Xu Hướng 3/2023 # Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Thực Thi Tại Việt Nam # Top 11 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Thực Thi Tại Việt Nam # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Thực Thi Tại Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Ngày 27/9/2011 Bộ Tài chính đề xuất gói 6 giải pháp kiềm chế lạm phát trong đó đề cập đến chính sách lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting Policy – ITP) và xác định là chiến lược để NHNN áp dụng trong thời gian tới sau khi áp lực lạm phát giảm bớt.

Vậy chính sách lạm phát mục tiêu là gì và những điều kiện để áp dụng thành công ở Việt nam là gì? Bài viết này sẽ tập trung phân tích những thuận lợi, khó khăn và đánh giá khả năng thành công khi chính sách ITP áp dụng tại Việt nam

Chính sách lạm phát mục tiêu được hiểu là chính sách mà ngân hàng trung ương sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát trong một thời gian khá dài (thường là 5 năm) và được quyền chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, tỷ giá .v.v để đạt mục tiêu đó. Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu như trong quá trình thực hiện lạm phát sẽ vận động xoay quanh mức mục tiêu đã đề ra.

Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và các nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác ổn định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát mục tiêu có thể có những điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh có thể không quá lớn so với định hướng dài hạn đã xác định từ thời gian trước.

Vậy những điều kiện nào thì chính sách lạm phát mục tiêu có thể có hiệu quả?

Theo Debelle et al. (1998) để thực hiện chính sách này, các quốc gia cần có:

(i) sự độc lập nhất định của ngân hàng trung ương, ít nhất là trong việc chủ động sử dụng các công cụ và chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương không chịu áp lực phải in tiền để mua trái phiếu chính phủ phát hành nữa ;

(ii) yêu cầu thứ 2 là sự chủ động của ngân hàng trung ương không phải thực thi các mục tiêu khác như tăng trưởng, việc làm, hay tỷ giá hối đoái. Đối với các nước thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái cố định thì rõ ràng chính sách ITP hoàn toàn không khả thi.

Cũng theo Debelle et al. (1998), một quốc gia sau khi đạt được hai tiêu chí trên thì phải xây dựng một lộ trình thực hiện chính sách ITP. Trước hết, Ngân hàng trung ương phải xác định một mức lạm phát mục tiêu cụ thể trong giai đoạn trước mắt (ví dụ 7% hay 8%) và phải đưa ra một thông điệp rõ ràng và minh bạch với thị trường rằng chúng tôi sẽ thực hiện để đạt được mục tiêu này trong thời gian nhất định. Đồng thời, Ngân hàng trung ương sẽ đưa ra những công thức mô hình tính toán cụ thể để có cơ chế dự báo lạm phát và các chính sách có thể phải điều chỉnh một khi mục tiêu của lạm phát không đạt được. Điểm cơ bản nhất của chính sách này chủ yếu là cơ chế giao thiệp của Ngân hàng trung ương với thị trường càng rõ ràng, thì thị trường sẽ hiểu được cơ chế hoạt động, cơ chế điều hành chính sách của ngân hàng trung ương và sẽ có những phản ứng phù hợp và làm tăng hiệu ứng của các chính sách điều tiết của ngân hàng trung ương khi không đạt mục tiêu của lạm phát.

Cái điểm khác biệt chính giữa chính sách lạm phát mục tiêu với chính sách xử lý lạm phát khác chính là có một mô hình một cơ chế xử lý cụ thể và định lượng được để dự báo lạm phát cũng như dự báo xu hướng lạm phát. Chính sách lạm phát mục tiêu là chính sách xác định mục tiêu lạm phát, xác định cơ chế dự báo cơ chế điều tiết kinh tế để đạt mục tiêu đó với nhiều vấn đề mang tính toán kỹ thuật nhiều hơn. Như vậy lạm phát mục tiêu có thể khiến chính sách điều tiết kinh tế của Ngân hàng trung ương cứng nhắc hơn và thiên về xu hướng kỹ trị nhiều hơn.

Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách ITP khá thành công như New Zealand, Canada, Anh, Phần Lan, Thụy điển, Úc, Tây Ban nha. Ví dụ New Zealand là quốc gia khá thành công với lạm phát mục tiêu khi trong một thời gian dài những năm 2000 nước này xây dựng cơ chế để đạt mục tiêu lạm phát 2% và họ đã khá thành công.

Khả năng áp dụng ở Việt nam

Qua những phân tích về chính sách lạm phát mục tiêu ở trên, có một số điểm cần lưu ý khi  áp dụng chính sách này ở Việt Nam

Thứ nhất, sự chủ động của ngân hàng trung ương. Trong một thời kỳ dài vừa qua, ngân hàng nhà nước với tư cách là ngân hàng trung ương của Việt nam luôn là thành viên của Chính phủ. Do vậy, có hạn chế về mặt độc lập để đưa ra chính sách tiền tệ. NHNN khó có thể từ chối những lời đề nghị bơm tiền tạo thanh khoản và hỗ trợ tăng trưởng của các thành viên khác của Chính phủ được. Ngoài ra, sự chủ động của NHNN hiện nay còn hạn chế khi các chỉ tiêu hàng năm được xây dựng và gần như là áp đặt cho NHNN như tăng trưởng tín dụng; tổng phương tiện thanh toán; dự trữ ngoại hối; tỷ giá.

Thứ hai, Cơ chế đối thoại và xây dựng mục tiêu lạm phát. Đây là điều kiện 2, tưởng chừng như đơn giản nhưng khá khó khăn đối với tình hình Việt nam trong thời gian tới. Điều kiện này đòi hỏi cơ chế minh bạch thông tin vĩ mô. Hiện nay thị trường gặp rất nhiều khó khăn để tiếp cận những thông tin vĩ mô, và thị trường càng không biết được cơ chế kỹ trị của NHNN. Như vậy, để xây dựng được chính sách ITP, giao thức truyền thông thông suốt của cả hệ thống tài chính và thị trường phải được thực hiện.

Thứ ba, Sự cần thiết của việc áp dụng chính sách ITP. Mặc dù lạm phát là điều xấu, nhưng nếu không có lạm phát chưa chắc sẽ tốt cho nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển như Việt nam. Trong vài năm tới, có thể Việt nam chưa bước vào nhóm những nước phát triển, nên các chính sách để tăng cường nghiên cứu phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng.v.v. cần phải xây dựng. Một nền kinh tế có thể tăng trưởng được khi những kỳ vọng tăng giá vẫn còn và người dân vẫn tích cực tham gia vào quá trinh tích lũy và đầu tư. Nếu bước vào xã hội tiêu dùng quá sớm có thể ngăn cản một phần việc tích lũy xã hội và hạn chế đầu tư xã hội.

Như vậy, với những phân tích trên, cần phải một thời gian nữa thì chính sách ITP mới nên được áp dụng tại Việt nam. Có lẽ, áp dụng một phần của chính sách như là xác định một mục tiêu cụ thể mà tạm thời chưa xây dựng cơ chế đối thoại giữa NHNN và thị trường cũng có thể chấp nhận được.

Nguồn: http://www.finance.tvsi.com.vn

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Khả Năng Áp Dụng Chính Sách Tiền Tệ Lạm Phát Mục Tiêu Ở Việt Nam (Phần 1) – Trang Ngoại Giao Kinh Tế

Tóm tắt: Bài nghiên cứu tập hợp lý thuyết và thực tiễn về chế độ lạm phát mục tiêu trên thế giới trong thời gian qua, từ đó rút ra các ưu nhược điểm và một số điều kiện tiên quyết quan trọng cho việc áp dụng chế độ chính sách tiền tệ này. Các điều kiện tiên quyết này được kiểm nghiệm xem xét tại Việt Nam để chỉ ra chúng ta đã thiết lập được những nền tảng phù hợp cho việc chuyển đổi hay chưa. Cuối cùng, nhóm tác giả xây dựng lộ trình và đề xuất một số thiết lập kỹ thuật cho việc áp dụng chính sách tiền tệ (CSTT) lạm phát mục tiêu ở Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của một số quốc gia khác.

 1. Giới thiệu

Theo trường phái kinh tế học Keynes mới, kỳ vọng hợp lý là một nhân tố quan trọng quyết định hành vi của công chúng, vì vậy các nhà hoạch định chính sách sẽ thu được các kết quả chính sách tốt hơn nếu họ có thể đánh giá và kiểm soát được nhân tố này một cách chủ động. Dựa trên nền tảng đó, trường phái Keynes mới gợi ý rằng Ngân hàng Trung ương (NHTW) không những cần đưa ra chính sách phù hợp trong từng tình hình cụ thể mà còn phải trao đổi thông tin một cách hiệu quả với công chúng để có thể định hướng kỳ vọng của họ. Một khi kỳ vọng được quản lý tốt, CSTT sẽ trở nên hiệu quả hơn và cái giá phải trả cho việc theo đuổi một CSTT chống lạm phát sẽ là thấp hơn. Lạm phát mục tiêu (LPMT) là một chế độ CSTT thành công hiện nay thỏa mãn vấn đề trao đổi thông tin và quản lý kỳ vọng như vậy. Dưới chế độ LPMT, khả năng trao đổi thông tin giữa tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng thời việc quản lý tốt được lạm phát dưới chế độ LPMT bản thân nó cũng giúp xác lập uy tín cho CSTT, khiến việc định hướng kỳ vọng của CSTT trong tương lai trở nên dễ dàng hơn. Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả đánh giá xu hướng phát triển của chế độ LPMT trên thế giới những năm gần đây, tổng hợp kinh nghiệm áp dụng thành công ở nhiều quốc gia và áp dụng chúng lên nền kinh tế Việt Nam để trả lời cho câu hỏi: liệu Việt Nam đã đủ điều kiện để chuyển đổi sang khuôn khổ chính sách tiền tệ mới này hay chưa?

Khái niệm chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

        2.1 Định nghĩa chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

Theo Mishkin (2012), lạm phát mục tiêu là một khuôn khổ điều hành CSTT mà ở đó NHTW tuân theo các nguyên tắc sau: i) thông báo ra công chúng về mục tiêu lạm phát trung hạn; ii) cam kết việc ổn định giá cả sẽ là mục tiêu dài hạn và hàng đầu của CSTT, cũng như cam kết việc thực hiện mục tiêu lạm phát; iii) sử dụng nhiều biến số (không chỉ riêng khối tiền) trong quá trình ra quyết định CSTT; iv) tăng tính minh bạch thông qua việc trao đổi thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của CSTT với công chúng; và v) tăng trách nhiệm giải trình của NHTW trong việc thực hiện mục tiêu lạm phát. Xét trên góc độ nội hàm, định nghĩa này cho thấy CSTT LPMT bao gồm các thành tố về thông tin, trách nhiệm và kỹ thuật. Về mặt thông tin, NHTW dựa trên các phương tiện thông tin đại chúng, các báo cáo chính thức, ấn phẩm… để truyền tải một cách rộng rãi và hiệu quả nhất mục tiêu lạm phát trung hạn của mình đến với công chúng. Thông thường sẽ là chỉ tiêu lạm phát dự kiến trong một vài năm tiếp theo và chỉ tiêu đó nằm trong một khoảng biên độ nhất định.

          2.2 Các mục tiêu khác của CSTT dưới chế độ lạm phát mục tiêu

Dưới chế độ LPMT, lạm phát là mục tiêu hàng đầu của CSTT nhưng không có nghĩa nó là mục tiêu duy nhất. Việc coi chế độ LPMT chỉ tập trung hoàn toàn vào kiểm soát lạm phát và bỏ qua các mục tiêu khác chẳng hạn bình ổn sản lượng, theo Bemanke (2003), là một quan niệm sai lầm. Trên cả lý thuyết và thực tiễn, tất cả các quốc gia LPMT đều là các quốc gia LPMT linh hoạt (Flexible inflation targeting), trong đó NHTW luôn quan tâm một cách nhất định đến các chỉ tiêu ngoài lạm phát dù mối quan tâm này là chính thức hay ngầm định.

– NHTW quan tâm tới mục tiêu bình ổn sản lượng: Tất cả các quốc gia LPMT đều có quan tâm tới bình ổn sản lượng. Một số quốc gia công khai mối quan tâm này trong danh sách các mục tiêu của CSTT như Israel, Na Uy hay Anh (nhưng luôn phải đứng sau mục tiêu lạm phát). Một số khác sử dụng các kỹ thuật để tạo không gian cho NHTW thực hiện mục tiêu này. Chẳng hạn ở Cộng hòa Séc, khuôn khổ pháp lý thiết lập các điều khoản thoát trách nhiệm (escape clauses) cho phép NHTW nước này không cần thực hiện mục tiêu lạm phát trong trường hợp nền kinh tế đối diện với cú sốc cung tạm thời nhằm tránh sản lượng biến động trong ngắn hạn.

– NHTW quan tâm tới mục tiêu ổn định tỷ giá: về mặt lý thuyết, theo đuổi LPMT đòi hỏi NHTW phải có cơ chế tỷ giá linh hoạt bởi quá quan tâm đến tỷ giá có thể khiến công chúng bối rối về mục tiêu ưu tiên thực sự của CSTT và phản ứng chính sách sai lầm trong trường hợp nền kinh tế phải đối mặt với cú sốc thực (Mishkin 2010). Mặc dù vậy, trong điều hành thực tiễn, NHTW nhiều quốc gia LPMT vẫn cố gắng can thiệp lên tỷ giá để tránh những ảnh hưởng bất lợi của tỷ giá biến động lên nền kinh tế, chẳng hạn làm suy yếu bảng cân đối của hệ thống ngân hàng hoặc giảm tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Lấy ví dụ như Israel hoặc Ba Lan, hai quốc gia này đã cố gắng theo đuổi một chính sách tỷ giá trườn bò dưới chế độ LPMT trong nhiều năm trước khi thả nổi hoàn toàn. Hay ở các quốc gia thu nhập trung bình, về danh nghĩa NHTW công bố khuôn khổ LPMT song song cùng một cơ chế tỷ giá thả nổi, nhưng trên thực tế các quốc gia đó vẫn áp dụng chính sách “sợ thả nổi” (fear of floating) – cho phép NHTW ngầm định áp dụng các biện pháp để bình ổn tỷ giá (Agenor & Silva, 2013).

          2.3 Ưu điểm và nhược điểm của chế độ lạm phát mục tiêu

Một số ưu điểm nổi bật của chế độ LPMT có thể được kể đến như:

– LPMT là sự kết hợp ICU điểm của việc điều hành CSTT theo quy tắc (rules) và điều hành CSTT một cách tùy nghi (discretion): Tính quy tắc thể hiện ở việc NHTW đặt ra mục tiêu lạm phát cụ thể trong trung hạn để định hướng quá trình điều hành CSTT của mình. Tính tùy nghi thể hiện ở việc NHTW có thể tự do phản ứng với các cú sốc trong ngắn hạn mà không nhất thiết phải tập trung vào lạm phát một cách hoàn toàn bởi vì lạm phát là mục tiêu của trung hạn.

          – LPMT giúp NHTW thiết lập được uy tín với công chúng, khiến việc quản lý kỳ vọng trở nên dễ dàng hơn và CSTT hiệu quả hơn: Lạm phát trung hạn của chế độ LPMT hoạt động như một neo danh nghĩa của CSTT. Khi NHTW nhiều lần hoàn thành được mục tiêu của mình, họ sẽ dần thiết lập được uy tín trước công chúng. Dưới cơ chế minh bạch và trách nhiệm giải trình, uy tín này ngày càng được củng cố và tạo ra niềm tin đối với neo danh nghĩa của CSTT.

          – LPMT có neo danh nghĩa dễ hiểu và có tính truyền tải cao: Lạm phát là một khái niệm quen thuộc với nhiều tầng lớp nhân dân và sự thay đổi của nó có thể dễ dàng được quan sát hoặc cảm nhận dưới dạng đắt hơn hay rẻ hơn giá cả của các loại hàng hóa tiêu dùng, vì vậy sử dụng lạm phát làm neo danh nghĩa của CSTT sẽ khiến neo này dễ hiểu hơn với công chúng và có tính truyền tải cao hơn so với một số neo khác khác (chẳng hạn neo khối tiền).

Một số học giả phê phán LPMT bởi họ cho rằng LPMT vẫn tồn tại nhược điểm, trong đó có thể kể đến như:

          – Neo lạm phát có độ trễ lớn: Không giống một số biến số vĩ mô như tỷ giá hay khối tiền, CSTT cần một thời gian truyền dẫn dài mới có thể tác động được lên lạm phát, vì vậy NHTW quốc gia LPMT sẽ gặp khó khăn hơn trong việc quan sát và kiểm soát mục tiêu trung hạn so với các chế độ CSTT khác.

          – LPMT khiến sản lượng biến động: Kiềm chế lạm phát và bình ổn sản lượng là đánh đổi lẫn nhau trong trường hợp nền kinh tế đối diện với cú sốc cung tạm thời. Do vậy, quá tập trung vào lạm phát có thể khiến sản lượng biến động mạnh trong ngắn hạn.

          – LPMT đòi hỏi tính linh hoạt trong tỷ giá, nhưng tỷ giá linh hoạt lại làm tăng bất ổn tài chính: Luận điểm này là đúng đối với các quốc gia thị trường mới nổi, khi mà ở những quốc gia này, việc thả nổi tỷ giá làm tăng bất ổn tài chính bởi tình trạng đô la hóa cao, truyền dẫn từ tỷ giá đến lạm phát là lớn, các công cụ phòng vệ tỷ giá còn chưa phát triển, cạnh tranh thương mại yếu…

          2.4 Các điều kiện tiên quyết của chế độ lạm phát mục tiêu

Một quốc gia chỉ cần thiết lập được mục tiêu lạm phát trung hạn, cam kết ổn định giá cả là mục tiêu cuối cùng cũng như xây dựng được tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong điều hành CSTT là có thể coi như quốc gia đó đã chuyển đổi sang chế độ LPMT. Tuy nhiên, nhiều học giả khuyến cáo rằng khi quốc gia cân nhắc việc chuyển đổi chế độ CSTT, quốc gia đó cần xem xét sự thỏa mãn các điều kiện tiên quyết để đảm bảo LPMT có thể được thực hiện một cách suôn sẻ và thành công. Dựa trên kinh nghiệm áp dụng LPMT từ nhiều nền kinh tể trên thế giới, một số nhóm điều kiện tiên quyết đã được các nhà nghiên cứu đúc kết và đề xuất, tuy nhiên có sự khác nhau tương đối giữa các học giả về nhóm những điều kiện quan trọng nhất.

Batini, Kuttner và Laxton (2005) nêu ra bốn điều kiện tiên quyết của chế độ LPMT bao gồm: i) độc lập về thể chế: NHTW phải tự chủ hoàn toàn về mặt pháp lý cũng như không chịu bất cứ một áp lực tài khóa/chính trị nào có thể làm phương hại đến mục tiêu lạm phát; ii) hạ tầng kỹ thuật phát triển: dữ liệu luôn sẵn có cũng như NHTW đủ khả năng để dự báo lạm phát và thiết lập các mô hình; iii) cơ cấu kinh tế hiệu quả: không có hiện tượng kiểm soát giá, nền kinh tế không quá nhạy cảm với giá cả hàng hóa và tỷ giá, và tình trạng đô la hóa ở mức tối thiểu; và iv) hệ thống tài chính khỏe mạnh: hệ thống ngân hàng ổn định và lành mạnh, cũng như thị trường vốn phát triển tốt. Khi áp dụng bốn điều kiện tiên quyết kể trên vào khảo sát 21 nền kinh tế LPMT và 10 nền kinh tế phi LPMT, các tác giả phát hiện ra rằng hầu như các quốc gia LPMT đều chỉ thỏa mãn một phần hoặc không thỏa mãn các điều kiện 2, 3 và 4 tại thời điểm áp dụng LPMT. Riêng điều kiện số 1, phần lớn NHTW đã đạt được sự độc lập trong lựa chọn công cụ CSTT tại thời điểm chuyển đổi, tuy nhiên xét ở phạm trù rộng hơn – tự chủ cao về mặt pháp lý – thì chỉ 1/5 các quốc gia LPMT là thỏa mãn. Kiểm tra định lượng cũng cho thấy không có điều kiện nào quan hệ chặt chẽ với sự cải thiện trong các điều kiện vĩ mô sau khi áp dụng LPMT. Như vậy, các tác giả này kết luận rằng sự vắng mặt của các điều kiện ban đầu bản thân nó không ngăn cản việc áp dụng hay ảnh hưởng đến sự thành công của LPMT sau này.

Freedman và Otker-Robe (2010) lại cho rằng chỉ có ba điều kiện cốt lõi để triển khai LPMT, đó là: i) mục tiêu lạm phát được ưu tiên hơn so với các mục tiêu khác; ii) không có thống trị tài khóa (físcal dominance); và iii) NHTW độc lập về công cụ CSTT. Nghiên cứu điều tra năm 2009 của hai tác giả này (Freedman & Otker- Robe, 2009) trên 8 quốc gia LPMT cho thấy hầu hết các quốc gia khảo sát đều đã thỏa mãn ba điều kiện này tại thời điểm chuyển đổi, một số điều kiện khác như khả năng xây dựng mô hình và dự báo lạm phát hiệu quả hoặc NHTW độc lập về mặt pháp lý đều không được thỏa mãn bởi đa số. Từ đó, hai ông kết luận rằng các quốc gia muốn chuyển đổi chế độ CSTT nên đáp ứng 3 điều kiện kể trên trước khi áp dụng LPMT. Các điều kiện khác, những điều kiện được coi là căn bản của LPMT, lại hoàn toàn có thể được bỏ qua tại thời điểm áp dụng.

Gemayel et al. (2011), dựa trên thực nghiệm ở 36 quốc gia thu nhập thấp và thị trường mới nổi, đã kết luận rằng không quốc gia LPMT nào thỏa mãn tất cả điều kiện tiên quyết tại thời điểm chuyển đổi. Tuy nhiên, các tác giả nêu ra một số điều kiện nên được thiết lập nhằm giúp LPMT có thể được áp dụng dễ dàng hơn, đó là: i) cơ chế truyền dẫn CSTT vận hành hiệu quả; ii) CSTT độc lập ở một mức độ nhất định; và iii) không có cam kết đối với tỷ giá.

Nhóm tác giả tiến hành kiểm tra ba điều kiện tiên quyết của Freedman và Otker-Robe lên một số quốc gia áp dụng hoặc dự kiến áp dụng LPMT thời gian gần đây, kết quả cho thấy tất cả các quốc gia đều đã xây dựng cho mình khuôn khổ pháp lý thỏa mãn ba điều kiện tiên quyết trước khi chuyển đổi một cách chính thức chế độ CSTT: hệ thống pháp lý được sửa đổi nhằm đưa lạm phát trở thành mục tiêu hàng đầu của CSTT, ngăn cản khả nâng tiền tệ hóa chi tiêu chính phủ và trao cho NHTW quyền độc lập trong lựa chọn công cụ CSTT. Các điều kiện khác được nhiều quốc gia bỏ qua hoặc chỉ thiết lập sau khi LPMT đã đi vào hoạt động. Chẳng hạn ở Uganda, thị trường vốn là chưa phát triển ngay tại thời điểm chuyển đổi với thị trường chứng khoán có tỷ suất xoay vòng thấp và thanh khoản hạn chế, giá trị chứng khoán giao dịch chỉ chiếm 0,1% GDP; thị trường trái phiếu tư nhân gần như không tồn tại và bị áp chế bởi trái phiếu Chính phủ. Ở Kazakhstan, tình trạng đô la hóa giai đoạn 2014 – 2015 lên tới hơn 40%, cơ chế truyền dẫn CSTT suy yếu và một CSTT vẫn mang tính nhìn vào tác động quá khứ (backward-looking). Georgia cũng tương tự như Kazakhstan với tình trạng đô la hóa năm 2009 lên tới trên 70%, góp phần làm suy yếu truyền dẫn CSTT ở quốc gia này và khiến NHTW phải duy trì kiểm soát tỷ giá cho tới tận cuối năm 2013. Tuy nhiên, các quốc gia kể trên vẫn tiến hành chuyển đổi chế độ CSTT bởi vì các điều kiện khác có thể được thiết lập sau khi LPMT đã đi vào hoạt động…

(còn nữa)

Lê Thái Phong/Nguyễn Thu Thủy/Lê Việt Dũng

(Nguồn: Những vấn đề Kinh tế & Chính trị thế giới, số 2/2017)

Thực Thi Chính Sách Công Ở Việt Nam, Lý Luận Và Thực Tiễn

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………..2 NỘI DUNG………………………………………………………………………………………….3 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG………………………………………………………………………………………………….3 1. Khái niệm chính sách công………………………………………………………….3 2. Thực thi chính sách và ý nghĩa thực thi chính sách…………………………4 4. Yếu tố ảnh hưởng tới thực thi chính sách………………………………………7 5. Mô hình tổ chức thực thi chính sách……………………………………………..9 6. Phương pháp tổ chức thực thi chính sách……………………………………10 II. THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM…………..12 1. Chính sách công và việc tổ chức thực thi…………………………………….12 2. Những hạn chế trong thực thi chính sách công hiện nay………………..13 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách công……14 KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………….16 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng

LỜI MỞ ĐẦU Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách công luôn được đặt ra. Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy trình chính sách; trong đó có tổ chức thực thi chính sách – bước đặc biệt quan trọng của quy trình chính sách. Thực thi chính sách là một khâu quan trọng quyết định sự thành bại của một chính sách công. Việc thực thi chính sách công không chỉ góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chính sách mà còn khẳng định tính đúng đắn của chính sách, vai trò của chủ thể trong việc thực thi chính sách, góp phần nâng cao niềm tin của đối tượng quản lý đối với chủ thể chính sách cũng như niềm tin của nhân dân đối với các cấp ủy Đảng và chính quyền. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực thi chính sách; những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc phối hợp triển khai thực hiện các chính sách của nhà nước và đạt được những kết quả tích cực. Nền kinh tế có bước phát triển và tăng trưởng khá; đất nước ta từng bước vượt ra khỏi tình trạng các nước kém phát triển; chủ động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. An ninh quốc phòng được giữ vững; chính trị ổn định. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, góp phần xây dựng một thế giới, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc tổ chức thực thi chính sách trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Vì vậy việc nghiên cứu, phân tích mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia vào việc tổ chức thực thi chính sách vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp, đùn đẩy, giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, góp phần nâng cao hiệu quả chính sách công.

Vũ Mạnh Hùng

2

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng Qua kiến thức học được, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Thực thi chính sách công ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn” làm tiểu luận môn học Chính sách công.

3

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì (Clarke E. Cochran, et al, 1999). Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson, 2003). Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004). Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau: Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước. Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế. Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước. 2. Thực thi chính sách và ý nghĩa thực thi chính sách. Tổ chức thực thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng Vũ Mạnh Hùng

4

Cao học QLKT-KTT-K17

Vũ Mạnh Hùng

5

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là bước cần thiết và quan trọng vì tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do đó phải có kế hoạch. Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống, các cơ quan triển khai từ Trung ương đến địa phương đều phải lập kế hoạch bao gồm các bước sau: + Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi + Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị + Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện + Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách + Dự kiến về quy chế, nội dung về tổ chức và điều hành thực thi chính sách Bước 2: phổ biến, tuyên truyền chính sách. Đây là công đoạn tiếp theo sau khi chính sách đã được thông qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân dân, các cấp chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận lợi và có hiệu quả Để làm được việc tuyên truyền này thì chúng ta cần được đầu tư về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật…. Vì đây là đòi hỏi của thực tế khách quan. Việc tuyên truyền này cần phải thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi chính sách đang được thực thi, và với mọi đối tượng và trong khi tuyên truyền phải sử dụng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp trao đổi… Bước 3: phân công phối hợp thực hiện chính sách. Một chính sách thường được thực thi trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các hoạt động thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm bởi vậy nên cần phối hợp giữa các cấp, ngành để triển khai chính sách. Nếu hoạt động này diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một cách chủ động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, và duy trì ổn định. Bước 4: duy trình chính sách, đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Vũ Mạnh Hùng

6

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố như nhà nước và người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và môi trường để chính sách được thực thi tốt. Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào thực thi chính sách. Nếu các hoạt động này được tiến hành đồng bộ thì việc duy trì chính sách là việc làm không khó Bước 5: điều chỉnh chính sách, việc làm này là cần thiết, diễn ra thường xuyên trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có quyền điều chỉnh). Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu. Bước 6: theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Bất cứ triển khai nào thì cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách này được thực hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Các cơ quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra này và nếu tiến hành thường xuyên thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có những kết luận chính xác về chính sách. Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ xung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách. Bước 7: đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm, khâu này được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình này ta có thể đánh giá từng phần hay toàn bộ chính sách ở việc đánh giá này phải tiến hành đối với cả các cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách. Trong các bước trên thì bước tổ chức thực thi là quan trọng nhất vì đây là bước đầu tiên làm cơ sở cho các bước tiếp theo, ở bước này đã dự kiến cả việc triển khai thực hiện kế hoạch phân công thực hiện, kiểm tra… Hơn nữa tổ chức thực thi là quá trình phức tạp do đó lập kế hoạch là việc làm cần thiết.

Vũ Mạnh Hùng

7

Cao học QLKT-KTT-K17

Vũ Mạnh Hùng

8

Cao học QLKT-KTT-K17

9

Cao học QLKT-KTT-K17

10

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng tạo thành một thể thống nhất để có thể thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ nhất định. Ở phương pháp phân tích hệ thống này thì đầu vào bao gồm nhiều yếu tố như vật chất, thông tin lao động, tài chính… các yếu tố này được xử lý và tạo ra đầu ra là kết quả của chính sách. Khi sử dụng phương pháp phân tích hệ thống cần chú ý tới việc các phần tử trong hệ thống liên kết và tương tác với nhau theo hệ nhân quả, khi thêm hoặc bớt một phần tử hay một số phần tử thì đều tạo ra sự thay đổi của hệ thống. Trong hệ thống các phần tử có thể khác nhau khi hợp thành một thể thống nhất thì nó cũng có những tính năng vượt trội. Phương pháp phân tích quyết định và phương pháp sử dụng cũng quyết định mẫu có nghĩa là mô hình hoá quá trình ra quyết định thành một sơ đồ tổng hợp của các khả năng đưa ra kết quả dự đoán. Ở loại phương pháp này luôn có hai chiều lựa chọn đó là lựa chọn không mạo hiểm luôn đưa ra kết quả trung tính và lựa chọn mạo hiểm luôn đưa ra kết quả tốt hoặc xấu. Do đó người phân tích chính sách phải biết dự đoán kết quả đầu ra để lựa chọn quản lý hợp lý. Phương pháp phân tích chi phí lợi ích. Đây là một phương pháp mà được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng để phân tích chính sách và nó trở thành một trong những yếu tố nền tảng cho việc lựa chọn và thực hiện các chính sách của chính phủ. Khi hoạch định 1 chính sách thì cần phải đề cập nhiều tới mục tiêu kinh tế đó là mang lại lợi ích cho xã hội Trong khi áp dụng phương pháp này cần phải tuân thủ nguyên tắc chiết khấu có nghĩa là mọi chi phí tính toán trong tương lai cần được điều chỉnh theo giá hiện tại trước khi so sánh. Những biện pháp này lại có các mặt hạn chế là không đáp ứng được các mục tiêu chính trị, nên tuy nó quan trọng nhưng chưa đầy đủ, nếu chúng ta áp dụng phương pháp này một cách máy móc thuần tuý sẽ mang lại những nan giải về chính trị Phương pháp phân tích theo mô hình: là phương pháp phân tích dựa trên nguyên tắc xây dựng các mô hình chính sách công. Có rất nhiều mô hình phân tích chính sách công trong đó thực tế người ta hay sử dụng các phương pháp: Vũ Mạnh Hùng

11

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng Đồ thị là phương pháp trình bày các thông tin dưới các dạng, biểu đồ và đồ thị khác nhau, đây là phương pháp phân tích số liệu cơ bản và ngày nay cùng với sự giúp đỡ của máy tính thì phương pháp này được làm rất nhanh. Trong quá trình phân tích, các loại đồ thị và biểu đồ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phân tích. Phân tích bằng phương pháp này thường trải qua các bước sau: Xây dựng giả thiết Lựa chọn hệ đo lường Trình bày đồ thị Kết thúc đồ thị Bảng biểu: đây là một kỹ thuật phân tích số cơ bản và quan trọng vì cùng một lúc có thể thiết lập nhiều kiểu bảng biểu khác nhau cho cùng một thông tin thử nghiệm để đạt được kết quả tốt nhất. Các bước xây dựng bảng biểu cũng giống như cấu trúc xây dựng biểu đồ Trong thực tế thì việc sử dụng các phương pháp phân tích này mang lại hiệu quả cao, và tuỳ vào từng chính phủ khác nhau mà sử dụng các loại phương pháp khác nhau căn cứ vào mục tiêu của chính sách, nhưng cũng có các chính sách mà đòi hỏi chúng ta phải sử dụng đồng bộ các phương pháp để phân tích thì mới tạo ra kết quả phân tích, ví dụ như chính sách “kiên cố hoá kênh mương”. Trong ngành nông nghiệp của nước ta có thể áp dụng cả 4 phương pháp phân tích để đưa ra một chính sách tốt nhất. II. THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM. 1. Chính sách công và việc tổ chức thực thi Ở nước ta, chính sách được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…”. Như vậy, chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Song hiện nay đang tồn tại cụm từ “chính sách của Đảng và Nhà nước”. Thực tế, ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách – Đó chính là những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành các chính sách công. Các chính sách công là do Nhà nước ban hành. Vũ Mạnh Hùng

12

Cao học QLKT-KTT-K17

Vũ Mạnh Hùng

13

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng – Nghiên cứu về chính sách công ở Việt Nam cần đặt trong bối cảnh đang trong quá trình chuyển đổi, vừa xóa bỏ cái cũ, vừa tiếp thu cái mới, tính đan xen giữa cơ hội và thách thức trong xu thế toàn cầu hóa như một tất yếu, có thành, có bại, do đó phải có niềm tin, có định hướng cơ bản về vấn đề nghiên cứu. Đồng thời, cần phải có cách tiếp cận hệ thống, cơ bản, tổ chức nghiên cứu, đào tạo, thu hút chuyên gia về chính sách công, hợp tác quốc tế với các trung tâm, các viện nghiên cứu ở các nước về lĩnh vực chính sách công, nhất là với các nước phát triển. 2. Những hạn chế trong thực thi chính sách công hiện nay – Có thể khẳng định rằng có được chính sách công đúng đắn mới chỉ là “điều kiện cần” để đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực thi là “điều kiện đủ” của chính sách công. Nói như vậy để thấy rõ mối quan hệ có tính quyết định giữa các khâu trong quá trình thực thi chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn tồn tại những chính sách ban hành chưa sát thực tiễn nên thực hiện hiệu lực, hiệu quả thấp. – Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và yêu cầu của chính sách có khi chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên quan (nhà chức trách, những người thực thi và người dân), dẫn đến hiểu sai. – Các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau. Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ nghị định và thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến, cản trở việc áp dụng. – Sự phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị tổ chức thực thi chính sách chưa thực sự khoa học, vẫn có sự chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi ích. Cơ chế phối hợp giữa các cấp và giữa các cơ quan đồng cấp chưa chặt chẽ, đặc biệt trong việc chia sẻ, trao đổi, công khai thông tin. Bên cạnh đó, một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, công chức thiếu năng lực, trình độ và sự trong sạch trong thực thi chính sách cũng đang là một trong những nguyên nhân bóp méo, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của chính sách. – Những quy chế, thủ tục lập ra trong quá trình tổ chức thực thi chính sách thường thiếu tính ổn định tương đối, gây xáo trộn cho quá trình thực thi chính sách công. Thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó khăn, cản trở việc thực thi chính sách. Vũ Mạnh Hùng

14

Cao học QLKT-KTT-K17

Vũ Mạnh Hùng

15

Cao học QLKT-KTT-K17

Vũ Mạnh Hùng

16

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng

KẾT LUẬN Chính sách công là những quy định về ứng xử của Nhà nước với những hiện tượng nảy sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện dưới những hình thức khác nhau một cách ổn định nhằm đạt được mục tiêu định hướng. Việc tổ chức thực thi chính sách là quá trình biến các chính sách thành những kết quả, trên thực tế là các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước, nhằm hiện thực hóa những mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Nhiều người hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ trương, chế độ mà Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương, chế độ chỉ là những khẩu hiệu. Công tác tổ chức thực thi chính sách nếu không được tiến hành tốt, dễ dẫn đến sự thiếu tin tưởng, thậm chí sự chống đối của nhân dân đối với Nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây ra những khó khăn cho Nhà nước trong công tác quản lý. Có những vấn đề trong giai đoạn hoạch định chính sách chưa phát sinh, bộc lộ hoặc đã phát sinh nhưng các nhà hoạch định chưa nhận thấy, đến giai đoạn tổ chức thực thi mới phát hiện. Quá trình thực thi chính sách với những hành động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Việc phân tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt, xấu) chỉ có thể đầy đủ, có sức thuyết phục là sau khi thực hiện chính sách. Qua tổ chức thực hiện, cơ quan chức năng mới có thể biết chính sách đó được xã hội và đại đa số nhân dân chấp nhận hay không, đi vào cuộc sống hay không. Việc đưa chính sách công vào thực tiễn không đơn giản, nhanh chóng. Đó là quá trình phức tạp, đầy biến động, chịu tác động của một loạt các yếu tố, thúc đẩy hoặc cản trở công việc thực thi. Với những nhìn nhận mới trong thực thi chính sách công của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta hoàn toàn có thể chắc chắn rằng trong thời gian tới chúng

Vũ Mạnh Hùng

17

Cao học QLKT-KTT-K17

TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c”ng ta sẽ có những chính sách đúng đắn, được thực thi nghiêm túc và đem lại hiệu quả thiết thực góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. chúng tôi Đoàn Thị Thu Hà, PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền (đồng chủ biên): Giáo trình Chính sách kinh tế – xã hội, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, H, 1999. 2. Một số thuật ngữ hành chính, Nxb Thế giới, 2000. 3. Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách công – Học viện Hành chính, NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội 2010. 4. Tạp chí Kinh tế và dự báo: www.mpi.gov.vn 5. Sự cần thiết hoàn thiện quy trình hoạch định chính sách công của Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế – ThS. Trịnh Thị Kiều Anh.

Vũ Mạnh Hùng

18

Cao học QLKT-KTT-K17

Nâng Cao Hiệu Quả Thực Thi Chính Sách Công Ở Việt Nam

1. Một số nghiên cứu về các yếu tố tác động đến hiệu quả thực thi chính sách công

Sau thập niên 70 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu về chính sách công đã xuất phát từ các góc độ khác nhau để nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách công, từ đó hình thành nên các mô hình khác nhau. Có thể kể đến một số nghiên cứu điển hình như sau:

Trong bài viết ” Quá trình thực thi chính sách” (1973), T.B. Smith cho rằng, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách công, bao gồm: 1) chất lượng chính sách, cụ thể là mục tiêu chính sách có phù hợp với thực tế hay không, nội dung của chính sách có phù hợp, và phương án chính sách có rõ ràng, khả thi hay không? 2) cơ quan hoặc tổ chức thực thi chính sách, tức năng lực của cơ quan hoặc tổ chức chịu trách nhiệm thực thi chính sách như thế nào? 3) đối tượng chính sách, tức mức độ tiếp nhận chính sách của đối tượng chính sách như thế nào? 4) nhân tố môi trường, tức môi trường văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách[1].

Hai tác giả D.S. Meter và C.E. Van Horn cho rằng, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách, những yếu tố này vừa bao gồm nhân tố của bên trong vừa bao gồm nhân tố bên ngoài (môi trường). Theo hai ông, có 6 yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách công, đó là: 1) mục tiêu và nội dung của chính sách có cụ thể, khả thi hay không? 2) nguồn lực chính sách, tức nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, thông tin…) phục vụ cho thực thi chính sách có đầy đủ hay không? 3) sự trao đổi, phối hợp giữa các tổ chức và thành viên trong tổ chức trong quá trình thực hiện; 4) năng lực của cơ quan thực thi chính sách; 5) môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội; 6) nhận thức và thái độ của nhân viên thực thi chính sách[2].

Hai tác giả McLaughlin và Milbrey Walin cho rằng, việc thực thi có hiệu quả chính sách công dựa trên các yếu tố như: 1) mức độ thống nhất, đồng thuận về mặt nhu cầu và quan điểm giữa chủ thể thực thi chính sách và đối tượng chính sách; 2) mức độ tương tác, chia sẻ thông tin theo hướng bình đẳng giữa chủ thể thực thi chính sách và đối tượng chính sách; 3) sự linh hoạt về mục tiêu và phương thức thực hiện chính sách theo sự thay đổi của môi trường của chủ thể thực thi chính sách; 4) lợi ích và định hướng giá trị của đối tượng chính sách[3].

2. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách công

Nhìn chung, các nghiên cứu nêu trên đã phân tích sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố đối với hiệu quả thực thi chính sách công. Kế thừa và phát triển các nghiên cứu nêu trên, có thể thấy các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách công như sau:

Thứ ba, nguồn lực thực thi chính sách. Nguồn lực cho thực thi chính sách có đầy đủ hay không cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách. Ngay cả khi chính sách được ban hành rất rõ ràng, cụ thể, nhưng nếu cơ quan thực thi chính sách thiếu nguồn lực cần thiết, thì kết quả của việc thực thi chính sách đó cũng không thể đạt được mục tiêu chính sách như mong muốn. Vì thế, bảo đảm nguồn lực cho thực thi chính sách là yếu tố không thể thiếu để thực thi chính sách có hiệu quả. Nguồn lực cho thực thi chính sách bao gồm: nguồn lực kinh phí, nguồn lực con người (nguồn nhân lực), nguồn lực thông tin, nguồn lực thiết bị… Theo đó, cần phân bổ kinh phí đủ mức cho thực thi chính sách; đảm bảo nhân lực thực thi chính sách cả về số lượng và chất lượng, nhất là đảm bảo kỹ năng quản lý và kỹ năng hành chính cho đội ngũ nhân viên thực thi chính sách. Bên cạnh đó, cần đảm bảo nguồn thông tin đầy đủ để cơ quan thực thi chính sách xây dựng được kế hoạch hoạt động khả thi, phù hợp với thực tế cũng như kiểm tra, giám sát quá trình thực thi. Ngoài ra còn đảm bảo nguồn lực cơ sở vật chất, trang thiết bị cho thực thi chính sách và nguồn lực quyền lực cho thực thi chính sách.

Cùng với tương tác và trao đổi, điều phối chính sách cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách. Sự điều phối là một phương thức nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các bên, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, sự không đồng thuận giữa các bên. Điều phối thực thi chính sách gồm ba cấp độ: 1) điều phối nội bộ cơ quan thực thi, tức là sự điều phối của người lãnh đạo hay thủ trưởng cơ quan đối với các bộ phận chức năng và các thành viên trong cơ quan; 2) điều phối giữa các cơ quan thực thi chính sách bao gồm điều phối giữa cấp trên với cấp dưới và giữa các cơ quan cùng cấp; 3) điều phối giữa cơ quan thực thi chính sách với các cơ quan, tổ chức đoàn thể xã hội trong quá trình thực thi chính sách.

Thứ sáu, phẩm chất và năng lực của những người thực thi chính sách. Bất cứ chính sách nào cũng cần dựa vào chủ thể thực thi chính sách để thực hiện. Việc người thực thi chính sách am hiểu, nắm vững chính sách, đầu tư cho việc thực thi chính sách, có tinh thần đổi mới, sáng tạo, trách nhiệm với công việc và có trình độ quản lý tương đối cao là điều kiện quan trọng để thực thi chính sách có hiệu quả. Trong thực tế, ở mức độ nhất định, việc thực thi chính sách không đạt mục tiêu như mong muốn là do phẩm chất và năng lực của người thực thi chính sách. Việc người thực thi chính sách thiếu tri thức và năng lực cần thiết, không nắm vững chính sách, không nắm được yêu cầu cơ bản của chính sách sẽ dẫn đến sự sai sót, thậm chí là sai lầm trong tuyên truyền và thực thi chính sách.

Thứ bảy, tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của cơ quan thực thi chính sách. Tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của cơ quan hành chính (cơ quan thực thi chính sách) ảnh hưởng rất quan trọng đến hiệu quả thực thi chính sách. Ở đây gồm hai phương diện cốt lõi: 1) Mức độ tiêu chuẩn hóa, quy chuẩn hóa trong vận hành và hoạt động của cơ quan hành chính. Tiêu chuẩn hóa, quy chuẩn hóa quá trình hoạt động và vận hành của cơ quan hành chính được hiểu là hệ thống các quy tắc, quy định được hình thành nhằm xử lý có hiệu quả các công việc thường ngày của tổ chức. Nếu các quy định, quy tắc phù hợp được thiết lập đồng bộ sẽ ảnh hưởng tích cực đến hoạt động thực thi chính sách. Bởi vì, việc xác lập các quy định, quy tắc phù hợp để điều chỉnh hoạt động của tổ chức sẽ giúp tổ chức tiết kiệm thời gian giải quyết công việc, thực hiện được yêu cầu công bằng trong phục vụ, từ đó có lợi cho việc thực thi chính sách; 2) Mức độ phân tán hay tập trung về quyền thực thi. Nếu quyền thực thi chính sách phân tán, thể hiện ở việc nhiều cơ quan đều có quyền thực thi chính sách thì sẽ dẫn đến sự khó khăn trong điều phối cũng như sự lãng phí về nguồn lực, từ đó không có lợi cho thực thi chính sách. Vì thế, việc xác định quyền lực tập trung đủ mức cho cơ quan thực thi chính sách sẽ giảm thiểu tình trạng trách nhiệm không rõ trong thực thi chính sách.

Thứ tám, môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Một nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách đó là, môi trường chính sách bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Việc thực thi bất cứ chính sách nào cũng đều nằm trong sự ảnh hưởng và chế ước của môi trường. Môi trường thích hợp sẽ có lợi cho việc thực thi chính sách. Môi trường không thích hợp sẽ cản trở việc thực thi chính sách. Cụ thể, nếu trình độ kinh tế phát triển, nhất là kinh tế thị trường phát triển thì cơ quan thực thi chính sách càng có điều kiện để thu hút nguồn lực cho thực thi chính sách; trình độ văn hóa và sự hiểu biết của người dân sẽ tạo thuận lợi cho việc thực thi chính sách và ngược lại; dự luận xã hội, tính tự chủ và sự phát triển của các tổ chức xã hội cũng ảnh hưởng đến thực thi chính sách…

3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công ở Việt Nam

Khi phân tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên một số lĩnh vực, Đảng ta đều đưa ra đánh giá, đó là: “tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu”[7]. Từ việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến hiệu quả thực thi chính sách công, có thể rút ra một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi chính sách ở Việt Nam như sau:

Một là, muốn nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công, cần nâng cao chất lượng chính sách.Trong thực tiễn chính sách công ở Việt Nam, bên cạnh những chính sách đảm bảo chất lượng, cũng có không ít chính sách chất lượng không cao[8]. Chính điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực thi một số chính sách trong thực tế. Chất lượng không cao của một số chính sách thể hiện trên một số khía cạnh, như phương án và mục tiêu chính sách thiếu cụ thể, không rõ ràng, thiếu tính khả thi, mục tiêu chính sách quá cao, một số phương án chính sách được đề ra không phù hợp với thực tiễn. Chất lượng của một số chính sách không cao do nhiều nguyên nhân, trong đó gồm ba nguyên nhân chủ yếu: i) chưa coi trọng đúng mức việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách; ii) năng lực hoạch định chính sách của cơ quan hoạch định chính sách; iii) dân chủ hóa trong hoạch định chính sách chưa được coi trọng đúng mức, sự tham gia của người dân và hoạt động tư vấn, giám định và phản biện của các tổ chức chưa đáp ứng yêu cầu. Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần coi trọng nâng cao chất lượng chính sách theo hướng, coi trọng nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách, nâng cao năng lực của cơ quan hoạch định chính sách và dân chủ hóa quá trình hoạch định chính sách.

Ba là, muốn nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần tăng cườngsự tương tác và phối hợp trong thực thi chính sách. Việc chưa coi trọng đúng mức sự tương tác và phối hợp giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các cơ quan với nhau và giữa cơ quan thực thi chính sách với đối tượng chính sách cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả thực thi chính sách chưa như mong muốn. Điều này thể hiện ở chỗ: ở một số nơi, cấp trên thiếu sâu sát với cấp dưới, thiếu sự kiểm tra, giám sát, điều chỉnh đối với hoạt động thực thi chính sách của cấp dưới nên đã dẫn đến hệ quả tiêu cực; sự phối hợp giữa các cơ quan theo chiều ngang còn chưa tốt, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cơ quan còn chưa rõ dẫn đến sự chồng chéo, trùng lắp về nhiệm vụ cũng như không rõ về trách nhiệm. Chẳng hạn, “chỉ trên một dòng sông nhưng Bộ Giao thông – Vận tải phụ trách bảo đảm lưu thông luồng lạch, Bộ Tài nguyên Môi trường phụ trách tài nguyên nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phụ trách quản lý thủy lợi. Đến khi “cát tặc” hoành hành thì không Bộ nào có trách nhiệm xử lý. Điều này là do chỉ một dòng sông mà có đến 3 bộ quản lý, từ đó dẫn đến việc không bên nào nhận trách nhiệm về mình[9].[9] Trong mối quan hệ giữa cơ quan thực thi chính sách với đối tượng chính sách, một số cơ quan vẫn thực hiện cách làm truyền thống là sử dụng biện pháp hành chính – mệnh lệnh; sự đối thoại, tương tác và nắm bắt thông tin kịp thời từ đối tượng chính sách trong quá trình thực thi chính sách của một số cơ quan chưa được coi trọng. Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần thông qua nhiều biện pháp để tăng cường sự tương tác và phối hợp giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các cơ quan cùng cấp và giữa cơ quan thực thi chính sách và đối tượng chính sách.

Năm là, để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công, cần nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chính sách. Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả thấp trong thực thi một số chính sách công ở Việt Nam đó là, năng lực và phẩm chất còn bất cập của một bộ phận cán bộ, công chức. Một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu về năng lực và kỹ năng quản lý chính sách, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống là yếu tố tiêu cực ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực thi chính sách công hiện nay. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công hiện nay, cần đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ tất cả các khâu của công tác cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đảm bảo về phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Sáu là, để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công, cần coi trọng xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, có cơ chế vận hành phù hợp. Có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình thực thi chính sách công ở Việt Nam, trong đó chủ thể quyết định trực tiếp hiệu quả thực thi chính sách chính là bộ máy hành chính. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần đặt nhiệm vụ trọng tâm vào việc kiện toàn, đổi mới bộ máy hành chính theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ – pháp quyền; xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn theo hướng quản lý hay phụ trách đa ngành, đa lĩnh vực, khắc phục tình trạng phân tán về nguồn lực, quyền lực và trách nhiệm không rõ trong thực thi chính sách./.

Cập nhật thông tin chi tiết về Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Thực Thi Tại Việt Nam trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!