Xu Hướng 6/2023 # Chương Trình Mục Tiêu Quốc Gia Về Y Tế # Top 6 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Chương Trình Mục Tiêu Quốc Gia Về Y Tế # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Chương Trình Mục Tiêu Quốc Gia Về Y Tế được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

11/17/2020 9:41:04 AM  09:41

Tác giả: PGS.TS.Nguyễn Thị Bạch Yến

5- Điều trị suy tim phải

Mặc dù nguyên nhân của suy thất phải (TP) rất đa dạng, tuy nhiên việc điều trị đều theo nguyên tắc chung là phải thực hiện đồng thời và kịp thời nhiều chiến lược nhằm tối ưu hóa tiền tải, hậu tải và sức co bóp TP. Cần chú trọng cải thiện các yếu tố ban đầu dẫn đến suy TP và giảm bớt gáng nặng cho TP. Hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể là một giải pháp bắc cầu để chờ TP phục hồi trong quá trình điều trị nguyên nhân chính gây suy thất phải. Các nguyên tắc chung của việc  điều trị suy tim phải này áp dụng cho cả tình huống cấp tính và mạn tính.

5.1 Điều trị suy thất phải cấp.

5.1.1. Tối ưu hóa tiền tải, hậu tải và sức co cơ tim

(a) Tối ưu hóa tiền tải

Bệnh nhân bị bệnh  nặng có thể giảm tiền tải tim phải do giảm thể tích, giảm trương lực tĩnh mạch do thuốc, do nhiễm trùng huyết hoặc co mạch, do thông khí nhân tạo áp lực dương. Định luật Frank-Starling vẫn được bảo tồn đối với suy tim phải [4], tuy nhiên đường cong Frank-Starling của thất phải phẳng hơn so với tâm thất trái, điều đó có nghĩa là khả năng đáp ứng về sức co bóp của thất phải đối với thay đổi áp lực đổ đầy ít hơn.

Trong trường hợp cung lượng thất phải bị suy giảm do rối loạn chức năng co nhưng hậu gánh bình thường (có thể thấy trong nhồi máu thất phải cấp tính), cần phải tăng tiền tải cao hơn để duy trì cung lượng thất phải.

Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp suy thất phải đều có đặc trưng là tăng hậu tải. Trong những bệnh cảnh này, việc giảm tình trạng tăng quá mức tiền tải TP bằng thuốc lợi tiểu hoặc lọc máu là chìa khóa để giảm tình trạng giãn TP và giảm sức căng thành tự do thất phải, từ đó giúp giảm thiểu tình trạng thiếu máu TP và tối ưu hóa khả năng co bóp của thất phải.  Đa số các tác giả đều đồng thuận  là trong suy thất phải cấp, duy trì áp lực đổ đầy tâm trương TP ở mức 8-12 mmHg là tối ưu. Tuy nhiên, trong  một số trường hợp đơn lẻ, cung lượng thất phải có thể ở mức thấp hơn, gần với mức bình thường

(b) Giảm hậu tải

Các chiến lược để tối ưu hóa hậu tải TP có thể được chia thành các biện pháp chung và thuốc (bao gồm cả thuốc giãn mạch phổi). Các biện pháp chung nhằm mục đích điều chỉnh các bệnh cảnh có thể làm tăng sức cản mạch phổi (PVR) ở những bệnh nhân nặng. Những bệnh cảnh này bao gồm nhiễm toan, thiếu oxy (gây co mạch phổi) và tình trạng tăng CO2. Thông khí bảo vệ phổi, sử dụng áp lực dương cuối thì thở ra,  tránh tình trạng thiếu oxy và tăng CO2, hỗ trợ tối ưu hóa cả tiền tải và hậu tải thất phải [5].

Thuốc giãn mạch phổi ở đây bao gồm một số nhóm thuốc đã được chấp thuận để sử dụng trong điều trị tăng áp động mạch phổi. Tuy nhiên, thuốc giãn mạch có thể gây hạ huyết áp toàn thân. Thuốc giãn mạch phổi cũng có thể làm giảm tình trạng co mạch phổi phản ứng do thiếu oxy và do đó lại làm tình trạng thông khí ở phổi xấu đi. 

Thuốc giãn mạch phổi hiện không được chấp thuận sử dụng ở những bệnh nhân suy thất phải cấp mà không có tăng áp ĐMP. 

Tuy nhiên, nitric oxit dạng hít (iNO) với tác dụng nhanh, thời gian bán hủy ngắn và đường vào là đường hô hấp, nên là thuốc giãn mạch phổi được lựa chọn sử dụng trong trường hợp cấp và đã được chứng minh là giúp cải thiện huyết động của ĐMP trong suy thất phải cấp [6]. 

Các dẫn xuất Prostacyclin dạng hít đã được chứng minh là thuốc giãn mạch phổi an toàn và hiệu quả cho bệnh nhân phẫu thuật tim phổi có tăng áp ĐMP, thiếu oxy máu mạn  hoặc rối loạn chức năng tim phải, và sử dụng các thuốc này có thể tiết kiệm đáng kể chi phí so với iNO [7].

Các chất ức chế Phosphodiesterase 5 (PDE5) có tác dụng ngăn chặn sự thoái hóa của Guanosine Monophosphate vòng. Thuốc có tác dụng làm giảm áp lực động mạch phổi và tăng cung lượng tim ở cả các trường hợp tăng áp ĐMP cấp tính và mạn tính. Các chất ức chế PDE5 cũng đã được chứng minh là làm tăng khả năng co bóp TP  trong mô hình thực nghiêm trên động vật bị phì đại thất phải [8].  Với khả năng kết hợp làm giảm hậu tải và tăng co bóp thất phải, thuốc ức chế PDE5 đôi khi được sử dụng ở những bệnh nhân suy thất phải cấp tính trên nền tăng áp phổi mạn tính. Một ví dụ cho trường hợp này là việc sử dụng các chất ức chế PDE5 trong  điều trị suy thất phải sau khi cấy ghép thiết bị hỗ trợ tâm thất trái [9]. Thuốc ức chế PDE5 bị chống chỉ định ở bệnh nhân dùng nitrat và nên thận trọng khi dùng ở bệnh nhân có huyết động không ổn định.

(c) Cải thiện co bóp cơ tim

Các chiến lược để cải thiện khả năng co của TP cũng có thể được chia thành các biện pháp chung và thuốc. Các biện pháp chung nhắm đến việc tránh làm căng quá mức thành tự do TP bằng cách tối ưu hóa tiền gánh và hậu gánh, duy trì tưới máu TP bằng cách giảm sức căng TP và tăng huyết áp tâm trương của động mạch vành và duy trì môi trường nội bào thuận lợi cho sự co bóp của tế bào cơ tim.

Về các thuốc làm tăng sức co cơ tim, trong các mô hình thực nghiệm trên động vật, Dobutamine liều thấp (5-10 Mg / kg / phút) đã được chứng minh là hiệu quả hơn norepinephrine trong phục hồi mối liên kết Thất phải – Động mạch phổi và tăng cung lượng tim do Dobutamin có tác dụng tăng co bóp rõ rệt hơn [11]. Dobutamin vừa có tác dụng làm tăng sức co cơ tim lại vừa có tác dụng giãn mạch nên được ưu tiên sử dụng ở những bệnh nhân có HA bình thường. Dopamine cũng cải thiện khả năng co bóp của TP và với liều dưới 16 mg/ kg / phút, nó làm tăng cung lượng tim mà không làm tăng sức cản phổi[12]. Dopamine sẽ thích hợp hơn cho bệnh nhân hạ huyết áp và  nhịp tim không nhanh.

Milrinone, một chất ức chế PDE3 chọn lọc, làm chậm quá trình chuyển hóa adenosine monophosphate vòng (cAMP) nội bào có tác dụng cải thiện sức co và làm giãn mạch phổi. Đây là thuốc được ưu tiên trong tăng áp phổi do suy cả 2 thất [13]. Ở những bệnh nhân HA bình thường đã được điều trị bằng thuốc chẹn beta kéo dài, milrinone được ưu tiên chỉ định sử dụng. Milrinone dạng hít cũng đã được nghiên cứu để điều trị STP vì nó tránh được tác dụng phụ gậy hạ huyết áp ĐM. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên trên bệnh nhân phẫu thuật tim có nguy cơ cao, milrinone dạng hít có tác dụng tăng cung lượng tim và giảm áp lực tâm thu động mạch phổi mà không gây hạ huyết áp hệ thống. Tuy nhiên, những hiệu quả về huyết động này không làm cải thiện các kết cục lâm sàng [14].

Trong một nghiên cứu trên động vật, Epinephrine đã  được chứng minh là có cải thiện cung lượng tim mà không ảnh hưởng xấu đến sức cản phổi [15].  Norepinephrine gây co mạch thông qua kích thích thụ thể α1 và ít ảnh hưởng đến khả năng co bóp. Mặc dù nó có thể làm tăng sức cản phổi, những hiệu ứng này có thể được bù đắp do cải thiên liên kết ĐM phổi – thất phải[16]. Cả epinephrine và norepinephrine sẽ thích hợp hơn ở những bệnh nhân bị tụt huyết áp.

Digoxin trong STP có tăng áp động mạch phổi có thể giúp cải thiện cung lượng tim tuy nhiên hiệu quả ở mức khiêm tốn[19].

Tâm thất phải có liên kết chặt chẽ với tâm thất trái. Khi suy TP tiến triển, vách liên thất phình sang bên trái, làm ảnh hưởng đến đổ đầy thất trái cũng như làm giảm sự đóng góp của vách liên thất đối với sự co bóp của TP. Tác động này của VLT đối với tim trái này có thể dẫn đến tụt huyết áp, làm giảm áp lực tưới máu mạch vành, và dẫn đến thiếu máu cục bộ TP. Áp lực đổ đầy thất phải tăng và tụt huyết áp hệ thống cũng có thể thúc đẩy shunt phải – trái ở bệnh nhân có shunt trong tim, điển hình là trong trường hợp còn tồn tại lỗ bầu dục (foramen ovale), do đó lại càng làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu oxy.

Ở bệnh nhân có tụt  huyết áp với áp lực động  mạch phổi tăng cao, thuốc vận mạch thường được sử dụng để tăng huyết áp hệ thống. Nói chung, mục tiêu là giữ cho áp lực động mạch hệ thống cao hơn áp lực động mạch phổi. Một thuốc lý tưởng để đạt được mục tiêu này là thuốc làm tăng huyết áp lực hệ thống mà không gây ảnh hưởng xấu đến sức cản phổi. Vasopressin liên kết với các thụ thể V1 trên cơ trơn mạch máu và ở liều thấp (0,01-0,03 U / phút) gây giãn mạch phổi thông qua kích thích oxit nitric nội mô. Tuy nhiên, ở liều cao hơn vasopressin có thể gây co mạch vành bằng cách tăng đáp ứng catecholamine [20,21]. Vai trò của epinephrine và norepinephrine đã được xem xét với vai trò làm tăng sức co cơ tim. Phenylephrine, một chất chủ vận chọn lọc α1, có thể làm tăng sức cản mạch máu phổi, và do đó, nên tránh dùng thuốc này trong suy tim phải.

5.1.2. Các thiết bị hỗ trợ tuần hoàn cơ học và điều trị nguyên nhân của suy tim phải

Việc xác định và điều trị các nguyên nhân có thể điều trị được là một phần quan trọng của chiến lược điều trị suy thất phải (ví dụ như điều trị tiêu huyết khối trong thuyên tắc phổi, can thiệp tái tưới máu sớm trong nhồi máu cơ tim thất phải).   

Trong các trường hợp nặng, triển khai kịp thời hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể là giải pháp cầu nối để chờ cơ tim phục hồi hoặc để điều trị nguyên nhân. Các lựa chọn hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể bao gồm ECMO, đặt dụng cụ hỗ trợ tuần hoàn thất phải và thất trái.

Kết luận

Việc xử trí suy tim phải cấp tính đơn độc vẫn là một nghệ thuật hơn là một khoa học do hiện không có dữ liệu ngẫu nhiên mạnh mẽ. Ngoài việc điều trị nguyên nhân cụ thể, tối ưu hóa tiền tải, sử dụng thuốc giãn mạch phổi chọn lọc, hỗ trợ  tăng sức co thất phải và sử dụng thiết bị hỗ trợ tuần hoàn cơ học tạm thời là một thành phần không thể thiếu của một chiến lược toàn diện để hỗ trợ cho tim phải. 

6- Điều trị suy tim phải mạn [14]

6.1. Lợi tiểu:

Liều lượng của thuốc lợi tiểu có thể thay đổi tùy theo cơ chế bệnh sinh và mức độ nghiêm trọng của suy tim phải và các yếu tố khác kèm theo (ví dụ như bệnh thận). Do bệnh nhân ST phải có thể có áp lực đổ đầy TT bình thường hoặc thấp, nên việc theo dõi lâm sàng là rất cần thiết để ngăn ngừa tăng ure máu trước thận (do thiếu dịch) và suy giảm chức năng thận. Mục tiêu của kiểm soát lượng dịch trong suy tim phải mạn là duy trì tiền gánh để đủ cho đổ đầy thất trái trong khi vẫn giảm quá tải TP, giảm ảnh hưởng xấu đối với tâm thất trái và giảm ứ trệ ngoại biên .

Bệnh nhân suy tim phải mạn (STPM) thường cần thuốc lợi tiểu liều cao do ở các bệnh nhân này thường có tình trạng kích hoạt hệ thần kinh thể dịch, bao gồm kích hoạt hệ trục renin-angiotensin-aldosterone, dẫn đến giữ muối và nước. Ứ dịch dẫn đến phù các  tạng gây giảm hấp thu thuốc và tăng thải thuốc ở ống thận, tăng tái  hấp thụ  natri ở ống thận xa (hậu quả của sự phong tỏa mạn tính Na-K-2CL).

Điều trị kết hợp thuốc lợi tiểu quai với thiazide có thể hữu ích giúp tăng thải Natri thông qua ức chế tái hấp thu natri tại các ống thận (các nephron). So với Furosemide, Torsemide có sự hấp thụ tốt hơn, đặc biệt là trong quá trình mất bù và đây là thuốc lợi tiểu quai được ưa tiên trong STPM.

Theo  hướng dẫn thực hành suy tim của AHA / ACC [14], hạn chế natri được coi là hợp lý đối với bệnh nhân ST có triệu chứng nhằm giảm triệu chứng ứ trệ tuần hoàn (phù).

Khuyến cáo này có thể áp dụng cho cả bệnh nhân suy 2 thất có triệu chứng hoặc suy TP đơn độc (tuy nhiên cần lưu ý rằng không có nghiên cứu quy mô lớn nào chứng minh sự an toàn hoặc hiệu quả của việc hạn chế natri trong các quần thể này). Các bác sĩ nên quan tâm đến hạn chế natri (ví dụ <3 g / ngày ở bệnh nhân  STPM có triệu chứng, mặc dù hiện nay còn thiếu dữ liệu và không có sự nhất quán giữa các khuyến cáo về vấn đề này). Tương tự, hạn chế dịch  (1.5 – 2 lít /ngày) được coi là hợp lý ở những bệnh nhân bị suy tim xung huyết kháng trị và có hạ natri máu.

6.2- Các thuốc ức chế hệ Renin-Angiotensin-Aldosterone, chẹn Beta giao cảm và Hydralazine.

Với các bệnh nhân bị suy chức năng cả 2 thất, thì nên được điều trị theo các Hướng dẫn thực hành hiện tại về điều trị suy tim mạn.

Nếu như với suy tim EF giảm (HfrEF) chúng ta đã có đủ bằng chứng để đưa ra các khuyến cáo rõ ràng thì hiện tại lại có ít bằng chứng để đưa ra hướng dẫn điều trị các hội chứng suy tim mà trong đó STP chiếm ưu thế.

Nghiên cứu gần đây với thuốc giãn mạch toàn thân (bao gồm hydralazine) ở bệnh nhân TAĐMP cho thấy lợi ích về huyết động không nhất quán. Mặt khác các tác dụng phụ nghiêm trọng lại khá thường gặp khi sử dụng các thuốc này.

Vì vậy, cho tới hiện nay, việc sử dụng các thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn thụ thể Angiotensin 2 và thuốc chẹn Beta không khuyến cáo sử dụng ở những bệnh nhân TAĐMP có biểu hiệu STP, chỉ trừ khi có phối hợp với tăng huyết áp, bệnh động mạch vành hoặc có suy tim trái.

Không có các thử nghiệm tiến cứu về vai trò của thuốc kháng Aldossterol, kể cả spironolactone, ở bệnh nhân STP do TAĐMP .

6.3. Digoxin

Một vài nghiên cứu đã đánh giá việc sử dụng digoxin cho STPM. Trong các nghiên cứu nhỏ cho thấy trong giai đoạn cấp, việc sử dụng digoxin giúp làm tăng cung lương tim hoặc phân suất tống máu thất phải (RVEF) ở bệnh nhân TAĐMP và bệnh thất phải.

Trong các nghiên cứu khác, ở những bệnh nhân bị COPD và bệnh tim phải thì  digoxin không cải thiện khả năng gắng sức cũng như phân suất tống máu thất phải (RVEF). Tương tự như vậy, một phân tích tổng hợp không tìm thấy vai trò của digoxin trong cải thiện phân suất tống máu thất phải, cũng như khả năng gắng sức hoặc độ suy tim theo NYHA. Hiệu quả lâm sàng của digoxin khi sử dụng lâu dài ở bệnh nhân STP vẫn chưa được xác định.

6.4. Thuốc giãn mạch phổi

Suy tim phải  là con đường phổ biến cuối cùng của TAĐMP. Thuốc giãn mạch phổi làm giảm hậu gánh TP đã cho thấy giúp cải thiện kết cục ở những bệnh nhân STP do TAĐMP thuộc nhóm 1. Thuốc  hiện cũng cho thấy có hiệu quả đối với bệnh nhóm STP do TAĐMP nhóm 4.  Riociguat, một chất kích thích cyclase guanylate hòa tan, đã được chứng minh là giúp cải thiện khả năng GS và PVR ở bệnh nhân TAĐMP mạn tính do huyết khối sau khi đã phẫu thuật lấy HK ĐMP hoặc ở bệnh nhân không thể phẫu thuật.

Các dẫn xuất Prostacyclin

Các hoạt chất này bao gồm Epoprostenol, Treprostinil và Iloprost (biệt dược  là Ventavis,  Ilomedin dạng tiêm TM và dạng hít )…

Vai  trò của các thuốc là dẫn xuất của prostacyclin trong làm giãn mạch phổi  đã được nghiên cứu rộng rãi ở những bệnh nhân bị TAĐMP nhóm 1(trong số này có một tỷ lệ đáng kể có rối loạn chức năng thất phải). Ở các bệnh nhân TAĐMP, sử dùng Epoprostenol tiêm tĩnh mạch đã cho thấy có lợi ích lâm sàng lâu dài, bao gồm cải thiện khả năng sống sót và chức năng tim. So với Epoprostenol, các dẫn  xuất khác như  Treprostinil và Iloprost có thời gian bán hủy dài hơn, sử dụng dễ dàng hơn với dạng tiêm dưới da hoặc dạng hít, có tác  dụng dược lực học và tác dụng huyết động tương đương. Các thuốc này cũng cải thiện khả năng gắng sức và chất lượng cuộc sống (CLCS) ở các BN TAĐMP nhóm I.  

Tuy nhiên, khi sử dụng Epoprostenol để điều trị TAĐMP ở bệnh nhân có suy tim trái thì lại làm tăng tỷ lệ tử vong rõ rệt. Một nghiên cứu sử dụng thuốc Epoprostenol ở bệnh nhân suy tim EF giảm (HfrEF) đã phải chấm dứt sớm vì có bằng chứng  mạnh về giảm tỷ lệ sống còn ở các bệnh nhân được điều trị bằng thuốc này, mặc dù có tăng chỉ số cung lương  tim (CI) và giảm áp lực giường mao mạch phổi (PCWP). Epoprostenol  cũng không làm cải thiện khả năng gắng sức và chất lượng cuộc sống (HRQoL) ở nhóm BN có suy tim trái. Vì vậy không  khuyến cáo sử dụng các dẫn xuất Prostacyclin để điều trị TAĐMP nhóm II.

Các chất ức chế Phosphodiesterase-5 (PDE5is)  đường uống.

Các hoạt chất này bao gồm sildenafil và tadalafil. Các thuốc này  đã được xác định là có hiệu quả và dung nạp tốt ở bệnh nhân TAĐMP nhóm I, kể cả trong đơn trị liệu hoặc khi  phối hợp với các thuốc giãn mạch khác. PDE5is cho thấy có tác dụng cải thiện tình trạng tái cấu trúc mạch máu phổi, cải thiện khả năng co bóp của TP và có hiệu quả chống đông máu. Thuốc cũng có tác dụng cải thiện khả năng gắng sức và giảm tỷ lệ các biến cố  lâm sàng ở những bệnh nhân TAĐMP thuộc nhóm I (lưu ý là những thử nghiệm này không lựa chọn riêng các bệnh nhân có STP).

Có một nghiên cứu nhỏ hơn đã chứng minh là PDE5i  giúp cải thiện khả năng gắng sức, tình trạng huyết động khi gắng sức và CLCS ở bệnh nhân suy tim EF giảm (HFrEF) và TAĐMP thứ phát (nhóm II). Tuy nhiên, những kết quả này đang chờ được xác nhận trong các thử nghiêm lâm sàng ngẫu nhiên đa trung tâm quy mô lớn.

Một thử nghiệm đa trung tâm với việc sử dụng PDE5i cho bệnh nhân suy tim EF bảo tồn (HFpEF) đã không chứng minh được sự cải thiện về khả năng gắng sức hoặc triệu chứng lâm sàng. Tuy nhiên thử nghiệm này đã không chọn riêng các bệnh nhân có bằng chứng TAĐMP hoặc STP.

Các nghiên cứu cũng cho thấy các thuốc nhóm này được dung nạp tốt và thường không gây  giảm HA đáng kể trên lâm sàng, tuy nhiên tình trạng giảm HA có thể năng hơn khi sử dụng đồng thời với thuốc  nhóm Nitrat. Vì vậy đặc biệt chống chỉ định sử dụng kết hợp 2 thuốc này.

Mặc dù  PDE5is có lợi ở những bệnh nhân TAĐMP nhóm I, nhưng vai trò của nó ở bệnh nhân STP đơn thuần hoặc ở bệnh nhân TAĐMP do  bệnh thất trái vẫn chưa rõ ràng.

Các thuốc đối  kháng thụ thể Endothelin.

Mặc dù những nghiên cứu về thuốc đối  kháng thụ thể Endothelin không chỉ chọn lọc ở bệnh nhân TAĐMP có STP, kết quả cũng đã cho thấy có sự cải thiện các triệu chứng suy tim, khả năng gắng sức, huyết động ở bệnh nhân TAĐMP nhóm I.

Nghiên cứu pha II sử dụng thuốc đối kháng thụ thể endothelin ở bệnh nhân suy tim EF giảm (HfrEF) đã ghi nhận có lợi ích về huyết động trong ngắn hạn. Tuy nhiên, các thử nghiệm với HFrEF ở pha III đã không chứng minh được sự cải thiện về biến cố, hoặc tử vong trong nhóm này, mặt khác đã ghi nhận có sự gia tăng Men gan ở các bệnh nhân này.  Do tình trạng ứ trệ tại gan rất thường gặp ở các BN suy tim phải, nên việc theo dõi chức năng gan cần thực hiện thường xuyên ở những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc đối kháng thụ thể endothelin.

Kết luận:

Đây là thời điểm mà chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến STP, vì  STP nếu không được phát hiện và điều trị chắc chắn sẽ dẫn đến tổn thương các cơ quan đích do tình trạng xung huyết mạn tính và giảm tưới máu cấp tính. Việc xác định sớm STP là rất quan trọng để cải thiện việc điều trị vì đây là một hội chứng phức tạp, thường bị đánh giá sai do sự đa dạng và phức táp của các con đường và quá trình  dẫn đến STP.

Tóm tắt về chẩn đoán và điều trị suy tim phải

Hậu gánh là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự  bình thường cho chức năng TP. Phân suất tống máu TP (RVEF) tỷ lệ nghịch với áp lực động mạch phổi. Do vậy, chức năng tâm thu TP rất nhạy cảm với những thay đổi về hậu gánh, chỉ với sự gia tăng nhỏ về hậu gánh cũng gây ra sự sụt giảm lớn về thể tích tống máu. Suy tim phải cấp tính có thể xảy ra do tăng đột ngột hậu gánh thất phải  (thuyên tắc phổi, thiếu oxy, toan máu) hoặc do giảm đột ngột khả năng co bóp của RV (nhồi máu cơ tim thất phải, viêm cơ tim, sốc tim sau phẫu thuật). Mỗi tình trạng bệnh lý này đại diện cho những thay đổi khác nhau về huyết động thất phải. Suy tim phải mạn tính thường xảy ra do tăng từ từ hậu gánh TP (do tăng áp  ĐMP) và hay gặp nhất là do  suy tim trái (mặc dù tình trạng quá tải thể tích mạn tính do các tổn thương tim phải như hở ba lá cũng có thể dẫn đến sự phát triển của suy tim phải).

Suy TP cũng thường gặp ở những bệnh nhân suy tim EF bảo tồn (HFpEF). Tuy nhiên, trong nhóm này, rất khó để phân biệt bệnh lý TP nguyên phát hay là hâu quả của TAĐMP thứ phát do suy tim trái (TAĐMP là hậu gánh gây ảnh hưởng đến chức năng TP).

Suy TP trên lâm sàng có thể biểu hiện là một hội chứng STP cấp tính hoặc hội chứng  STP mạn tính, hoặc Hội chứng tim thận, hoặc Hội chứng Tim gan, hoặc các biểu hiện tiêu hóa (do hấp thụ kém) và suy dinh dưỡng.

Đánh giá bệnh nhân STP bao gồm X-quang ngực, điện tâm đồ, chẩn đoán hình ảnh tim (siêu âm tim, chụp cộng hưởng từ tim, chụp cắt lớp vi tính đa dãy, chụp phóng xạ), thông tim / huyết động học, mô hình dự đoán nguy cơ và các dấu ấn sinh học.

Điều trị STP cấp tính bao gồm kiểm soát thể tích dịch (thuốc lợi tiểu, liệu pháp lọc thận thay thế) và liệu pháp vận mạch (thuốc ức chế 5-phosphodiesterase, inotropes, thuốc vận mạch).

 Điều trị STP mạn bao gồm cân nhắc thuốc lợi tiểu, thuốc ức chế men chuyển angiotensin, hydralazine, thuốc chẹn beta, digoxin và thuốc vận mạch (bao gồm cả ức chế 5-phosphodiesterase).

Sử dụng hỗ trợ tuần hoàn cơ học ECMO, các thiết bị tạm thời và vĩnh viễn để hỗ trợ tim phải. Các phẫu thuật khác nên được cân nhắc bao gồm phẫu thuật van ba lá và van ĐMP và phẫu thuật tim.

Chương Trình Tú Tài Quốc Tế Ib

Song song với chương trình trung học phổ thông bình thường, còn có một chương trình phổ thông thi lấy bằng Tú tài Quốc tế IB do Tổ chức IBO cấp bằng.

Chương trình này mở rộng cánh cửa để vào các trường đại học hàng đầu thế giới ở Mỹ, Úc và Canada. Bạn đã bao giờ nghe nói đến chương trình này chưa? Chương trình Tú tài Quốc tế IB? Học chương trình Tú tài Quốc tế IB gồm những môn gì? Học IB có lợi ích gì? Có nên đi du học chương trình này không?

Tất cả những câu hỏi trên sẽ được Du học Green Visa giải đáp trong bài viết này. Bắt đầu!

Chương trình tú tài quốc tế IB là gì?

Chương trình tú tài quốc tế IB, hay tên tiếng Anh International Baccalaureate, là chương trình học cấp bằng tú tài quốc tế do Tổ chức Tú tài Quốc tế (International Baccalaureate Organization, viết tắt IBO) khởi xướng từ năm 1968 tại Thụy Sĩ.

Hiện nay chương trình tú tài quốc tế IB được sử dụng giảng dạy rộng rãi trên toàn thế giới. Hiện có trên 5.000 trường trên khắp thế giới giảng dạy chương trình IB.

IB có 4 chương trình:

Primary Years Programme (PYP): Chương trình dành cho học sinh 3 – 12 tuổi, khởi đầu từ năm 1994.

Middle Years Programme (MYP): Chương trình dành cho học sinh từ 11-16 tuổi, khởi đầu từ năm 1997.

Diploma Programme (DP): Cấp bậc cao nhất của IB dành cho học sinh độ tuổi từ 16 đến 19, khởi đầu từ năm 1968.

Career-related Programme (CP): Tương tự như DP, nhưng CP kết hợp giữa kiến thức trường học và kiến thức nghề nghiệp. Trang bị kiến thức cho học sinh để theo đuổi chương trình giáo dục chuyên sâu hoặc bước vào con đường nghề nghiệp ngay tức thì. Chương trình CP khởi đầu từ năm 2012.

Trong số các chương trình IB thì học sinh quan tâm nhiều nhất đến chương trình IB Diploma Programme, trung học 2 năm trong độ tuổi từ 16 – 19 được giảng dạy phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu.

Chương trình tú tài quốc tế IB được nhiều trường đại học trên thế giới đánh giá cao, được sử dụng làm đầu vào tuyển sinh bậc đại học.

Chương trình IB Diploma Programme là gì?

Chương trình IB Diploma Programme (DP) được các trường đại học trên thế giới đánh giá cao. DP mang tính thử thách học thuật chuẩn bị cho học sinh vào các trường đại học sau này. Hiện có hơn 3.400 trường ở 157 quốc gia trên thế giới cung cấp chương trình đào tạo IB Diploma Programme.

Chương trình IB Diploma Programme nhấn mạnh về kiến thức sâu và rộng, kết hợp giữa:

– Các môn học trong 6 nhóm môn học ở tất cả các lĩnh vực.

– Thành phần lõi bao gồm các môn học:

Lý thuyết nhận thức (theory of knowledge, TOK)

Các hoạt động ngoại khóa (creativity, activity, service, CAS)

Bài luận mở rộng 4.000 từ (Extended essay, EE)

Chương trình tú tài quốc tế được thiết kế với kết cấu các môn học và giáo trình được nhiều trường đại học trên thế giới công nhận và đánh giá cao, đặc biệt ở Mỹ và châu Âu.

Nhóm môn học chương trình tú tài quốc tế IB

Chương trình tú tài quốc tế IB Diploma Programme gồm 6 nhóm môn học được dạy ở hai cấp bậc: Cơ bản (Standard level, SL) và Nâng cao (Higher level, HL). Cả hai bậc đều gồm một khung vấn đề giống nhau. Học sinh được quyền tự chọn cấp bậc để học.

Nhóm 1 – Studies in language and literature: Ngôn ngữ và văn học

Language A: literature-55 languages offered: Ngôn ngữ A: văn học – 55 ngôn ngữ

Language A: language and literature-17 languages offered: Ngôn ngữ A: ngôn ngữ và văn học – 17 ngôn ngữ

Literature and performance (SL only)-3 languages offered: Văn học và trình diễn (Cấp độ tiêu chuẩn)

Nhóm 2 – Language acquisition: Tiếp thu ngôn ngữ

Language B-23 languages offered: Ngôn ngữ B – 23 ngôn ngữ

Language ab initio (SL only)-12 languages offered: Ngôn ngữ vỡ lòng – 12 ngôn ngữ

Classical languages-2 languages offered: Ngôn ngữ cổ điển – 2 ngôn ngữ

Nhóm 3 – Individuals and societies: Cá nhân và xã hội

Business management: Quản trị kinh doanh

Economics: Kinh tế

Environmental systems and societies (SL only): Hệ thống môi trường và xã hội (Cấp độ tiêu chuẩn)

Geography: Địa lý

Global politics: Chính trị toàn cầu

History: Lịch sử

Information technology in a global society: Công nghệ thông tin trong thời đại toàn cầu

Philosophy: Triết học

Psychology: Tâm lý học

Social and cultural anthropology: Nhân chủng học văn hóa và xã hội

World religions (SL only): Tôn giáo thế giới (Cấp độ tiêu chuẩn)

Nhóm 4 – Sciences: Khoa học

Biology: Sinh

Chemistry: Hóa

Computer science: Khoa học máy tính

Design technology: Kỹ thuật thiết kế

Environmental systems and societies (SL only): Hệ thống môi trường và xã hội (cấp độ tiêu chuẩn)

Physics: Vật lý

Sports, exercise and health science (SL only): Thể dục, thể thao và khoa học sức khỏe (Cấp độ tiêu chuẩn)

Nhóm 5 – Mathematics: Toán học

Further mathematics HL: Toán học chuyên sâu nâng cao

Mathematical studies SL: Nghiên cứu toán học tiêu chuẩn

Mathematics SL: Toán học tiêu chuẩn

Mathematics HL: Toán học nâng cao

Nhóm 6 – The arts: Nghệ thuật

Dance: Khiêu vũ

Film: Làm phim

Literature and performance (also studies in language and literature subject group)

Music: Âm nhạc

Theatre: Kịch

Visual arts: Nghệ thuật tạo hình

Học sinh phải chọn 6 môn học, trong đó 5 môn học đầu tiên phải đến từ 5 nhóm đầu tiên trong các nhóm kể trên. Tổ chức IB trực tiếp đánh giá học lực của học sinh trong các môn học chủ yếu bằng các kỳ thi. Điểm số trong năm chỉ chiếm 20% – 30%.

Thành phần lõi IB Diploma Programme

Extended essays (EE): Bài luận mở rộng

Theory of knowledge (TOK): Lý thuyết nhận thức

Lý thuyết nhận thức (TOK) phát triển một cách tiếp cận mạch lạc để học tập thống nhất các ngành học. Trong khóa học về tư duy phê phán này, sinh viên tìm hiểu bản chất của việc nhận biết và đào sâu sự hiểu biết của họ về kiến ​​thức như một công trình của con người.

Môn này bắt buộc trong chương trình IB Diploma Programme, được dạy vào năm thứ 1 hoặc thứ 2.

Creativity, activity, service (CAS): Hoạt động ngoại khóa

Hoạt động ngoại khóa (CAS) giúp sinh viên phát triển bản sắc riêng của bản thân theo nguyên tắc sứ mệnh của IB và người học IB. CAS bổ sung cho chương trình học tập tạo cơ hội cho học sinh tự quyết, hợp tác và vui vẻ.

Ba yếu tố của CAS là sáng tạo (khám phá và mở rộng ý tưởng từ ý tưởng ban đầu hoặc hoàn thiện sản phẩm), hoạt động (nỗ lực thể chất duy trì lối sống lành mạnh) và dịch vụ (tham gia hợp tác và đối ứng với nhu cầu cộng đồng). Trong 2 năm theo học IB, học sinh cần phải tham gia 4 dự án CAS mỗi năm.

Điều kiện tốt nghiệp IB

Có 2 đợt thi IB trong một năm: Tháng 5 và tháng 11

Thang điểm IB

Điểm tối đa mỗi môn học IB, gồm điểm thi và điểm trong năm là 7. Điểm trong năm chiếm 20% – 30%. Như vậy 6 môn học là 42

Tổng điểm tối đa Bài luận mở rộng (EE) và Lý thuyết nhận thức (TOK) là 3

Như vậy tổng điểm tốt nghiệp cao nhất có thể là 45

Để công nhận tốt nghiệp học sinh cần đạt tối thiểu 24 điểm, với tổng điểm 3 môn nâng cao ít nhất 12 điểm. Nếu học sinh bị điểm E cho Lý thuyết nhận thức (TOK) hoặc Bài luận mở rộng (EE) thì học sinh chỉ có thể đậu IB khi tổng điểm đạt ít nhất 28 điểm.

Các yêu cầu khác để nhận được IB là học sinh phải hoàn thành Bài luận mở rộng (EE), Lý thuyết nhận thức (TOK), tối thiểu 150 giờ Hoạt động ngoại khóa (CAS) và hoàn tất 8 dự án CAS trong 2 năm học IB.

Học chương trình tú tài quốc tế IB có lợi ích gì?

Mục đích của IB là đào tạo những người có đầu ốc quốc tế, những cá nhân nhận ra vì nhân loại chung, cùng nhau bảo vệ hành tính và tạo ra một thế giới tốt đẹp và hòa bình hơn. IB nuôi dưỡng sự tò mò, phát triển kỹ năng học tập và nghiên cứu.

Chân dung của học sinh có bằng tú tài quốc tế được IBO miêu tả như sau: Là người có một loạt các năng lực và trách nhiệm vượt xa thành công trong học tập. Cam kết giúp tất cả các thành viên trong cộng đồng nhà trường học cách tôn trọng bản thân, những người khác và thế giới xung quanh.

Mỗi chương trình học IB đều cam kết phát triển học sinh trở thành:

IB Diploma Programme trở thành tiêu chuẩn đầu vào các trường đại học top đầu các nước.

Học chương trình tú tài quốc tế IB ở Việt Nam?

Ở Việt Nam, chương trình tú tài quốc tế IB được giảng dạy phổ biến ở các trường quốc tế. Các trường này tập trung ở 2 thành phố lớn của Việt Nam là Hà Nội và Tp.HCM.

Du học chương trình tú tài quốc tế IB ở Mỹ, Canada, Úc

Du học bậc trung học phổ thông ở các nước có nền giáo dục phát triển là một trong những cách để được học chương trình tú tài quốc tế IB.

Học sinh Việt Nam có thể lựa chọn đến các quốc gia nói tiếng Anh như Mỹ, Canada và Úc. Khi du học chương trình này các em có điều kiện được tiếp cận sớm với cơ sở vật chất giáo dục hiện đại. Từ đó cánh cửa vào những trường đại học top đầu thế giới mở rộng hơn.

Rất nhiều trường đại học nằm trong top 100 thế giới dùng Tú tài quốc tế IB làm công cụ đánh giá năng lực học sinh đầu vào bậc đại học. Đặc biệt khi học sinh đạt điểm cao từ 5 – 7 điểm mỗi môn học còn có chính sách thưởng tín chỉ.

Theo tổ chức IBO hiện nay có hơn 3.400 trường ở 157 quốc gia cung cấp chương trình đào tạo IB Diploma Programme trên toàn thế giới.

https://www.youtube.com/watch?v=U04X4bHMDd4

Hỏi đáp về chương trình tú tài quốc tế IB

Ý kiến giảng viên và học sinh về chương trình tú tài quốc tế IB

Đây là giáo dục nền tảng hiệu quả nhất để bảo đảm cho việc học đại học thành công

Jonathan Burdick, Giám đốc tuyển sinh, University of Rochester, USA

Khi tôi vào môi trường đại học mới, kinh nghiệm mà tôi có được từ chương trình tú tài quốc tế trước đó đã cho tôi tầm nhìn xã để hiểu được sức mạnh của sự chăm chỉ và vượt qua khó khăn

Cựu học sinh tú tài quốc tế Rachon Sweis

Tóm lại, chương trình Tú tài Quốc tế IB cho học sinh phổ thông cơ hội khám phá bản thân, tạo nền tảng kiến thức cần thiết để bước vào giai đoạn đại học. Du học bậc trung học phổ thông ở những trường có đào tạo Tú tài Quốc tế IB chính là con đường nhanh chóng và hiệu quả để tiếp cận các trường đại học top đầu thế giới.

Quý vị có câu hỏi nào về chương trình Tú tài Quốc tế IB cũng như cơ hội dung học bậc trung học phổ thông hãy gọi cho chúng tôi số 0901885300 để được cung cấp thêm thông tin. Cảm ơn!

(Bài viết có tham khảo các tư liệu về IB của IBO)

Lợi Thế Của Chương Trình Tú Tài Quốc Tế (Ib)

CHƯƠNG TRÌNH IB LÀ GÌ?

IB – International Baccalaureate (tú tài quốc tế) là chương trình giáo dục phi lợi nhuận được thành lập vào năm 1968 và chú trọng phát triển vào 4 khía cạnh. Đó là trí tuệ, cá nhân, cảm xúc và các kỹ năng mềm nhằm phát triển khả năng học tập cũng như làm việc trong môi trường toàn cầu hóa hiện nay.

IB được đánh giá cao, đặc biệt bởi các trường đại học trên toàn thế giới. Để được phép mang chương trình IB vào giảng dạy ở bậc trung học, các trường phải đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn giảng dạy và được Tổ chức IB ủy quyền cung cấp khóa học. Hiện nay, Mỹ có 892 trường trung học được phép giảng dạy chương trình bằng tú tài quốc tế (IB Diploma) như The Village School, Windermere Preparatory School, North Broward Preparatory School, Léman Manhattan Preparatory School…

ƯU THẾ CỦA IB TRÊN TOÀN THẾ GIỚI Chương trình IB nói chung và Bằng IB nói riêng luôn được công nhận và hưởng sự ưu ái từ các trường đại học lớn trên thế giới. Đối với học sinh có tham gia các lớp học IB thì luôn có được lợi thế hơn trong việc nhận học bổng, miễn giảm tín chỉ đại học và các yêu cầu tuyển sinh khác của trường đại học.

1. Miễn giảm tín chỉ đại học: Khi học sinh hoàn tất khóa học IB và đạt được bằng IB thì sẽ được miễn giảm tín chỉ khi học chương trình đại học (đặc biệt đối với bang Texas, Mỹ thì được miễn giảm tới 24/30 tín chỉ năm nhất đại học). Các đại học danh tiếng trên thế giới như Yale University, Harvard University, McGill University, University of Melbourne… sẵn sàng miễn giảm tín chỉ cho các học sinh nếu đáp ứng được những yêu cầu về hoàn thành Bằng IB. Nếu học sinh không theo học trọn vẹn chương trình Bằng IB thì có thể chỉ tập trung học các khóa IB theo môn sở trường của bản thân, bằng cách này thì dù không có bằng IB học sinh vẫn được miễn giảm tín chỉ đại học cho các môn IB đã học ở bậc trung học. Chính vì cấu trúc linh hoạt này của chương trình IB nên hầu hết học sinh đều có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí học tập tại đại học. Học sinh của WorldLink – Liêu Huỳnh Hân bắt đầu khóa học IB vào học kỳ 2 lớp 11 và đã đạt được 14 tín chỉ miễn giảm (tương đương nửa năm học) tại trường Đại học Texas A&M (Rank 74)

3. Học bổng Theo các thông kê cho thấy thì học sinh có tham dự các lớp IB luôn được đánh giá cao hơn các học sinh chỉ học theo chương trình tiêu chuẩn và cơ hội nhận được học bổng cũng cao hơn. Tỷ lệ học sinh theo học chương trình IB tốt nghiệp Đại học cũng cao hơn hẳn so với chương trình tiêu chuẩn. Các học sinh IB thông thường thể hiện bản thân rất tốt ở các buổi phỏng vấn cũng như quá trình học tập và hoạt động cộng đồng cũng sôi động hơn hẳn ở các bạn đồng trang lứa.

Chương Trình Tú Tài Quốc Tế Tại Singapore Là Gì? (Ib)

Chương Trình Tú Tài Quốc Tế Tại Singapore Là Gì? (IB)

Đối với quý phụ huynh và học sinh Việt Nam, các chương trình tú tài quốc tế tại Singapore còn khá mới mẻ và xa lạ. Đây chính là một trong những chương trình học được đánh giá cao nhất trong hệ thống giáo giáo dục tại các nước Châu Mỹ, Châu Âu và cả Châu Á hiện nay. 

1. Chương trình Tú Tài Quốc Tế là gì? 

Chương trình này có tên Tiếng Anh là International Baccalaureate, viết tắt là IB. Đây là chương trình học cấp bằng tú tài quốc tế do tổ chức Tú tài quốc tế có tên Tiếng Anh là International Baccalaureate, viết tắt là IBO, khởi xướng từ năm 1968 tại Thụy Sĩ.

Hiện nay, chương trình này được giảng dạy rộng rãi, có trên 5,000 trường trên khắp Thế Giới giảng dạy chương trình IB. Trong đó, Singapore là một trong những quốc gia hàng đầu về chất lượng đào tạo chương trình này. 

Chương trình Tú tài quốc tế là gì?

2. Tại sao nên học chương trình Tú tài quốc tế tại Singapore? 

Đây là chương trình được đánh giá cao từ chất lượng giảng dạy cho đến chất lượng bằng cấp trên toàn Thế giới. Cùng điểm qua những lý do nổi bật của chương trình này đem lại: 

Cơ hội cao vào các trường đại học top đầu trên Thế giới

: Nghiên cứu từ Tổ chức Tú tài quốc tế đã cho thấy rằng học sinh sở hữu bằng IB khi nộp đơn vào các trường đại học Top đầu tại các quốc gia như Mỹ, Anh, Úc, Singapore đều thuận lợi và được đánh giá cao hơn những văn bằng khác. 

Không chỉ là kết quả học tập

: Khi theo học chương trình này, thông qua các hoạt động sáng tạo, học sinh sẽ học được nhiều thứ từ các hoạt động ngoại khóa, từ đó, phát triển đồng đều từ thế chất đến trí tuệ. 

Khả năng độc lập và sự tự tin

: Thông qua các bài luận mở rộng, học sinh chủ động, tự giác hơn trong việc nghiên cứu độc lập. Tự tin hơn trước các buổi thuyết trình cá nhân. 

Chất lượng quốc tế

: đây là chương trình được công nhận toàn cầu bởi các trường đại học danh giá cùng với các đơn vị tuyển dụng uy tín nhất. 

Tầm nhìn toàn cầu hóa

: các lớp học IB khuyến khích học sinh có những tư duy mang tầm vóc quốc tế, đặc biệt các lớp học ngôn ngữ giúp học sinh gia tăng nền tảng xã hội toàn cầu. 

Các môn học kết nối với nhau

: lớp học được khuyến khích kết nối các môn học với nhau. Tạo ra sự liên kết nhất định, giúp học sinh dễ dàng tiếp thu, đem lại kết quả học tập tốt nhất. 

Tại sao nên học IB tại Singapore?

Học cách quản lý thời gian

: các chương trình học đều rèn luyện những kỹ năng quản lý thời gian từ cơ bản đến nâng cao. Từ đó, tạo ra thói quen học tập và làm việc hiệu quả nhất. 

3. Chương trình Tú tài quốc tế tại Singapore gồm những chương trình nào?

Hiện nay, chương trình Tú tài Quốc tế tại Singapore, cũng như các quốc gia khác trên Thế Giới đang cung cấp 4 chương trình đào tạo chính như sau: 

Primary Years Programme (PYP): chương trình dành cho học sinh 3 – 12 tuổi, khởi đầu từ năm 1994. Sau khi hoàn thành chương trình PYP, học sinh sẽ học tiếp chương trình MYP.

Middle Years Programme (MYP): chương trình cho học sinh từ 11 – 16 tuổi, khởi đầu từ năm 1997. Sau khi hoàn thành chương trình MYP, học sinh sẽ học tiếp chương trình DP hoặc CP như bên dưới.

Diploma Programme (DP): Cấp bậc cao nhất của IB dành cho học sinh độ tuổi từ 16 đến 19, khởi đầu từ năm 1968. Sau khi hoàn thành chương trình DP, học sinh có thể nộp hồ sơ vào các trường Đại học/Cao đẳng trên toàn Thế giới. 

Career – related Programme (CP): tương tự như chương trình DP, nhưng chương trình CP kết hợp giữa kiến thức trường học và kiến thức nghề nghiệp. Trang bị kiến thức cho học sinh để theo đuổi chương trình giáo dục chuyên sâu hoặc bước vào con đường nghề nghiệp nhanh nhất. Chương trình CP khởi đầu từ năm 2012. 

Cũng tương tự như ở Bắc Mỹ và Châu Âu, chương trình học IB được học sinh lựa chọn nhiều nhất tại Singapore là chương trình IB Diploma Programme dành cho độ tuổi học sinh từ 16 tới 19 tuổi. 

4. Các kỹ năng mà khóa học IB hướng tới là gì? 

Các chương trình tú tài quốc tế tại Singapore đều rất chú trọng đào tạo phát triển các kỹ năng một cách toàn diện nhất như:

Kỹ năng tư duy: bao gồm các lĩnh vực như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và tư duy đạo đức

Kỹ năng nghiên cứu: bao gồm các kỹ năng như so sánh, đối chiếu, xác thực và ưu tiên thông tin. 

Kỹ năng giao tiếp: bao gồm giao tiếp văn bản và nói, nghe hiệu quả và hình thành tranh luận. 

Các kỹ năng xã hội: bao gồm các lĩnh vực như hình thành và duy trì các mối quan hệ tích cực, kỹ năng lắng nghe và giải quyết xung đột

Kỹ năng tự quản lý: bao gồm tổ chức như quản lý thời gian và nhiệm vụ, kỹ năng quản lý trạng thái và động lực. 

Các kỹ năng mà khóa học IB hướng tới

5. Quy tắc học tập IB mà các bạn du học sinh cần biết?

Số lượng môn học

: 6 môn. Trong đó được chia ra thành các cấp độ cơ bản và nâng cao với phần kiến thức chung tương đối giống nhau, khác nhau ở sự nghiên cứu chuyên sâu hơn. 

Thang điểm

: được biết thang điểm của chương trình IB là từ 0 đến 7: với 6 môn học thì điểm tối đa học sinh nhận được sẽ là 42 điểm. Ngoài ra, học sinh còn có thể nhận được tối đa 3 điểm phụ cho sự tham gia hoạt động ngoại khóa. Và để được nhận bằng IB thì học sinh phải đạt tối thiểu 24/45 điểm.

Tạm kết

Thiên Tú rất hân hạnh được hỗ trợ và đồng hành cùng các bạn trên con đường du học phía trước!

————————————————–

? Công Ty Tư Vấn Du Học Thiên Tú

☎ Hotline: 094 114 1818 – 094 174 2233

Cập nhật thông tin chi tiết về Chương Trình Mục Tiêu Quốc Gia Về Y Tế trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!