho phép của cacbon monoxit trong không khí của các cơ sở công nghiệp không được vượt quá 0,03. mg / l.

Mỗi nhân viên của các cơ sở khí của doanh nghiệp phải được đào tạo và cấp chứng chỉ đặc biệt, biết các hướng dẫn vận hành cho nơi làm việc của mình tại doanh nghiệp. Đối với tất cả các nơi nguy hiểm về khí và công việc nguy hiểm về khí phải lập danh sách, thống nhất với Trưởng cơ sở khí của nhà máy, bộ phận an toàn, được kỹ sư trưởng phê duyệt và niêm yết tại nơi làm việc.

Trong ngành công nghiệp khí, sự thành công, không xảy ra sự cố và an toàn lao động được đảm bảo bởi sự hiểu biết sâu sắc về nghiệp vụ, tính tổ chức công việc và kỷ luật cao. Không có công việc nào không được cung cấp bởi mô tả công việc, nếu không có sự chỉ đạo hoặc cho phép của người đứng đầu và không thể thực hiện các khóa đào tạo cần thiết. Trong mọi trường hợp, nhân viên gas không được rời khỏi nơi làm việc mà không được quản đốc biết và cho phép. Họ có nghĩa vụ phải nhanh chóng, báo cáo ngay cho chủ nhân mọi ý kiến u200bu200bđóng góp, dù là trục trặc nhỏ nhất.

Trong phòng lò hơi và các đơn vị sử dụng khí đốt khác, cần dán những thông tin sau:

Một hướng dẫn xác định trách nhiệm và hành động của nhân viên cả trong hoạt động bình thường và trong các tình huống khẩn cấp.

Danh sách các nhà điều hành với số và ngày hết hạn của chứng chỉ quyền làm việc và lịch trình đi làm.

Một bản sao của đơn đặt hàng hoặc một bản trích xuất từ u200bu200bnó về việc bổ nhiệm một người chịu trách nhiệm về ngành công nghiệp khí đốt, văn phòng và số điện thoại nhà của người đó.

Tại đơn vị trong phòng dịch vụ có các nhật ký: canh gác, sửa chữa phòng ngừa và kiểm tra, hồ sơ kết quả kiểm soát.

Trước mỗi lần khởi động nồi hơi, lò nung và các thiết bị khác, lò của chúng phải được thông gió. Thời gian của hoạt động này được xác định theo hướng dẫn địa phương và được thông qua tùy thuộc vào thể tích của lò và chiều dài của các ống khói.

Kết thúc quá trình tẩy được xác định bằng cách phân tích khí thoát ra khỏi đường khí tẩy, trong đó hàm lượng oxy không được vượt quá 1%.

Trước khi đánh lửa các đầu đốt, hãy kiểm tra:

Đủ áp suất khí trong đường ống dẫn khí phía trước lò hơi hoặc thiết bị khác.

Áp suất không khí khi được cung cấp từ các thiết bị thổi.

Sự hiện diện của chân không trong hộp cứu hỏa hoặc heo (lên đến cổng).

Điều chỉnh lực kéo nếu cần.

Thiết bị cắt nguồn cung cấp khí đốt phía trước đầu đốt phải được mở trơn tru và chỉ sau khi bộ đánh lửa hoặc đèn khò đã được đưa đến thiết bị đó. Trong trường hợp này, người thực hiện công việc này phải ở bên cạnh thiết bị đốt gas tại thời điểm gas đánh lửa. Khi khí đốt cháy trên đầu đốt, lượng không khí nhỏ nhất phải được cấp vào lò, điều này sẽ đảm bảo khí đốt cháy hoàn toàn. Các đầu đốt khác được thắp sáng theo cách tương tự. Nếu trong quá trình đánh lửa, điều chỉnh hoặc vận hành, ngọn lửa tắt hoặc xảy ra hiện tượng tách, cháy bùng phát thì cần phải ngắt gas ngay, thông gió cho lò và đốt lại theo trình tự nêu trên.

Vi phạm yêu cầu này là một trong những nguyên nhân chính gây ra tai nạn.

Không được phép vận hành các thiết bị chạy bằng nhiên liệu khí trong trường hợp có trục trặc, thiếu lực kéo, và cũng không được để các thiết bị đang bật để vận hành mà không cần giám sát.

Việc tắt khẩn cấp các thiết bị sử dụng nhiên liệu khí được thực hiện ngay lập tức trong trường hợp nguồn cung cấp khí bị gián đoạn; khi quạt thổi dừng lại; trong trường hợp rò rỉ khí gas nguy hiểm vào phòng; khi có nguy cơ hỏa hoạn hoặc sự cố xảy ra.

Trong quá trình chuẩn bị sửa chữa, người quản lý chịu trách nhiệm thực hiện của họ vạch ra một kế hoạch có tính đến việc thực hiện tất cả các biện pháp để đảm bảo sự an toàn của con người. Kế hoạch cần có: sơ đồ đối tượng sửa chữa với vị trí các nơi sửa chữa và chỉ dẫn khối lượng của chúng; danh sách các cơ cấu, thiết bị và dụng cụ được phép sử dụng cho công việc sửa chữa; danh sách họ và bố trí công nhân được nhận vào sửa chữa; danh sách đầy đủ các biện pháp để đảm bảo thực hiện công việc an toàn, đã được thống nhất với trạm cứu hộ khí đốt và lưu ý về việc thực hiện các biện pháp đó. Kế hoạch sửa chữa trong từng trường hợp riêng phải có chữ ký của trưởng cửa hàng, người phụ trách sửa chữa và thống nhất với trưởng cơ sở gas.

Ngoài ra, người quản lý sửa chữa hướng dẫn nhân sự và giám sát việc thực hiện Nội quy trong quá trình chuẩn bị và thực hiện công việc sửa chữa.

Bảo hộ lao động và an toàn

Cổng thông tin – An toàn vệ sinh lao động. Mục – Bảo hộ lao động trong điều kiện gia tăng nguy hiểm. Cơ sở khí. Vận hành thiết bị khí

HƯỚNG DẪN SINH THÁI

Thông tin

Giới hạn đánh lửa

Các giới hạn về khả năng cháy thay đổi đáng kể với việc bổ sung một số chất có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của chuỗi phản ứng trước ngọn lửa. Các chất đã biết vừa mở rộng vừa thu hẹp giới hạn bắt lửa. [. ]

Các giới hạn đánh lửa bị ảnh hưởng bởi thành phần hóa học của nhiên liệu và chất oxy hóa, nhiệt độ, áp suất và độ hỗn loạn của môi chất, nồng độ và loại phụ gia hoặc chất pha loãng trơ, và công suất của nguồn đánh lửa trong quá trình đánh lửa cưỡng bức. Ảnh hưởng của loại nhiên liệu đến giới hạn cháy được nêu trong bảng 3.4. [. ]

Giới hạn cao nhất là nồng độ hơi nhiên liệu trong hỗn hợp tăng lên, trong đó quá trình đánh lửa của hỗn hợp dễ cháy sẽ không xảy ra. [. ]

Nhiệt độ bốc cháy, điểm chớp cháy cũng như giới hạn nhiệt độ bắt lửa được phân loại là các chỉ số nguy hiểm về hỏa hoạn. Bàn 22.1 trình bày các chỉ số này đối với một số sản phẩm kỹ thuật. [. ]

Vùng cháy càng rộng và giới hạn nồng độ chất cháy càng thấp thì khói xông hơi càng nguy hiểm trong quá trình bảo quản và sử dụng. . [. ]

Nhiệt độ bốc cháy của nó là 290 ° C. Giới hạn dưới và trên của nồng độ nổ của hydro sunfua trong không khí là 4 và 45,5 vol. %. Hydro sunfua nặng hơn không khí, khối lượng riêng tương đối của nó là 1,17. Với các biểu hiện của hydrogen sulfide, các vụ nổ và hỏa hoạn có thể xảy ra, có thể lan rộng trên một vùng lãnh thổ rộng lớn và gây ra nhiều nạn nhân và thiệt hại lớn. Sự hiện diện của hydrogen sulfide dẫn đến sự phá hủy nguy hiểm đối với các dụng cụ khoan và thiết bị khoan và gây ra hiện tượng nứt ăn mòn mạnh, cũng như ăn mòn đá xi măng. Hydro sunfua rất mạnh đối với bùn khoan đất sét trong nước và khí. [. ]

Thời gian trễ đánh lửa của nhiên liệu diesel được ước tính bằng số cetan. Số cetan của nhiên liệu điêzen là phần trăm (theo thể tích) hàm lượng cetan (n.hexadecan) của hỗn hợp với (α-metylnaphtalen), tương đương với nhiên liệu thử nghiệm về độ cứng của động cơ. Các giới hạn của độ trễ đánh lửa Lấy làm chuẩn (tương ứng là 100 và 0 đvC).

Hiđro và axetylen có phạm vi dễ cháy rộng nhất. Hỗn hợp hydrocacbon của các chế phẩm khác nhau có giới hạn bắt lửa gần nhau. [. ]

Các thử nghiệm đối với động cơ đánh lửa bằng chùm tia laze hội tụ tinh vi tạo ra hạt nhân plasma cho thấy rằng trong trường hợp này, sự tích tụ áp suất trong buồng đốt diễn ra mạnh hơn, giới hạn đánh lửa mở rộng, công suất và hiệu suất kinh tế của động cơ được cải thiện. [. ]

Giới hạn dễ cháy có nồng độ thấp hơn là nồng độ tối thiểu của hơi xông hơi trong không khí mà tại đó hơi bốc cháy bằng ngọn lửa trần hoặc tia lửa điện. [. ]

Việc mở rộng các giới hạn nồng độ của chất đánh lửa tạo ra các điều kiện tiên quyết để đảm bảo động cơ hoạt động ổn định trên các hỗn hợp nạc. [. ]

Tuy nhiên, không nên bỏ qua rằng các giới hạn đánh lửa được xác định trong điều kiện tĩnh, nghĩa là trong môi trường tĩnh. Kết quả là chúng1 không đặc trưng cho tính ổn định của quá trình cháy trong dòng chảy và không phản ánh khả năng ổn định của đầu đốt. Nói cách khác, một và cùng một loại khí có dằn cao có thể được đốt cháy thành công trong một thiết bị đốt khí ổn định tốt quá trình cháy, trong khi trong một thiết bị đốt khác, nỗ lực đó có thể không thành công. . [. ]

Với sự gia tăng độ hỗn loạn của hỗn hợp dễ cháy, các giới hạn bắt lửa mở rộng nếu các đặc điểm của sự hỗn loạn là do đó chúng tăng cường các quá trình truyền nhiệt và các sản phẩm hoạt động trong vùng phản ứng. Các giới hạn dễ cháy có thể bị thu hẹp nếu sự hỗn loạn của hỗn hợp, do quá trình loại bỏ nhiệt và các sản phẩm hoạt động ra khỏi vùng phản ứng, làm nguội và giảm tốc độ chuyển hóa hóa học. [. ]

Khi khối lượng phân tử của hydrocacbon giảm, giới hạn cháy mở rộng. [. ]

Ngoài các giới hạn nồng độ, còn có các giới hạn nhiệt độ (thấp hơn và cao hơn) của sự bốc cháy, được hiểu là nhiệt độ của chất hoặc vật liệu mà tại đó hơi cháy bão hòa của nó tạo thành nồng độ trong môi trường oxy hóa bằng giới hạn nồng độ dưới và trên của sự truyền ngọn lửa, tương ứng. ]

Sự cố tràn dầu do phá hủy (các) bể chứa mà không đốt cháy dầu. Đại diện cho ít nguy hiểm nhất đối với môi trường và con người nếu dầu không lan ra ngoài đường đắp. Nếu kè bị vỡ do tác động thủy động lực học của dầu thoát ra, ô nhiễm các thành phần chính của môi trường có thể xảy ra trên quy mô đáng kể. [. ]

Điều kiện thứ hai là sự tồn tại của các giới hạn nồng độ, bên ngoài không có khả năng bắt lửa và lan truyền vùng cháy ở một áp suất nhất định. [. ]

Phân biệt giữa giới hạn nồng độ trên (cao hơn) và thấp hơn (thấp hơn) của sự bắt lửa. [. ]

Tính chất hóa học. Điểm chớp cháy (cốc hở) 0 °; giới hạn khả năng cháy trong không khí-3-17 vol. %. [. ]

Trong quá trình đốt cháy trong động cơ đánh lửa bằng tia lửa, giới hạn nồng độ để hỗn hợp bắt lửa không trùng với giới hạn quy định về sự bắt đầu hình thành muội than. Vì vậy, hàm lượng muội than trong khí thải của động cơ đánh lửa bằng tia lửa điện là không đáng kể. [. ]

Sự đa dạng của các chất và vật liệu đã xác định trước các giới hạn nồng độ khác nhau của sự lan truyền ngọn lửa. Có những khái niệm như giới hạn nồng độ dưới và trên của sự lan truyền ngọn lửa (sự bắt lửa) – đây tương ứng là hàm lượng nhiên liệu tối thiểu và tối đa trong hỗn hợp “chất cháy – môi trường oxy hóa”, tại đó ngọn lửa truyền qua hỗn hợp ở bất kỳ khoảng cách nào từ nguồn đánh lửa là có thể. Khoảng nồng độ giữa giới hạn dưới và giới hạn trên được gọi là sự lan truyền ngọn lửa (sự bắt lửa). [. ]

Sự gia tăng nhiệt độ và áp suất ban đầu của hỗn hợp dễ cháy dẫn đến sự mở rộng các giới hạn bắt lửa, điều này được giải thích là do sự gia tăng tốc độ các phản ứng của quá trình biến đổi trước ngọn lửa. [. ]

Với sự gia tăng nhiệt dung, độ dẫn nhiệt và nồng độ của chất pha loãng trơ, giới hạn bắt lửa mở rộng. [. ]

Tính dễ cháy của hơi (hoặc khí) được đặc trưng bởi các giới hạn nồng độ dưới và trên của chất bắt lửa và vùng nồng độ của chất bốc cháy. [. ]

Mức nhiệt độ đo được dọc theo trục và ngoại vi của vòng đệm (Hình 6-15, b) nhỏ hơn nhiệt độ bốc cháy của hỗn hợp khí tự nhiên với không khí, bằng 630-680 ° C và chỉ ở lối ra từ lớp vỏ bọc, trong vết cắt hình nón của nó, nhiệt độ đạt 680-700 ° С, tức là vùng đánh lửa nằm ở đây. Một sự gia tăng đáng kể về nhiệt độ được quan sát thấy bên ngoài lớp phủ ở khoảng cách (1,0-g-1,6) Vgun. [. ]

Nguy cơ cháy nổ trong quá trình làm việc bằng khí tăng lên đáng kể khi tỷ lệ tiêu thụ hơi trên 1 m3 nằm trong vùng bắt lửa nồng độ. [. ]

Trong bộ lễ phục. 2.21 thể hiện các giá trị áp suất cực đại của một vụ nổ khối lượng Mg u003d 15 tấn xăng quá nhiệt. Trong trường hợp này, tốc độ ngọn lửa thay đổi trong khoảng: 103,4-158,0 m / s, tương ứng với không gian lộn xộn tối thiểu và tối đa ở nơi bắt lửa của hỗn hợp. Một vụ nổ do lượng xăng quá nóng như vậy (loại 1 của vụ tai nạn theo kịch bản A) có thể xảy ra với sự phá hủy lạnh của các xe tăng K-101 hoặc K-102. Tần suất của một sự kiện như vậy là 1,3 10 7 năm 1, vì vậy nó khó có thể xảy ra. [. ]

Nhược điểm của quá trình được xem xét là sự phun bụi trong phạm vi dài của các trầm tích nhão ở góc mở thấp, dẫn đến sự trượt của các phần tử chưa cháy ra bên ngoài lò phản ứng xyclon và cần phải xây dựng thiết bị đốt sau. Ngoài ra, các sản phẩm cháy của phần hữu cơ của cặn không tham gia vào quá trình xử lý nhiệt ban đầu – làm khô và nóng lên đến nhiệt độ bốc cháy; đối với lượng nhiên liệu bổ sung này được tiêu thụ, và nhiệt độ của khí thải vượt quá mức cần thiết cho quá trình oxy hóa hoàn toàn các chất hữu cơ. ]

Theo quy luật, dung môi hữu cơ dễ cháy; hơi của chúng tạo thành hỗn hợp nổ với không khí. Đánh giá khả năng bắt lửa của dung môi Được đặc trưng bởi điểm chớp cháy và giới hạn khả năng bắt lửa. Để tránh cháy nổ, nồng độ hơi dung môi trong không khí phải được giữ ở mức dưới giới hạn dễ cháy. [. ]

Khí cháy, hơi của chất lỏng dễ cháy và bụi dễ cháy, trong những điều kiện nhất định, tạo thành hỗn hợp nổ với không khí. Phân biệt giữa các giới hạn nồng độ dưới và nồng độ trên của khả năng nổ, bên ngoài các hỗn hợp không gây nổ. Các giới hạn này thay đổi tùy thuộc vào công suất và đặc tính của nguồn cháy, nhiệt độ và áp suất của hỗn hợp, tốc độ lan truyền của ngọn lửa, hàm lượng các chất trơ. ]

Quá trình cháy dừng khi đáp ứng một trong các điều kiện sau: loại bỏ chất cháy ra khỏi vùng cháy hoặc giảm nồng độ của chất cháy; giảm tỷ lệ phần trăm oxy trong vùng cháy đến giới hạn không thể đốt cháy được; hạ nhiệt độ của hỗn hợp cháy xuống nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ bắt cháy. [. ]

Ngoài ra, sự hình thành các quả cầu lửa hoặc sự đốt cháy của các đám mây khí trôi dạt có thể dẫn đến cái chết của tất cả những người trên lãnh thổ của cơ sở (tối đa 4 người làm việc mỗi ca), cũng như bị thương cho những người bên ngoài cây xăng. Hơn nữa, số người bị thương khi đi vào khu vực bị ảnh hưởng của con đường chủ yếu sẽ phụ thuộc vào cường độ giao thông. Những người di chuyển trên đường chỉ có thể bị thương nếu một quả cầu lửa hoặc một đám mây trôi bốc cháy. Hơn nữa, khi một đám mây đang bốc cháy, có thể xảy ra thiệt hại trong khu vực \ u200b \ u200bên đường với điều kiện là nó bốc cháy không phải trên đường trôi mà khi có phương tiện va vào nó. Ngoài ra, các chỉ số rủi ro bị ảnh hưởng đáng kể bởi việc đào tạo chuyên môn và khẩn cấp của nhân viên. [. ]

Bụi của nhiều chất rắn dễ cháy lơ lửng trong không khí tạo thành hỗn hợp dễ cháy với nó. Nồng độ tối thiểu của bụi trong không khí mà nó bốc cháy được gọi là giới hạn nồng độ thấp hơn đối với bụi bốc cháy. Không áp dụng khái niệm giới hạn nồng độ dễ cháy trên đối với bụi, vì không thể tạo ra nồng độ bụi rất cao ở dạng huyền phù. Thông tin về giới hạn nồng độ thấp hơn của sự bắt lửa (LEL) của một số loại bụi được trình bày trong bảng. 22.2. [. ]

Ở một số nhà máy lọc, hóa dầu, lượng khí thải ra có khi lên tới 10.000-15.000 m3 / h. Giả sử trong vòng 5 phút, 1000 m3 khí sẽ được thải ra ngoài, trong đó giới hạn nồng độ thấp hơn của sự bốc cháy là khoảng 2% (thể tích) (tương ứng với đặc điểm nổ của hầu hết các loại khí của quá trình lọc hóa dầu) . Lượng khí này khi trộn lẫn với không khí xung quanh có thể tạo ra một bầu không khí nổ với thể tích khoảng 50.000 m3 trong khoảng thời gian ngắn. Nếu chúng ta giả định rằng đám mây nổ nằm ở vị trí sao cho độ cao trung bình của nó là khoảng 10 m, thì diện tích của đám mây sẽ là 5000 m2 hoặc bao phủ khoảng 0,5 ha bề mặt. Rất có thể trong một khu vực như vậy có thể có một số loại nguồn đánh lửa, và sau đó một vụ nổ mạnh sẽ xảy ra trên lãnh thổ rộng lớn này. Đã có những trường hợp như vậy. Vì vậy, để ngăn chặn một vụ nổ, cần phải thu gom tất cả các khí thải, ngăn không cho chúng phát tán trong khí quyển và thải bỏ hoặc thiêu hủy. [. ]

Chúng tôi sẽ đánh giá nguy cơ cháy (nguy cơ cháy) của các chất và vật liệu khác nhau, có tính đến trạng thái tập hợp của chúng (rắn, lỏng hoặc khí). Các chỉ số chính của nguy cơ cháy là nhiệt độ tự cháy và giới hạn nồng độ của chất bắt lửa. [. ]

Chất thải từ gasoline dung môi, chất chiết xuất, ete dầu mỏ, là những phần nhỏ có độ sôi thấp của quá trình chưng cất trực tiếp dầu, có điểm sôi 30-70 ° C, điểm chớp cháy -17 ° C, nhiệt độ tự cháy 224-350 ° C, giới hạn nồng độ thấp hơn của sự bắt lửa (NKP) 1,1%, trên cùng (VKP) 5,4%. [. ]

Thiết kế của bộ trung hòa phải đảm bảo thời gian lưu trú cần thiết của các khí đã xử lý trong thiết bị ở nhiệt độ đảm bảo khả năng đạt được mức độ trung hòa nhất định của chúng (trung hòa). Thời gian lưu trú thường là 0,1-0,5 s (đôi khi lên đến 1 s), nhiệt độ hoạt động trong hầu hết các trường hợp tập trung vào giới hạn thấp hơn của sự tự động của hỗn hợp khí trung hòa và vượt quá nhiệt độ bắt lửa (Bảng 1.7) 100-150 ° C . [. ]

Trong số các thiết bị làm sạch khí hiện có, những thiết bị chính để sản xuất bộ chuyển đổi là ống Venturi, bộ lọc tĩnh điện và bộ lọc vải (túi). Máy chà sàn, máy phun sương và máy lốc xoáy thường được sử dụng kết hợp với ống Venturi và thiết bị lọc bụi tĩnh điện. Hàm lượng các thành phần dễ cháy trong khí cung cấp cho bộ lọc bụi tĩnh điện phải nhỏ hơn đáng kể so với giới hạn bắt lửa thấp hơn của các thành phần tương ứng. Kết quả là, bộ lọc bụi tĩnh điện không thể hoạt động trong hệ thống khí thải nếu không đốt cháy sau. [. ]

Các tính toán được thực hiện theo phương pháp trên cho thấy một đám mây khí có nồng độ cao được hình thành tại vị trí vỡ, chúng tan ra do vận chuyển phản ứng và khuếch tán hỗn loạn trong khí quyển. Sử dụng chương trình RISK, xác suất vượt quá hai giá trị ngưỡng của nồng độ đã được tính toán: 300 mg / m3 – nồng độ tối đa cho phép của khí mê-tan trong khu vực làm việc và 35.000 mg / m3 – giới hạn bắt lửa dưới của hỗn hợp khí mê-tan . [. ]

Một dòng điện trọng lực khá phức tạp được hình thành gần bề mặt trái đất, góp phần vào sự lan truyền và phân tán hướng tâm của hơi LNG. Như một minh họa về kết quả của các phép tính số về sự tán xạ của đám mây khí mê-tan, Hình. 5 cho thấy sự phát triển của đám mây hơi đối với các điều kiện tán xạ bất lợi nhất (độ ổn định khí quyển – “B” theo phân loại Gifford – Pasquil, tốc độ gió – 2 m / s) ở dạng các mặt đẳng áp của nồng độ hơi LNG trong không khí. Các đường bao được mô tả tương ứng với giới hạn dễ cháy trên của hơi LNG trong không khí (15 vol%), giới hạn dễ cháy dưới (5 vol%) và một nửa giới hạn dễ cháy dưới (2,5 vol%). [. ]

Hợp đồng tương lai khí đốt tự nhiên tăng trong phiên họp của Mỹ

Trên New York Mercantile Exchange, hợp đồng khí đốt tự nhiên giao tháng 8 đang giao dịch ở mức $ 2,768 / MTU, tăng 0,58% tính đến thời điểm này.

Mức tối đa trong phiên là mốc USD trên một triệu BTU. Theo bài viết này, khí tự nhiên đang tìm thấy hỗ trợ ở mức $ 2,736 và mức kháng cự ở mức $ 2,832.

Chỉ số tương lai USD Index, đo lường đồng đô la Mỹ so với rổ sáu loại tiền tệ chính, đã giảm 0,17% xuống giao dịch ở mức 94,28 đô la.

Trong các mặt hàng khác giao dịch trên sàn NYMEX, giá dầu WTI giao tháng 9 giảm 3,95% xuống 67,19 USD / thùng, trong khi dầu nhiên liệu nặng giao tháng 8 giảm 3,19% xuống còn 2,0654 USD / gallon.

Nhận xét gần đây về công cụ

Ngày 25 tháng 7 năm 2018 từ 10.00 đến 13.00 GKU RK “Cục Phòng cháy chữa cháy và Bảo vệ Dân sự” sẽ thu gom chất thải có chứa thủy ngân trên lãnh thổ của ICDO “Ukhta”

Nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của trẻ em – bị người lớn bỏ mặc, incl. trong kỳ nghỉ chung của cha mẹ với con cái.

Vào ngày 16 tháng 7 năm 2018, các nhân viên của Cục Dân phòng và Các tình huống khẩn cấp thành phố đã tiến hành kiểm tra sở cứu hỏa bảo vệ trên bãi chôn lấp chất thải rắn

Vào ngày 11 tháng 7 năm 2018, các nhân viên của Cơ quan Quản lý Dân phòng và Các tình huống khẩn cấp của thành phố đã có chuyến đi đến 1, 2, 3 Vodnensky dachas và SOT Trud để thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhằm đảm bảo các biện pháp an toàn cháy nổ.

Vào ngày 11 tháng 7 năm 2017, các nhân viên của Cục Phòng thủ dân sự và Trường hợp khẩn cấp của Cục quản lý ICDO Ukhta đã tiến hành kiểm tra tình trạng của các hồ chứa lửa và các thiết bị kỹ thuật chữa cháy.

MU “Cục Phòng vệ Dân sự và Các trường hợp khẩn cấp” của chính quyền ICDO “Ukhta” khuyến nghị tuân theo pcải thiện an toàn cháy nổ trong các ngôi nhà mùa hè

Nghị quyết của Ban quản lý ICDO “Ukhta” ngày 29 tháng 6 năm 2018 số 1453 “Về việc tổ chức đảm bảo an toàn cho người dân tại các vùng nước trên lãnh thổ của ICDO” Ukhta “giai đoạn mùa hè năm 2018 đã được phê duyệt

Vào ngày 4 tháng 7 năm 2018, các nhân viên của Cục Phòng thủ dân sự và Trường hợp khẩn cấp thành phố đã đến nhà nghỉ Urozhay SOT, Yarega, để thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhằm đảm bảo các biện pháp an toàn cháy nổ

Các bác sĩ khuyến cáo không nên vội vàng mua dưa hấu, dưa hấu sớm: chúng thường bị “bội thực” nitrat và chất kích thích tăng trưởng, có thể gây ngộ độc.

Bộ Kinh tế Cộng hòa Komi thông báo địa điểm “Quản lý dự án tại Cộng hòa Komi” đã được đưa vào vận hành thương mại

Hàng năm ở Nga có vài triệu người bị bỏng do tiếp xúc với củ cải bò.

MU “Cục Phòng vệ Dân sự và Các Tình huống Khẩn cấp” của Cơ quan Quản lý ICDO “Ukhta” nhắc nhở các bậc cha mẹ cần tăng cường kiểm soát trẻ em trong kỳ nghỉ hè

Nhắc nhở cư dân của ICDO “Ukhta” về các quy tắc ứng xử trên các vùng nước vào mùa hè

Trước khi bắt đầu mùa bơi và trước kỳ nghỉ hè, Cục Phòng thủ dân sự thành phố và các tình huống khẩn cấp của Cơ quan quản lý MGOU “Ukhta” nhắc nhở học sinh về các biện pháp phòng ngừa và các quy tắc ứng xử khi tắm

Trước khi bắt đầu mùa bơi và trước kỳ nghỉ hè, Cục Phòng thủ dân sự thành phố và các tình huống khẩn cấp của Cơ quan quản lý MGOU “Ukhta” nhắc nhở các bậc cha mẹ về sự cần thiết phải trò chuyện với con cái về các quy tắc ứng xử trên mặt nước

Từ ngày 15 tháng 6 năm 2018 đến lãnh thổ của ICDO “Ukhta” giới thiệu chế độ hỏa lực đặc biệt

Phần Sosnogorsk của GIMS EMERCOM của Nga thông báo rằng với việc mở cửa điều hướng trong một thời gian ngắn, cái chết của 12 người đã được ghi nhận trong các vùng nước của Cộng hòa Komi

FBU “Avialesokhrana” đã phát hành ứng dụng di động “Chăm sóc rừng”

Giới hạn nổ của khí tự nhiên

Vào ngày 25 tháng 7 năm 2018 từ 10.00 đến 13.00 GKU RK “Cục Phòng cháy chữa cháy và Bảo vệ Dân sự” sẽ thu gom chất thải có chứa thủy ngân trên lãnh thổ của ICDO “Ukhta” Nguyên nhân chính gây tử vong

Nếu nồng độ của chất cháy trong hỗn hợp nhỏ hơn giới hạn dưới của sự lan truyền ngọn lửa, thì hỗn hợp đó không thể cháy và nổ, vì nhiệt tỏa ra gần nguồn bắt lửa không đủ để đốt nóng hỗn hợp đến nhiệt độ bắt lửa. Nếu nồng độ của chất cháy trong hỗn hợp nằm giữa giới hạn dưới và giới hạn trên của sự lan truyền ngọn lửa, thì hỗn hợp bắt lửa bốc cháy và cháy cả khi gần nguồn bắt lửa và khi nó được lấy ra. Hỗn hợp này dễ nổ. Phạm vi giới hạn lan truyền ngọn lửa càng rộng (còn gọi là giới hạn dễ cháy và giới hạn nổ) và giảm giới hạn thấp hơn, khí càng nổ. Nếu nồng độ chất cháy trong hỗn hợp vượt quá giới hạn trên của sự truyền ngọn lửa thì lượng chất oxi hóa trong hỗn hợp không đủ để đốt cháy hoàn toàn chất cháy.

Phạm vi giá trị của đồ thị sự phụ thuộc của hệ số phân bố trong hệ “chất khí cháy – chất oxi hóa”, tương ứng với khả năng bắt cháy của hỗn hợp, tạo thành vùng bắt lửa.

Các yếu tố sau ảnh hưởng đến giá trị của NKPRP và VKPRP:

Tính chất của chất phản ứng;

Áp suất (thường là tăng áp suất không ảnh hưởng đến NKPRP, nhưng VKPRP có thể tăng rất nhiều);

Nhiệt độ (sự gia tăng nhiệt độ sẽ mở rộng KPRP bằng cách tăng năng lượng hoạt hóa);

Phụ gia không cháy – chất làm tan đờm;

Thứ nguyên của KPRP có thể được biểu thị bằng phần trăm thể tích hoặc bằng g / m³.

Việc đưa chất làm tan đờm vào hỗn hợp làm giảm giá trị của VCPRP trên thực tế tương ứng với nồng độ của nó cho đến điểm hóa đờm, nơi giới hạn trên và dưới trùng nhau. Đồng thời, NKPRP tăng nhẹ. Để đánh giá khả năng bắt lửa của hệ thống “Nhiên liệu + Chất ôxy hóa + Chất tạo đờm”, cái gọi là tam giác lửa – một sơ đồ, trong đó mỗi đỉnh của tam giác tương ứng với một trăm phần trăm nội dung của một trong các chất, giảm về phía đối diện. Vùng đánh lửa của hệ thống được đánh dấu bên trong hình tam giác. Trong tam giác lửa, một vạch của nồng độ ôxy tối thiểu (MOC) được đánh dấu, tương ứng với giá trị của hàm lượng chất ôxy hóa trong hệ, dưới giá trị đó hỗn hợp không bốc cháy. Việc đánh giá và kiểm soát MCC rất quan trọng đối với các hệ thống hoạt động trong môi trường chân không, nơi không khí trong khí quyển có thể bị hút vào qua các lỗ rò rỉ trong thiết bị công nghệ.

KPRP được xác định bằng tính toán hoặc được tìm thấy bằng thực nghiệm.

Một Số Vấn Đề Về Di Sản Thế Giới

Di sản thế giới là gì?

Có bao nhiêu di sản thế giới?

Theo Tạp chí The World Heritage Commitee tính đến năm 2016, có tất cả 1.052 di sản được liệt kê, trong đó có 814 di sản về văn hóa, 203 di sản về thiên nhiên và 35 di sản thuộc cả hai loại. Các di sản đó hiện diện tại 165 quốc gia. Italia là quốc gia có số lượng di sản thế giới được công nhận nhiều nhất với 50 di sản, tiếp theo là Trung Quốc với 47 di sản và Tây Ban Nha với 44 di sản.

Công ước Di sản thế giới ra đời như thế nào?

Công ước di sản thế giới là tên gọi tắt của Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Ngày 16-11-1972, tại kỳ họp lần thứ 17 diễn ra ở Thủ đô Paris (Cộng hòa Pháp), UNESCO đã thông qua Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Đây là Công ước quốc tế đầu tiên gắn khái niệm bảo vệ thiên nhiên với bảo vệ thiên nhiên với bảo vệ di sản văn hóa, mang đến một cách tiếp cận mới với những cơ sở pháp lý cần thiết, bảo đảm mối quan hệ cân bằng, hài hòa giữa con người với nhiên nhiên, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Công ước giúp các nước thành viên gắn kết việc bảo vệ di sản với chiến lược quy hoạch, phát triển địa phương; bảo vệ bền vững không chỉ di sản thế giới mà còn bảo vệ các di sản văn hóa của mỗi quốc gia. Công ước gồm 8 chương, 38 điều, đề cập những vấn đề hết sức quan trọng về di sản văn hóa thiên nhiên trên thế giới; trong đó có định nghĩa về di sản văn hóa và di sản thiên nhiên; Ủy ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Ủy ban Di sản thế giới).

Có mấy loại di sản thế giới?

Theo Công ước di sản thế giới 1972, di sản thế giới được phân thành ba loại: di sản văn hóa, di sản thiên nhiên và di sản hỗn hợp.

Thế nào là Di sản văn hóa thế giới?

Di sản văn hóa gồm:

1) Di tích kiến trúc (monuments): các công trình kiến trúc, các công trình điêu khắc và hội họa kiến trúc, các bộ phận hoặc kết cấu có tính chất khảo cổ học, các bi ký, các hang động cư trú và những bộ phận kết hợp, mà xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu;

2) Nhóm công trình xây dựng (groups of buildings): các nhóm công trình riêng lẻ hoặc liên kết mà, do tính chất kiến trúc, tính chất đồng nhất hoặc vị thế của chúng trong cảnh quan, xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu;

3) Các di chỉ (sites): các công trình của con người hoặc công trình kết hợp giữa con người và thiên nhiên, cũng như các khu vực có các di chỉ khảo cổ học mà xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu.

Thế nào là Di sản thiên nhiên thế giới?

Di sản thiên nhiên gồm:

1) Các cấu tạo tự nhiên (natural features) bao gồm các thành tạo vật lý hoặc sinh học hoặc các nhóm có thành tạo thuộc loại đó mà, xét theo quan điểm thẩm mỹ hoặc khoa học, có giá trị nổi tiếng toàn cầu;

2) Các thành tạo địa chất và địa văn (geological and phystographical formations) và các khu vực được khoanh vùng chính xác làm nơi cư trú cho các loài động vật và thảo mộc bị đe dọa mà, xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo tồn, có giá trị nổi tiếng toàn cầu;

3) Các di chỉ tự nhiên (natural sites) hoặc các khu vực tự nhiên đã được khoanh vùng cụ thể mà, xét theo quan điểm khoa học, bảo tồn hoặc vẻ đẹp thiên nhiên, có giá trị nổi tiếng toàn cầu.

Thế nào là Di sản hỗn hợp thế giới?

Đến năm 1992, Ủy ban Di sản thế giới mới đưa ra khái niệm di sản hỗn hợp hay còn gọi là di sản kép hay cảnh quan văn hóa thế giới để miêu tả các mối quan hệ tương hỗ nổi bật giữa văn hóa và thiên nhiên của một số khu di sản.

Thế nào là Di sản văn hóa phi vật thể thế giới?

Các hình thức thể hiện của di sản văn hóa phi vật thể? Di sản văn hóa phi vật thể thường được thể hiện ở những hình thức sau:

– Các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể;

– Nghệ thuật trình diễn;

– Tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội;

– Nghề thủ công truyền thống.

(Phòng VHVN tổng hợp)

Cập nhật thông tin chi tiết về Công Ước Về Việc Bảo Vệ Di Sản Văn Hóa Và Thiên Nhiên Của Thế Giới trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!