Bạn đang xem bài viết Chính Sách Tiền Tệ Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Áp Dụng Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
(thitruongtaichinhtiente.vn) – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã định hướng việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu vẫn còn là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Bài viết cung cấp những bằng chứng thực nghiệm để chỉ ra điểm nghẽn trong việc hướng tới điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.
Tóm tắt: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã định hướng việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu vẫn còn là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Trong bài nghiên cứu này, tác giả cung cấp những bằng chứng thực nghiệm để chỉ ra điểm nghẽn trong việc hướng tới điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu ở Việt Nam chính là công cụ lãi suất (LS).
Từ khoá: chính sách tiền tệ, lạm phát mục tiêu, lãi suất
Inflation targeting monetary policy and its applicability in Vietnam
Abstract: The State Bank of Vietnam has intention of moving to inflation targeting strategy long time ago. However, the adoption of inflation targeting framework in Vietnam is still a challenge. In this paper, the author will provide empirical evidences to prove that the use of interest rate is an obstacle for Vietnam to move to inflation targeting framework.
Key words: monetary policy, inflation targeting, Vietnam
1. Giới thiệu
Lịch sử khoa học cho thấy CSTT lạm phát mục tiêu là sự lựa chọn tối ưu của nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới. Trong một khảo sát của Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) dành cho 88 quốc gia phi công nghiệp (non-industrial countries), hơn một nửa các quốc gia này thể hiện mong muốn chuyển đổi sang cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu trong tương lai và Việt Nam cũng được xếp vào nhóm các quốc gia tiềm năng có khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu (Batini và Laxton, 2006). Quyết tâm chuyển đổi sang cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu thể hiện rõ trong đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ: “Thực hiện điều hành CSTT dựa trên cơ sở điều tiết khối lượng tiền; đồng thời xây dựng các điều kiện cần thiết để chuyển dần sang thực hiện điều hành CSTT trên cơ sở điều tiết LS. Tạo lập các điều kiện cần thiết để sau năm 2010, NHNN chuyển sang điều hành CSTT theo cơ chế lạm phát mục tiêu”. Sau năm 2010, gần 3/4 các quốc gia được IMF đánh giá là những quốc gia có tiềm năng chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu đã thực hiện được mong muốn của họ. Trong khi đó, đến năm 2020 Việt Nam vẫn đang trên con đường tiến tới cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu.
Đối với điều kiện đầu tiên, đã có nghiên cứu thực nghiệm chứng minh được Việt Nam không để xảy ra hiện tượng áp chế tài chính bởi thâm hụt ngân sách ở Việt Nam không phải là nguyên nhân gây ra lạm phát (Nguyen&Nguyen, 2010; Hoang, 2014). Do đó, có thể vướng mắc Việt Nam đang gặp phải là vấn đề độc lập công cụ CSTT để đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát. Cụ thể, Debelle (2001) phân tích những trở ngại thường gặp đối với các nền kinh tế mới nổi khi áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu là ở các quốc gia này mối quan hệ giữa công cụ CSTT và lạm phát thường không rõ ràng. Nếu các NHTW áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu thường sử dụng công cụ gián tiếp là LS để điều hành CSTT thì NHTW ở nhiều nước đang phát triển vẫn sử dụng những công cụ trực tiếp để đưa ra các mệnh lệnh hành chính phục vụ việc điều hành CSTT như hạn mức tín dụng, trần LS huy động. Để làm rõ hơn về vấn đề độc lập công cụ CSTT ở Việt Nam, trong nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung phân tích về mối quan hệ giữa công cụ LS ở Việt Nam và lạm phát để xem xét công cụ này có thực sự hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát như các quốc gia áp dụng lạm phát mục tiêu đang sử dụng. Bên cạnh đó, bài viết cũng xem xét Việt Nam có thoả mãn điều kiện thứ hai hay không?
Theo báo cáo tổng quan Việt Nam 2035 (Ngân hàng Thế giới-WB, 2016), NHNN đang có quá nhiều mục tiêu trong việc điều hành CSTT, trong khi nhiều NHTW trên thế giới chỉ được giao nhiệm vụ ổn định giá cả. Từ năm 2012 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn được kiểm soát ở mức một con số, tuy nhiên, do không có sự cam kết về ổn định giá cả trong dài hạn nên sự kỳ vọng tăng giá cả luôn tồn tại. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu của WB đã đề xuất nên lựa chọn giữa việc quản lý chặt tỷ giá hoặc tập trung vào mục tiêu lạm phát. Mặc dù trong Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 8/3/ 2018 của Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định rõ mục tiêu kiểm soát lạm phát là ưu tiên cao nhất của CSTT Việt Nam, nhưng đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, ổn định tỷ giá vẫn là vấn đề quan trọng cần phải xem xét trước khi Việt Nam áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu. Bởi, nghiên cứu khoa học đã chứng minh tỷ giá là nhân tố quan trọng tác động tới lạm phát ở Việt Nam (Nguyen & Nguyen, 2010). Liệu chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý như thời gian qua của Việt Nam có ảnh hưởng tới việc mục tiêu kiểm soát lạm phát của CSTT hay không? Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ đi sâu phân tích để làm rõ vấn đề này.
2. Cơ sở lý thuyết
Trong một nền kinh tế đóng, các quyết định CSTT tác động tới lạm phát thông qua LS. Lãi suất được điều chỉnh tăng lên sẽ làm cho hộ gia đình và doanh nghiệp tiêu thụ và đầu tư ít lại. LS tăng cũng làm cho các ngân hàng thắt chặt tín dụng, làm cho các cá nhân và doanh nghiệp chi tiêu ít hơn. Khi nền kinh tế chi tiêu ít hơn thì nhu cầu sản xuất ít hơn và ít áp lực lên giá cả (do cầu giảm).
Trong một nền kinh tế mở, tỷ giá là một kênh truyền dẫn khác mà thông qua nó, các quyết định CSTT tác động tới lạm phát và kỳ vọng lạm phát. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi NHTW quyết định thắt chặt CSTT thông qua việc tăng LS thì việc làm này có thể làm tăng giá đồng nội tệ. Cụ thể, LS tăng làm thu hút thêm nhiều dòng vốn đầu tư từ các thị trường khác đổ vào thị trường nội địa. Các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn vào thị trường nội địa nên sẽ có nhu cầu mua nội tệ nhiều hơn. Sự gia tăng nhu cầu đồng nội tệ làm cho đồng nội tệ lên giá. Giả sử các yếu tố khác không đổi, đồng nội tệ sẽ tăng giá cho tới khi chênh lệch giữa LS trong nước và ngoài nước bằng mức độ tăng giá của đồng nội tệ.
Các NHTW điều hành CSTT theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu thường chọn LS làm công cụ chính. Việc điều hành công cụ LS sẽ gặp khó khăn nếu NHTW vừa muốn ổn định tỷ giá, vừa muốn kiểm soát lạm phát. Nếu như không chịu áp lực ổn định tỷ giá thì việc điều hành công cụ LS hướng tới ổn định lạm phát sẽ hiệu quả hơn. Nếu như lạm phát có nguy cơ tăng cao, NHTW sẽ điều chỉnh tăng LS. Từ công thức của lý thuyết ngang bằng LS có bảo hiểm thì giá trị đồng nội tệ sẽ giảm hay tỷ giá sẽ tăng. Nếu như NHTW muốn giữ cho tỷ giá ổn định, nghĩa là không cho tỷ giá tăng, thì việc tăng LS không giúp cho NHTW đạt được mục tiêu này. Do đó, NHTW chỉ có thể chọn 1 trong 2 mục tiêu: ổn định tỷ giá hoặc ổn định lạm phát.
Hình 1 . Cơ chế truyền dẫn của công cụ LS
Dựa trên phân tích, để đánh giá hiệu quả của công cụ LS trong việc điều hành hướng tới kiểm soát LS, tác giả sử dụng mô hình hồi quy vectơ bao gồm các biến như sau: LS, tỷ giá, tổng cầu và lạm phát. Ngoài ra, do hiệu ứng gián tiếp của tỷ giá tác động lên lạm phát thông qua tổng cầu trong nước và ngoài nước, mô hình sẽ tách bạch tác động của tổng cầu trong nước và ngoài nước lên lạm phát. Từ đó, mô hình nghiên cứu có thể đánh giá được mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát (exchange rate pass-through). Mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát càng thấp thì NHTW càng dễ dàng điều hành chính sách hướng đến kiểm soát lạm phát (Choudhri, Faruqee & Hakura, 2005).
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1.Biến nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu trong bài báo này thực chất là mô hình phản ánh cơ chế dẫn truyền của CSTT thông qua công cụ LS. Mô hình này cũng đã được áp dụng nghiên cứu ở Tunisia (Boughrara, 2007). Mô hình nghiên cứu gồm 5 biến số cần được thu thập dữ liệu như sau:
– Biến LS: Có nhiều loại LS trong một nền kinh tế, tuy nhiên, LS được chọn trong mô hình này là LS được lựa chọn và quyết định bởi NHTW làm cơ sở cho những loại LS khác trên thị trường.
– Biến tỷ giá: Tỷ giá danh nghĩa sẽ được chọn là đại diện cho biến tỷ giá trong mô hình.
– Biến lạm phát: Chỉ số lạm phát được sử dụng trong nghiên cứu là chỉ số lạm phát toàn phần (Headline Inflation).
– Biến tổng cầu trong nước: Chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam được chọn là biến đại diện cho tổng cầu trong nước.
– Biến tổng cầu nước ngoài: Nghiên cứu sử dụng thêm biến chỉ số sản xuất công nghiệp Mỹ đại diện cho tổng cầu nước ngoài.
3.2.Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu về các biến số nghiên cứu đều được thu thập theo tháng, trong khoảng thời gian từ tháng 1/2011 tới tháng 6/2018. Số liệu nghiên cứu trong bài báo được trích từ nguồn dữ liệu IFS của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nguồn dữ liệu của NHNN và nguồn dữ liệu ARIC của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Bảng 1. Tổng hợp các biến số nghiên cứu
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
3.3.Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã thiết lập mô hình hồi quy vector gồm 5 biến: lạm phát, LS, tỷ giá, tổng cầu trong nước và tổng cầu nước ngoài. Bản chất mô hình này là mô hình phản ảnh cơ chế dẫn truyền CSTT của công cụ LS. Có nhiều loại LS khác nhau, tuy nhiên, LS đại diện cho công cụ LS của NHTW là LS chính sách (LS do NHTW quyết định và công bố để làm cơ sở cho các loại LS khác trên thị trường). Trong trường hợp của Việt Nam, NHTW quyết định và công bố 2 loại LS chính sách là LS tái cấp vốn và LS tái chiết khấu. Do có 2 loại LS đóng vai trò LS chính sách nên tác giả xây dựng 2 mô hình để kiểm định vai trò của 2 loại LS này. Do các chuỗi dữ liệu trong nghiên cứu đều dừng ở sai phân bậc 1 nên tác giả vận dụng mô hình hiệu chỉnh sai số VECM trong việc phân tích dữ liệu. Kết quả phân tích từ hàm phản ứng đẩy và phân rã phương sai sẽ cho thấy công cụ LS ở Việt Nam có thực sự tác động tới lạm phát hay không cũng như tác động của LS tới tỷ giá. Toàn bộ dữ liệu nghiên cứu được xử lý trên phần mềm Stata14. Kết hợp với các phân tích định tính, tác giả sẽ đối chiếu các kết quả nghiên cứu định lượng có phù hợp với thực trạng hiện nay ở Việt Nam hay không. Cuối cùng, dựa trên các kết quả nghiên cứu định lượng và định tính, tác giả đưa ra những đánh giá về khả năng áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.
3.4. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất: Ở Việt Nam, tồn tại mối quan hệ giữa công cụ LS và lạm phát.
Giả thuyết nghiên cứu thứ hai: Việc điều hành công cụ LS chỉ hướng tới việc kiểm soát lạm phát.
Nếu như kết quả nghiên cứu từ mô hình đúng như 2 giả thuyết nêu trên thì Việt Nam thoả mãn điều kiện áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu. Trong trường hợp ngược lại, Việt Nam chưa thoả mãn điều kiện để áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kết quả thống kê
Mô hình nghiên cứu thứ nhất bao gồm 5 biến: LS tái cấp vốn (R1), tỷ giá (EX), lạm phát (INFLATION), chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam (IPVN) và chỉ số sản xuất công nghiệp Mỹ (IPUS). Số quan sát của 5 chuỗi dữ liệu là 90.
Kết quả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình được tính toán từ phần mềm Stata như sau:
Bảng 2.1. Thống kê các biến trong mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.2. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu
Để kiểm tra tính dừng của các chuỗi số liệu, tác giả thực hiện kiểm định nghiệm Dickey-Fuller. Với các chuỗi số liệu thu thập được, kết quả kiểm định Dickey Fuller chỉ rõ các chuỗi dữ liệu không dừng ở bậc 0 (do giá trị thống kê lớn hơn mức ý nghĩa 10%). Tuy nhiên, sai phân bậc 1 của các chuỗi dữ liệu đều dừng hay tích hợp bậc 1, I (1), trong khoảng tin cậy 99% (do giá trị thống kê nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%). Kết quả kiểm định được thể hiện cụ thể ở bảng 2.2.
Bảng 2.2. Kiểm định tính dừng chuỗi dữ liệu của mô hình thứ nhất
Ghi chú: ***: Mức ý nghĩa 1%; **: Mức ý nghĩa 5%; *: Mức ý nghĩa 10%
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.3. Xác định độ trễ tối ưu của các chuỗi dữ liệu
Kết quả tính toán lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình được thực hiện trên phần mềm Stata 14 như sau:
Nếu chọn độ trễ tối ưu dựa trên tiêu chuẩn AIC thì độ trễ tối ưu của mô hình là 1, tức là giá trị hiện tại của biến hiện tại chịu tác động của các biến trễ của 1 tháng trước đó.
Bảng 2.3. Xác định độ trễ tối ưu mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.4. Kiểm định đồng liên kết
Sau khi xác định độ trễ tối ưu, tác giả tiến hành đồng liên kết theo phương pháp Johansen. Kết quả tính toán từ phần mềm Stata 14 như sau:
Bảng 2.4. Kết quả kiểm định Johansen dành cho mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.5. Kết quả phân tích cú sốc và phân rã phương sai
Để tiếp tục kiểm tra mối quan hệ giữa lạm phát và các công cụ chính sách tiền tệ, tác giả tiếp tục thực hiện phân tích các cú sốc thông qua hàm phản ứng đẩy IRF với lựa chọn độ dài chu kỳ là 24 tháng (độ trễ này thấy ảnh hưởng rõ ràng của các quyết định chính sách) (hình 2). Kết quả bất ngờ là lạm phát dường như hoàn toàn không phản ứng trước các cú sốc từ LS tái cấp vốn (R1) (đường lạm phát nằm trùng với trục Ox). Trong khi đó, tỷ giá lại phản ứng mạnh trước cú sốc LS. Như vậy, việc điều chỉnh LS tái cấp vốn có thể không ảnh hưởng nhiều tới lạm phát nhưng lại ảnh hưởng tới tỷ giá. Hình 2 còn cho thấy sự thay đổi của LS tái cấp vốn dường như hoàn toàn không tác động tới tổng cầu. Kết quả này có thể cho thấy rằng việc điều hành công cụ LS ở Việt Nam hướng về mục tiêu ổn định tỷ giá nhiều hơn là kiểm soát lạm phát. Đây cũng là bằng chứng cho thấy NHNN ưu tiên mục tiêu ổn định tỷ giá nhiều hơn mục tiêu kiểm soát lạm phát. Khi kiểm soát lạm phát chưa phải là mục tiêu ưu tiên trong việc điều hành của NHTW thì khuôn khổ điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu chưa thể áp dụng.
Hình 2. Kết quả phân tích cú sốc LS tái cấp vốn (R1)
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
Kết quả phân rã phương sai cũng cho thấy công cụ LS tái cấp vốn đóng góp rất ít vào việc giải thích sự thay đổi của lạm phát. Ở kỳ 12 (cuối năm đầu tiên kể từ khi có cú sốc LS), sự thay đổi của lạm phát chỉ được giải thích 2,6% bởi sự thay đổi của LS tái cấp vốn. Ở kỳ 24 (cuối năm thứ hai kể từ khi có cú sốc LS), mức độ giải thích về sự thay đổi của lạm phát từ sự thay đổi của LS tái cấp lại càng giảm đi (chỉ còn 1,6%). Đây là bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa công cụ LS tái cấp vốn và lạm phát ở Việt Nam là rất yếu.
Ngoài ra, một kết quả nổi bật từ kết quả phân rã phương sai, tỷ giá cũng đóng góp rất nhỏ vào sự thay đổi của lạm phát. Cụ thể, mức độ giải thích của tỷ giá lần lượt là 2,1% (kỳ 12) và 3,3% (kỳ 24). Đây là kết quả đáng mừng bởi kết quả này cho thấy mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát là rất nhỏ. Đây là minh chứng cho thấy NHNN có thể tập trung cải thiện hiệu quả điều hành công cụ LS hướng tới kiểm soát lạm phát mà không sợ ảnh hưởng của tỷ giá.
Trong trường hợp LS tái chiết khấu (R2) chọn làm biến đại diện cho biến LS chính sách, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy LS tái chiết khấu ở Việt Nam dường như không tác động tới lạm phát. Ngoài ra, sự thay đổi của LS chính sách có tác động tới sự thay đổi của tỷ giá, nghĩa là việc điều hành công cụ LS chính sách ở Việt Nam có thể hướng tới việc ổn định tỷ giá hơn là ổn định giá cả. Những kết quả nghiên cứu này lần lượt bác bỏ 2 giả thuyết nghiên cứu ở trên. Điều này cũng đồng nghĩa Việt Nam chưa thoả mãn điều kiện áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu.
5. Kết luận
Kết quả nghiên cứu từ mô hình cho thấy việc điều hành công cụ LS bao gồm LS tái cấp vốn và LS tái chiết khẩu để hướng tới kiểm soát lạm phát không thực sự hiệu quả. Điều này thể hiện qua kết quả nghiên cứu: Mối quan hệ giữa lạm phát và công cụ LS rất yếu. Đây là minh chứng cho thấy công cụ LS không thực sự hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát sẽ gây ra khó khăn cho việc hướng tới điều hành CSTT theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy công cụ LS chính sách ở Việt Nam tác động tới tỷ giá rất lớn. Điều này cho thấy có thể trong thời gian qua, việc điều hành LS hướng tới việc ổn định tỷ giá nhiều hơn so với việc ổn định giá cả. Tất cả những kết quả nghiên cứu này đều bác bỏ 2 giả thuyết nghiên cứu, đồng nghĩa Việt Nam vẫn chưa thoả mãn 2 điều kiện tiền cơ bản cần đạt được trước khi áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu do nhóm nghiên cứu IMF đưa ra. Tuy nhiên, dựa trên kinh nghiệm các nước áp dụng lạm phát mục tiêu thì Việt Nam vẫn có cơ hội để áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu bởi nhiều quốc gia trên thế giới vẫn áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu khi không thoả mãn những điều kiện tiền đề.
– Batini, N., & Laxton, D. (2006). Under what conditions can inflation targeting be adopted? The experience of emerging markets. Central bank of Chile.
– Boughrara, A. (2007). Can Tunisia move to inflation targeting?. The developing Economies, 45(1), 27-62.
– Choudhri, E. U., Faruqee, H., & Hakura, D. (2005). Explaining the exchange rate pass-through in different prices. Journal of International Economics, 65(2), 349-374.
– Debelle, G., Masson, P., Savastano, M., & Sharma, S. (1998). Inflation targeting as a monetary policy framework. International Monetary Fund, October. Retrieved from https://www.imf.org/external/pubs/ft/issues/issues15/index.htm
– Debelle, G. (2001). The case for inflation targeting in East Asian countries in Future directions for monetary policies in East Asia, Gruen D., Simon J. (Eds), Reserve Bank of Australia. 65-87.
– Hoang, V. K. (2014). Budget Deficit, Money Growth and Inflation: Empirical evidence from Vietnam. MPRA Working paper.
– Ngân hàng thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam (2016). Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035.
– Nguyen, T.T.H., & Nguyen, D.T. (2010). Macroeconomic determinants of Vietnam’s inflation 2000-2010: Evidence and analysis. VEPR Working Paper WP-09.
Chính Sách Tiền Tệ Theo Mục Tiêu Lạm Phát
Theo ông, nên hiểu thế nào là chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát?
Chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát (inflation targeting monetary policy) về bản chất phải dựa vào một số tiền đề và quan trọng nhất là NHNN phải đưa ra một tỷ lệ lạm phát cụ thể nào đó. Ví dụ ở Mỹ, NHTW (Fed) đưa ra tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2%, nghĩa là cơ quan này sẽ điều chỉnh lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ khác để làm sao lạm phát xoay quanh mức 2% đó. Nếu giá cả tăng cao hơn mục tiêu lạm phát thì Fed sẽ tăng lãi suất để giảm cho vay và do đó giảm lượng tiền đi vào lưu thông, đồng thời giảm tỷ lệ lạm phát thực tế, còn ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn lạm phát mục tiêu thì Fed sẽ giảm lãi suất xuống để cho vay nhiều hơn, đẩy lượng tiền vào lưu thông và do đó tăng lạm phát thực tế.
Điều này cũng giúp cho DN khi thấy được tỷ lệ lạm phát thực tế không khớp với mục tiêu lạm phát sẽ dự đoán được NHTW sẽ làm gì. Bên cạnh đó, cần có những tiền đề là hệ thống ngân hàng minh bạch thông suốt, lãi suất vận hành tự do, cạnh tranh lành mạnh.
Mô hình chính sách này có lợi và bất lợi gì?
Điểm lợi là lạm phát sẽ được kiểm soát chặt chẽ vì lãi suất và chính sách tiền tệ chủ yếu xoay quanh việc kiểm soát lạm phát. Điểm bất lợi là có thể sẽ làm cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trở thành thứ yếu vì tất cả mục tiêu ưu tiên là kiểm soát lạm phát và ổn định đồng nội tệ. Trong khi ở Việt Nam, bên cạnh yêu cầu kiểm soát lạm phát thì tăng trưởng cũng là mục tiêu rất quan trọng. Trong một nền kinh tế non trẻ, tăng trưởng thấp sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề về kinh tế, dân sinh và xã hội. Vì thế, không thể để kinh tế tăng trưởng dưới mức 5%. Tuy nhiên, khi có điều kiện để thực hiện chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát thì nên thi hành để giữ bình ổn giá trị đồng Việt Nam, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong ổn định.
Việt Nam có hội đủ điều kiện để theo đuổi chính sách này hay không, theo ông?
Từ trước đến giờ, Việt Nam chưa bao giờ đưa ra mục tiêu cụ thể theo đuổi chính sách này vì hình như chưa hội đủ điều kiện để thực hiện. NHTW chưa bao giờ đưa ra một mục tiêu lạm phát mà chỉ có Quốc hội làm việc này, nhưng ngay cả khi Quốc hội đề ra một mục tiêu lạm phát thì NHTW cũng chưa bao giờ tuyên bố đó là mục tiêu theo đuổi của chính sách tiền tệ.
Hiện tại, lạm phát và lãi suất ở Việt Nam hầu như không có mối liên kết chặt chẽ. Trong khi lãi suất đã được điều chỉnh rất sâu nhưng các doanh nghiệp không có khả năng vay và do đó hệ thống ngân hàng không đẩy được một lượng tiền lớn vào lưu thông qua tín dụng. Vậy là lãi suất đã không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát. Nói cách khác, công cụ lãi suất đã bị vô hiệu hóa bởi hoạt động sản xuất kinh doanh suy giảm tới mức nhiều doanh nghiệp không muốn vay hay không còn khả năng vay vốn từ các ngân hàng.
Trong thời gian qua, lãi suất và lạm phát cùng giảm rất sâu. Đây là một điều rất tốt mà NHNN đã thực hiện được. Tuy nhiên, hình như lãi suất đi sau lạm phát chứ không phải đi trước lạm phát. Nghĩa là lạm phát bị đẩy xuống không phải do lãi suất giảm mà do sức cầu rất yếu của nền kinh tế. Sau đó, trên cơ sở lạm phát giảm, lãi suất đã được kéo xuống. Đây là một nghịch lý.
Từ thực tế trên, có thể nói, môi trường tài chính hiện nay của Việt Nam không thích hợp cho một chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát.
Bao giờ thì Việt Nam có thể sử dụng chính sách này?
Việt Nam nên theo đuổi chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát tại một thời điểm thích hợp khi mà các điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi hơn, cùng với hệ thống ngân hàng và tài chính phải được tái cơ cấu để trở nên thông suốt, minh bạch, và những yếu tố làm méo mó thị trường như các biện pháp hành chính, các kiểu cạnh tranh không lành mạnh, đến việc vi phạm các quy định của pháp luật và của NHTW phải được giảm thiểu tối đa. Tại thời điểm này, không những chúng ta quan tâm đến kiềm chế lạm phát mà còn phải nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu chúng ta quan tâm quá nhiều đến lạm phát mà kinh tế càng ngày càng đi vào khủng hoảng thì có khác nào một tình cảnh mà người Mỹ hay ví von: “chúc mừng anh, cuộc giải phẫu thành công tốt đẹp nhưng bệnh nhân đã chết”.
Tái cơ cấu cả nền kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng khỏe mạnh để cả nền kinh tế được vận hành một cách quy củ, từ đó, lãi suất mới trở thành một công cụ hiệu lực của chính sách tiền tệ thì lúc đó mới có thể thực hiện “chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát”.
Chính Sách Tiền Tệ Là Gì? Mục Tiêu Của Chính Sách Tiền Tệ
Tùy thuộc điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: Chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng – chính sách tiền tệ chống thất nghiệp); hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng – chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại…
Đối với Ngân Hàng Trung Ương (NHTW), việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền
NHTW thông qua Chính sách tiền tệ có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ).
Tuy vậy, Chính sách tiền tệ hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng không, vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được. Trong điều kiện nền kinh tế trì trệ thì kiểm soát lạm phát ở một tỷ lệ hợp lý (thường ở mức một con số) sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế trở lại.
Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát gia tăng.
Giữa các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện Chính sách tiền tệ cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Phần lớn NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của chính sách tiền tệ.
4. Tổng hợp 6 Công cụ của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ gồm 6 công cụ chính sau:
Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại, Khi cấp khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo ra cơ sở của Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
Là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Qua bài viết trên, hi vọng sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn chính sách tiền tệ là gì? Các công cụ của chính sách tiền tệ. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào trong quá trình tìm hiểu vấn đề này, hãy liên hệ với chúng tôi theo hotline: 0915 686 999 hoặc email qua địa chỉ: luanvanviet.group@gmail.com để được tư vấn và giải đáp.
Khái Niệm Và Vai Trò Của Chính Sách Tiền Tệ Trong Việc Kiểm Soát Lạm Phát
– Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
– Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kỳ tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá .
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào thành phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khoá của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền KTQD, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tần cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế , tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng thương mại, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá .
Chính vì vậy chính sách tiến tệ tác động nhạy bén tới lạm phát và đây là giải pháp khá hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát.
Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm hiểu từng công cụ một của chính sách tiền tệ.
Dự trữ bắt buộc
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phưong tiện thanh toán cần khống chế (bị “vô hiệu hoá” về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát triển , có nền kinh tế ổn định)
Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, ngân hàng trung ương đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách “nới lỏng” hay “thắt chặt” tín dụng mà ngân hàng trung ương quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó. Khi ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại cũng phải nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm “cầu” về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu tư giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Trường hợp ngược lại tức là ngân hàng trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nước công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu, hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết khả năng thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế. Cho nên có thể ví công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy. Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền cho nền kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát.
Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó lãi suất cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát lạm phát.
Hoạt động thị trường mở
Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu… đến để xin “tái cấp vốn” thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối lượng tiền, qua đó đã kiểm soát được lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát , việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng thông qua “giá cả” mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào khối lượng tiền bằng công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô hình, “không can thiệp thô bạo”, điều khiển mạnh mà không chứa đựng “một chút mệnh lệnh”. Một mặt nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, như khi thấy cung tiền tệ tăng hoặc giảm quá nhanh ngân hàng thương mại có thể lập tức đảo ngược lại bằng cách bán trái phiếu hoặc mua trái phiếu và ngược lại.
Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng.
Nhưng ở nước ta đang ở trong thời kỳ đặt nền móng. Bởi vì nghiệp vụ này đòi hỏi phải có môi trường pháp lý nhất định. Trong thời kỳ lạm phát đến 3 con số, Việt nam đã áp dụng chính sách lãi suất để đẩy lùi lạm phát rất nhanh chóng. (nhờ vào đặc điểm riêng biệt của lạm phát ở Việt nam). Chúng ta sẽ nghiên cứu xem chính sách lãi suất tác động tới lạm phát như thế nào.
Lãi suất
Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tuỳ theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tác động làm thay đổi cầu tiền tệ trong dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi có lạm phát. Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng chúng ta biết rằng i n= i i + i r trong đó i n là tỷ lệ lãi suất danh nghĩa, i l: tỷ lệ lãi suất thực tế và i i là tỷ lệ lạm phát, do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính là việc tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực dương) qua đó mới tạo được cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm lại khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào NHTM và ngược lại. NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm được khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng người vay vì kinh doanh bằng vốn vay NHTM không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của NHTM để đạt được mục đích của chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ lạm phát). Tuỳ từng thời điểm mà chính sách lãi suất được áp dụng thành công trong việc chống lạm phát. Ở Việt nam đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suất vào những năm cuối thập kỷ 80 trong việc giảm tỷ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở nước ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ có tác động trong nước đầu tư bằng Việt nam đồng chứ quốc tế ít đầu tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài . Trong việc kiểm soát lạm phát đây là công cụ cổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công cụ rất quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và huy động vốn cũng như cung cấp vốn.
Hạn mức tín dụng
Ngoài những công cụ cơ bản trên, ngân hàng nhà nước còn sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để điều hành, làm cho khối lượng tín dụng đối với NHTM không vượt quá mức cho phép để từ đó bảo đảm mức lạm phát đã được phê duyệt. Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ. Đây là một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến khối lượng tiền trung ương được cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối với các NHTM. Khi hạn mức tín dụng giảm, dẫn tới cung tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm làm cho tổng cầu giảm và cuối cùng là giá giảm. Với mục tiêu ổn định đồng tiền và chống lạm phát được coi là mục tiêu số 1, thì công cụ hạn mức tín dụng là cần thiết. Song việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng cũng là vấn đề khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng thương mại. Tiền gửi của nhân dân không thể không thu nhận hàng ngày hàng giờ. Nếu nhận tiền gửi mà không được cho vay thì chẳng khác nào có đầu vào mà không có đầu ra. Như vậy đầu ra của vốn huy động bị bế tắc bởi hạn mức tín dụng. Việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết, để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng có những mặt trái gây khó khăn cho NHTM. Cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn đó.
Cập nhật thông tin chi tiết về Chính Sách Tiền Tệ Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Áp Dụng Ở Việt Nam trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!