Xu Hướng 12/2023 # Chế Định Thời Hiệu Trong Luật Hình Sự Việt Nam # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Chế Định Thời Hiệu Trong Luật Hình Sự Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Lê Cảm

TSKH., Trưởng bộ môn Tư pháp hình sự thuộc ĐHQG Hà Nội

Trịnh Tiến Viết

Bộ  môn Tư pháp hình sự thuộc ĐHQG Hà Nội

* Theo PLHS Việt Nam, quyền truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) và quyền thi hành bản án hình sự (BAHS) của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của Nhà nước (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án hình sự) đối với người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm không phải là vô thời hạn, mà chỉ trong một thời hạn nhất định được ghi nhận trong PLHS.

* Nhưng khi một thời hạn nhất định do PLHS quy định đã qua rồi, thì bất kỳ người nào, mặc dù đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm vẫn không thể bị truy cứu TNHS (vì trong trường hợp này họ không bị coi là người phạm tội) hoặc không bị buộc phải chấp hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật.

* Để không bị truy cứu TNHS hoặc không bị buộc phải chấp hành bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật do hết thời hiệu, thì ngoài các căn cứ pháp lý ra, còn phải có một loạt những điều kiện cụ thể khác do PLHS quy định, mà chỉ khi nào có tổng hợp đầy đủ chúng (các căn cứ pháp lý và những điều kiện ấy), người phạm tội mới không bị truy cứu TNHS hoặc không bị buộc phải chấp hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật.

* Căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự (TTHS) tương ứng cụ thể, việc không truy cứu TNHS hoặc không thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật do hết thời hiệu chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhất định (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát, Tòa án hoặc cơ quan thi hành án hình sự) khi có đầy đủ các căn cứ pháp lý và những điều kiện do PLHS quy định.

* Thời hiệu thi hành BAHS chỉ được áp dụng đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành vì nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người bị kết án (ví dụ: do thiên tai, hồ sơ bị mất hoặc thất lạc, do sự thiếu trách nhiệm của những cán bộ trong các cơ quan thi hành án hình sự v.v…). Như vậy, thời hiệu thi hành BAHS khác với thời hiệu truy cứu TNHS là ở chỗ: thời hiệu thi hành BAHS căn cứ vào loại hình phạt (phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù) và mức hình phạt (ba năm tù trở xuống, ba năm tù đến mười lăm năm tù, mười lăm năm tù đến ba mươi năm tù), còn thời hiệu truy cứu TNHS thì lại căn cứ vào loại tội phạm tương ứng được phân loại trong BLHS năm 1999 (khoản 3 Điều 8).

II

1. Bằng quy phạm tại khoản 1 Điều 23 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam đã ghi nhận riêng biệt định nghĩa pháp lý (ĐNPL) của khái niệm thời hiệu truy cứu TNHS là gì (?) – “là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Quy phạm này chính là một điểm mới của BLHS năm 1999 (mà trong BLHS năm 1985 trước đây không có) và do đó, nó có ý nghĩa khoa học – thực tiễn rất quan trọng đối với sự phát triển của PLHS Việt Nam nói riêng, cũng như đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của con người trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung ở nước ta hiện nay.

2. Bằng các quy phạm tại khoản 2 Điều 23 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam, nhà làm luật đã điều chỉnh cụ thể bốn thời hạn khác nhau tương ứng với bốn loại tội phạm được phân loại trong luật (khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999), mà các cơ quan tư pháp hình sự chỉ có thể và phải dựa vào căn cứ đó để truy cứu người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Nói một cách khác, theo BLHS năm 1999, khi đã hết các thời hạn do luật định tại khoản 2 Điều 23 tương ứng với bốn loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8, thì không được truy cứu TNHS người phạm tội.

* Về cơ bản, thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính là từ ngày tội phạm hoàn thành, tức là từ thời điểm hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm (tương ứng với bốn loại tội phạm) được thực hiện, chứ không phải là từ ngày tội phạm bị phát hiện hoặc từ ngày xảy ra hậu quả phạm tội. Ví dụ: thời hiệu truy cứu TNHS đối với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người được tính từ ngày nạn nhân bị gây thương tích (mà do thương tích đã đưa đến cái chết), chứ không phải từ ngày nạn nhân chết.

* Đối với các tội kéo dài, thì nói chung thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày tội phạm kết thúc, nhưng cũng tùy từng trường hợp mà thời điểm này có thể khác nhau. Chẳng hạn, đối với tội đào ngũ, thì thời điểm truy cứu TNHS phải được tính từ ngày quân nhân đào ngũ (mà trước đó người này đã bị xử lý kỷ luật về hành vi rời bỏ đơn vị một cách trái phép hoặc gây hậu quả nghiêm trọng…), chứ không phải từ ngày quân nhân này bị bắt giữ hoặc ra đầu thú. Nhưng đối với một loạt các tội tàng trữ (như tàng trữ vũ khí quân dụng, tàng trữ chất phóng xạ, hoặc tàng trữ chất cháy, chất độc), thì thời điểm truy cứu TNHS lại được tính từ ngày tội phạm tương ứng bị phát hiện hay từ ngày người phạm tội bị bắt giữ hoặc ra đầu thú, chứ không phải từ ngày bắt đầu tàng trữ các thứ đã nêu (vì có thể có những trường hợp vào thời điểm bắt đầu tàng trữ các thứ đã nêu, người phạm tội chưa đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của PLHS).

* Đối với các tội liên tục, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày hành vi cuối cùng trong một loạt hành vi tội phạm được thực hiện. Ví dụ: đối với tội bức tử, tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình, thì thời điểm truy cứu TNHS được tính từ ngày hành vi ngược đãi hoặc hành hạ cuối cùng của tội phạm tương ứng được thực hiện và gây nên hậu quả nguy hại cho xã hội đã đến mức phải bị xử lý về hình sự.

* Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội (rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) và hành vi phạm tội chưa đạt, thì thời điểm truy cứu TNHS được tính từ ngày hoạt động phạm tội bị chấm dứt về mặt pháp lý do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội và khiến cho người đó không thực hiện được tội phạm đến cùng. Ví dụ: a) người chuẩn bị phạm tội khủng bố bị nhân dân phát hiện và báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên đã không thực hiện được tội phạm đến cùng; b) kẻ phạm tội trộm sau khi lọt vào nhà để trộm nhẫn mặt đá rubi của người khác (giá trị khoảng 680 triệu đồng) để trong tủ nhưng chưa kịp chiếm đoạt được chiếc nhẫn đó (vì sau khi lọt vào nhà và đang mở cửa cánh tủ), thì bị chủ nhà đi làm về nhìn thấy, hô hoán lên và bị những người hàng xóm vây bắt.

* Trong trường hợp phạm nhiều tội, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày thực hiện tội đầu tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử.

* Trong trường hợp phạm tội nhiều lần, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày tội nào được thực hiện trước tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử.

4. Bằng các quy phạm tại đoạn 1 khoản 3 Điều 23 BLHS năm 1999, nhà làm luật đã quy định việc tính lại thời hiệu đã qua đối với tất cả bốn thời hạn (tương ứng với bốn loại tội phạm được nêu tại khoản 2 điều luật này), nếu người phạm tội (trong một thời hạn nhất định đã qua tương ứng với mỗi loại tội phạm) lại thực hiện tội mới mà mức cao nhất của khung hình phạt do luật định đối với tội mới ấy là 1 năm tù trở lên. Như vậy, nội dung quy phạm này có nghĩa là: đối với tội mới ấy, bị cáo phải bị đưa ra xét xử và bị áp dụng hình phạt tù trên một năm theo bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

* Căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc là: kể từ ngày tội phạm mà người đó thực hiện nhất thiết phải qua một thời hạn nhất định và thời hạn ấy phải do BLHS quy định (khoản 1).

* Ba điều kiện cần, đủ: a) điều kiện thứ nhất – một trong các thời hạn đã qua ấy phải tương ứng với một trong bốn loại tội phạm được BLHS quy định cụ thể (khoản 2); b) điều kiện thứ hai – trong khoảng thời hạn đã qua ấy, người phạm tội (mà đối với tộu ấy thời hiệu truy cứu TNHS đã qua) phải không được phạm tội mới mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội mới này là trên một năm tù (đoạn 1 khoản 3); c) và cuối cùng, điều kiện thứ ba – trong khoảng thời hạn đã qua ấy, người phạm tội không được cố tình trốn tránh (hoặc mặc dù cố tình trốn tránh) và đối với người đó phải không có lệnh truy nã của cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (đoạn 2 khoản 3).

7. Bằng quy phạm tại Điều 24 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam nhà làm luật nước ta đã đặt an ninh quốc gia với tính chất là lợi ích (được BLHS năm 1999 bảo vệ bằng các quy định của Chương XI) ngang hàng với hòa bình và an ninh của nhân loại (được BLHS năm 1999 bảo vệ bằng các quy định của Chương XXIV). Đây là một sự thay đổi lớn trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua pháp điển hóa lần thứ hai vừa qua. Có nghĩa là, từ đây theo quan điểm của nhà làm luật Việt Nam được cụ thể hóa trong BLHS năm 1999 – chế định nhân đạo về thời hiệu truy cứu TNHS (khoản 2 Điều 23) không được phép áp dụng: a) chẳng những chỉ đối với các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (được quy định tại các điều 341 – 344 BLHS năm 1999 – các điều 277 – 279 BLHS năm 1985 trước đây); b) mà còn đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia (được quy định tại các điều 78 – 91 BLHS năm 1999).

III.

1. Bằng quy định của khoản 1 Điều 55 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam đã ghi nhận một quy phạm riêng biệt đề cập đến ĐNPL của khái niệm thời hiệu thi hành bản án hình sự là gì? – “là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên”. Đây chính là một điểm mới trong BLHS năm 1999 (mà trước đây trong BLHS năm 1985 không có). Do vậy, cũng như ĐNPL của thời hiệu truy cứu TNHS (khoản 1 Điều 23 BLHS năm 1999), ĐNPL này có ý nghĩa khoa học – thực tiễn quan trọng đối với sự phát triển của PLHS Việt Nam nói riêng, cũng như đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung ở nước ta hiện nay.

2. Bằng các quy định của khoản 2 Điều 55 BLHS năm 1999, PLHS Việt Nam hiện hành đã điều chỉnh cụ thể ba thời hạn thi hành BAHS khác nhau tương ứng với các loại hình phạt và mức hình phạt mà các cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền chỉ có thể và phải căn cứ vào đó để thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án (người đã thực hiện tội phạm). Nói một cách khác, theo quy định của BLHS năm 1999, khi đã hết các thời hạn do luật định tại khoản 2 Điều 55 tương ứng với các loại hình phạt (phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù) và mức hình phạt (ba năm tù trở xuống, ba năm tù đến mười lăm năm tù, trên mười lăm năm tù đến ba mươi năm tù), thì không được thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án. Trong trường hợp có nhiều bản án đối với một người thì phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án và căn cứ để tính thời hiệu là hình phạt tổng hợp chung. Nếu trong bản án có nhiều người bị kết án, thì mỗi người sẽ được áp dụng thời hiệu thi hành BAHS phù hợp với loại hình phạt và mức hình phạt đối với họ.

* Về cơ bản, căn cứ vào Điều 226 Bộ luật TTHS, thì thời điểm thi hành BAHS đối với người bị kết án bắt đầu được tính từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật (bao gồm: những BAHS của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; những BAHS của Tòa án cấp phúc thẩm và những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm), chứ không phải từ thời điểm người đó có BAHS (bản án sơ thẩm) hoặc từ thời điểm BAHS có hiệu lực thi hành (bản án có hiệu lực pháp luật kèm theo các điều kiện khác phát sinh sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ví du: thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với A về tội giết người theo Điều 93 BLHS năm 1999 phải được tính từ ngày bản án đó có hiệu lực pháp luật (có thể là bản án hình sự không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bản án hình sự phúc thẩm hoặc quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm), chứ không phải là từ ngày có BAHS hoặc từ ngày BAHS có hiệu lực thi hành đối với A.

* Việc tính lại thời hiệu đã qua đối với tất cả ba thời hạn (tương ứng với các loại hình phạt và mức hình phạt được nêu tại khoản 2 Điều 55 BLHS năm 1999) có nghĩa là: nếu người bị kết án trong một thời hạn nhất định đã qua lại phạm tội mới (không kể là họ có bị phạt tù hay không), thì thời gian đã qua không được tính vào thời hiệu thi hành BAHS mà sẽ được tính lại kề từ ngày người đó phạm tội mới (cần lưu ý là trong BLHS năm 1985 trước đây còn quy định thêm ngoài việc người bị kết án đó phạm tội mới thì họ còn phải bị xét xử và bị áp dụng hình phạt tù).

* Căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc là: kể từ ngày bản án hình sự có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án nhất thiết phải qua một thời hạn nhất định và thời hạn ấy phải do BLHS quy định (khoản 1).

* Ba điều kiện cần, đủ là: a) Điều kiện thứ nhất – một trong các thời hạn đã qua ấy phải tương ứng với một trong các loại hình phạt và mức hình phạt được BLHS quy định cụ thể (khoản 2); b) điều kiện thứ hai – trong khoảng thời gian đã qua ấy, người bị kết án phải không được phạm tội mới và không kể là hình phạt ấy có phải là tù hay không (đoạn 1 khoản 3); c) và cuối cùng, điều kiện thứ ba – trong khoảng thời gian đã qua ấy, người bị kết án không cố tình trốn tránh (hoặc mặc dù họ cố tình trốn tránh) và đối với người bị kết án đó phải không có lệnh truy nã của cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (đoạn 2 khoản 3).

6. Bằng các quy phạm tại khoản 4 Điều 55 BLHS năm 1999, nhà làm luật Việt Nam quy định việc áp dụng thời hiệu đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình sau khi đã qua thời hạn mười lăm năm, thì do Chánh án TANDTC quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSNDTC. Trong trường hợp không cho áp dụng thời hiệu thi hành bản án thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân, tù chung thân được chuyển thành tù ba mươi năm (khác với quy định tương ứng trong BLHS năm 1985 trước đây là “tù chung thân sẽ đổi thành tù hai mươi năm”). Do vậy, chỉ những hành vi phạm tội nào được thực hiện từ ngày 1/7/2000 mà người đó bị phạt tù chung thân thì mới được chuyển thành tù ba mươi năm.

7. Theo quy định của Điều 56 BLHS năm 1999, thì chế định thể hiện tính nhân đạo về thời hiệu thi hành BAHS không được phép áp dụng: a) không chỉ những đối với các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (được quy định tại các Điều 341 – 344 BLHS năm 1999 tương ứng với các Điều 277 – 279 BLHS năm 1985 trước đây); b) mà còn đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia (được quy định tại các Điều 78 – 91 BLHS năm 1999). Như vậy, phạm vi không áp dụng thời hiệu thi hành BAHS được mở rộng theo hướng nghiêm khắc hơn đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều đó phản ánh rõ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là kiên quyết bảo vệ an ninh quốc gia, cũng như thẳng tay trừng trị những người xâm phạm an ninh, hòa bình và ổn định của các nước khác trên thế giới.

IV.

1. Một là, bằng một số quy phạm mới trong BLHS năm 1999, chế định thời hiệu trong luật hình sự nước ta đã thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự của Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền.

2. Hai là, để không bị truy cứu TNHS (hoặc không phải chấp hành bản án hình sự) do hết thời hiệu được quy định trong PLHS, thì ngoài căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc (kể từ ngày tội phạm mà người đó thực hiện hoặc từ ngày bản án hình sự đã được tuyên nhất thiết phải qua một thời hạn nào ấy do luật định), người đó phải đáp ứng được một loạt những điều kiện cần đủ, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định.

3. Ba là, bên cạnh việc lĩnh hội quy định được thừa nhận chung của PLHS quốc tế về thời hiệu – không áp dụng chế định này đối với các tội xâm phạm hòa bình và an ninh của nhân loại, PLHS Việt Nam cũng còn có quy định riêng thể hiện tính nghiêm khắc hơn trong việc tăng cường xu hướng trấn áp về hình sự – không áp dụng chế định này đối với cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia.

4. Và cuối cùng, chế định thời hiệu trong luật hình sự là một trong các chế định cơ bản của luật hình sự Việt Nam nên việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa chế định này để làm sáng tỏ về mặt lý luận là nhiệm vụ quan trọng hiện nay của khoa học luật hình sự nước ta

Chế Định Quyền Thừa Kế Trong Pháp Luật Dân Sự Việt Nam

Đặt vấn đề Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào thì vấn đề thừa kế cũng có vị trí đặc biệt quan trọng trong các chế định pháp luật, đây là một hình thức pháp lý quan trọng để bảo vệ các quyền công dân nói chung. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Trong mỗi nhà nước, mỗi giai cấp, mỗi giai tầng chính trị mặc dù có những xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi vấn đề thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân, điều đó đều được quy định rất cụ thể trong Hiến pháp (đạo luật cao nhất) của quốc gia mình.

Ở nước ta, nhận thức sớm được vai trò đặc biệt quan trọng của chế định quyền thừa kế, nên ngay từ những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê…cũng đã lưu ý và ban hành các quy định pháp luật về thừa kế nhằm bảo hộ quyền lợi của người dân. Pháp luật về quyền thừa kế ở nước ta lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hồng Đức dưới triều đại của Vua Lê Thái Tổ và vấn đề này nằm trong chương Điền Sản của Bộ luật. Trải qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, chế định này đã được quy định, mở rộng và được quy định rất cụ thể trong các bản Hiến pháp của nhà nước ta như: Điều 19 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân”; Điều 27 Hiến pháp năm 1980 “Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”; Điều 58 Hiến pháp năm 1992 “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân”…trong giai đoạn này, sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995, sau đó là Bộ luật Dân sự năm 2005 đã đánh dấu sự phát triển của hệ thống pháp luật dân sự của nước ta nói chung, pháp luật về thừa kế nói riêng; Bộ luật Dân sự năm 2005 được xem là thành quả của quá trình pháp điển hóa những quy định của pháp luật về quyền thừa kế, nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của công dân nói chung, nhất là những người được hưởng thừa kế; Chưa dừng lại ở đó, Hiến pháp năm 2013 còn quy định khá chặt chẽ về quyền thừa kế, cụ thể tại Điều 32 “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”, thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2023 đã quy định khá chặt chẽ về quyền thừa kế nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

1.Khái niệm Nghiên cứu về thừa kế, Ph. Ăngghen viết: “Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên người mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn nên loại này trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ”.

Trên thực tế đã có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền thừa kế: Theo quan điểm của TS. Phạm Văn Tuyết và chúng tôi Lê Kim Giang trong cuốn “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” thì: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Theo cuốn từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì: “Quyền thừa kế là quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình tự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống. Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền của người thừa kế. Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa chủ quan là quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản. Quyền chủ quan này phải phù hợp với các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Tại Bộ luật Dân sự năm 2023, Điều 609 của Bộ luật đã đưa ra khái niệm về quyền thừa kế: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”.

Trên cơ sở các quan điểm trên, tác giả cũng đưa ra quan điểm của mình về quyền thừa kế: “Quyền thừa kế là quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết gồm quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản cho người thừa kế theo pháp luật và quyền hưởng di sản gồm quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.

2. Các hình thức thừa kế 2.1. Thừa kế theo di chúc Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết (Điều 624 Bộ luật Dân sự 2023). Pháp luật về thừa kế nước ta quy định hai hình thức di sản là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật đồng thời được áp dụng trong việc phân chia di sản của người chết để lại. Di sản của người chết có thể vừa được chia theo di chúc, vừa được chia theo pháp luật hoặc di sản chỉ được chia theo một hình thức là chia hết theo di chúc hoặc chia hết theo pháp luật. Việc chia thừa kế theo hình thức này hoặc hình thức kia tùy thuộc vào việc người chết có để lại di chúc hay không để lại di chúc hoặc tùy thuộc vào phần của di chúc không có hiệu lực thi hành hoặc toàn bộ di chúc không có hiệu lực trong việc chia di sản của người để lại di chúc. Di chúc là sự thể hiện ý nguyện cuối cùng của người lập di chúc, do vậy pháp luật thừa kế tôn trọng và bảo hộ ý nguyện cuối cùng đó của người lập di chúc trong việc phân chia di sản của người đó cho những người thừa kế được chỉ định hưởng di sản theo di chúc. Tuy nhiên ý nguyện của người lập di chúc không phải bao giờ và khi nào cũng được pháp luật bảo hộ một cách tuyệt đối mà quyền định đoạt của người lập di chúc còn bị hạn chế trong những trường hợp luật định. Ý nguyện của người lập di chúc được thể hiện thông qua quan hệ dân sự của cá nhân được pháp luật quy định. Theo quy định trên, ý chí của một cá nhân nhằm dịch chuyển tài sản của mình sau khi chết cho người khác được thông qua một di chúc. Sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm định đoạt tài sản được thông qua hành vi pháp lý để dịch chuyển quyền sở hữu của người để lại di sản cho người khác sau khi người này chết. Vì vậy, di chúc gồm những đặc điểm sau: (i) Di chúc là giao dịch dân sự đơn phương của cá nhân; (ii) Di chúc có hiệu lực kể từ ngày người lập di chúc chết; (iii) Di chúc có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ bất cứ lúc nào; (iv) Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản bằng một hành vi pháp lý của người lập di chúc; (v) Di chúc phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định. người lập di chúc. Theo quy định tại Điều 625 Bộ luật Dân sự năm 2023 “Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”.

Người lập di chúc, là người mà theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để định đoạt khối tài sản của mình cho những người khác còn sống sau khi chết với ý chí hoàn toàn tự nguyện. Người lập di chúc ở đây chỉ có thể là cá nhân mà không thể là cơ quan, tổ chức. Tài sản của cơ quan, tổ chức là tài sản chung của một chủ thể pháp lý, cá nhân không có quyền định đoạt các tài sản đó. Người lập di chúc là chủ thể đầu tiên trong quan hệ thừa kế theo di chúc, căn cứ vào năng lực chủ thể của mỗi cá nhân trong việc nhận thức và thể hiện ý chí cũng như khả năng tạo lập được tài sản thuộc sở hữu của mình mà pháp luật quy định hai chủ thể là người có quyền lập di chúc để dịch chuyển tài sản của mình cho người còn sống sau khi chết gồm:

Một là, người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, tức là người lập di chúc này là người đã thành niên và tại thời điểm lập di chúc họ là người minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, cưỡng ép hay đe dọa. Theo quy định tài Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2023 thì “người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên” và người thành niên được coi là người có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ, trừ trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Họ có khẳ năng nhận thức, thực hiện hành vi và hậu quả của hành vi, tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Thứ hai, quyền của người lập di chúc Người lập di chúc có các quyền sau: (i) Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; (ii) Phân định phần di sản cho tường người thừa kế; (iii) Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; (iv) Giao nghĩa vụ cho người thừa kế; (v) Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản (Điều 626 Bộ luật Dân sự năm 2023). Đối với cá nhân người để lại tài sản, với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của bản thân sau khi họ chết. Quyền định đoạt của người có tài sản lập di chúc chỉ có hiệu lực khi việc định đoạt bằng di chúc thỏa mãn các điều kiện về di chúc hợp pháp được quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật như: cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột, ông, bà, cháu…mà không buộc phải nêu rõ lý do. Nếu người bị truất quyền thừa kế thì người thừa kế không còn quyền hưởng di sản theo di chúc và theo pháp luật. Nếu người thừa kế không được chỉ định trong di chúc chưa hẳn đã bị truất quyền hưởng di sản, chẳng hạn như: Ông A có vợ là bà B và 3 người con là C, D, e đều đã thành niên, di sản thừa kế của ông là 70 triệu đồng. Trước khi qua đời, ông lập di chúc như sau: Bà B hưởng 30 triệu đồng, C và D mỗi người hưởng 10 triệu đồng, E không được chỉ định trong di chúc. Ông A chỉ định đoạt 50 triệu đồng, còn 20 triệu không được ông định đoạt trong di chúc thì sẽ chia theo quy định của pháp luật, lúc này phần 20 triệu còn lại sẽ được chia làm 4 phần, E được hưởng 5 triệu với tư cách là người được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.

Thứ ba, hình thức của di chúc Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc bằng miệng (Điều 627).

Một là, đối với di chúc bằng văn bản gồm: (i) Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; (ii) Di chúc bằng văn bản có người làm chứng; (iii) Di chúc bằng văn bản có công chứng; (iv) Di chúc bằng văn bản có chứng thực. Ở đây, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mà người lập di chúc lựa chọn một trong các loại theo quy định của pháp luật để thể hiện ý chí định đoạt tài sản của mình trong đó. Hình thức của di chúc là phương thức biểu đạt ý chí của người lập di chúc, là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Pháp luật quy định di chúc phải được lập dưới những hình thức nhất định.

Hai là, đối với di chúc miệng, di chúc miệng (còn được gọi là chúc ngôn) là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người khác sau khi chết.

Trong những trường hợp thông thường, pháp luật chỉ thừa nhận hình thức di chúc bằng văn bản, thể hiện một cách rõ ràng ý chí của người để lại di sản, làm cơ sở để phân định di sản thừa kế. Di chúc miệng chỉ được công nhận trong trường hợp: (i) Tính mạng của một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng; (ii) Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ (Điều 629 Bộ luật Dân sự 2023).

Theo quy định trên, di chúc miệng chỉ được công nhận với những điều kiện về hình thức và thủ tục rất nghiêm ngặt, cụ thể: (i) Là người thành niên, tại thời điểm lập di chúc hoàn toàn minh mẫn và sáng suốt, người từ 15 đến 18 tuổi không có quyền lập di chúc miệng; (ii) Người lập di chúc chỉ có thể lập di chúc trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản; (iii) Người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Những người làm chứng không thuộc phạm vi cấm của Điều 632 Bộ luật Dân sự. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày di chúc miệng, thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc xác thực. Trường hợp này thì cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn không thể chứng thực nội dung di chúc vì người có thẩm quyền công chứng, chứng thực không thể biết được ý chí của người lập di chúc. Mặt khác, cũng không thể xác nhận chữ ký của người làm chứng, vì họ ký ngay sau khi ghi lại nội dung di chúc miệng của người để lại di chúc. Do vậy, trường hợp này sẽ chứng thực ngày di chúc đó được yêu cầu công chứng, chứng thực; (iv) Sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

2.2. Thừa kế theo pháp luật

Như phân tích ở trên, sự dịch chuyển di sản từ một người đã chết sang cho người còn sống được thực hiện theo một trong hai căn cứ là ý chí của người để lại di sản và quy định của pháp luật. Nếu sự dịch chuyển di sản đó căn cứ vào ý chí của người chết để lại thì được gọi là thừa kế theo di chúc, nếu sự dịch chuyển tài sản của người chết sang cho người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật thì được gọi là thừa kế theo pháp luật. Như vậy, thừa kế theo pháp luật được hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch chuyển di sản của người chết sang những người còn sống theo quy định của pháp luật về thừa kế. Mặt khác, theo quy định của pháp luật thì khi không có căn cứ để dịch chuyển di sản của người chết theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch chuyển theo quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế. Điều 649 Bộ luật Dân sự năm 2023 đã định nghĩa về thừa kế theo pháp luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.

Thứ nhất, những trường hợp thừa kế theo pháp luật Các văn bản pháp luật về thừa kế ở nước ta từ trước đến nay đều liệt kê các trường hợp thừa kế theo pháp luật như: Bộ luật Dân sự Bắc kỳ năm 1931; Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/05/1950; Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 của Tòa án nhân dân tối cao; Pháp lệnh Thừa kế năm 1990; Bộ luật Dân sự năm 1995; Bộ luật Dân sự năm 2005 và gần đây nhất là Bộ luật Dân sự năm 2023. Tất cả các văn bản pháp luật trên đều quy định rất cụ thể về các trường hợp thừa kế theo pháp luật.

Hiệu Lực Không Gian Của Bộ Luật Hình Sự Việt Nam

Hiệu lực không gian của Bộ luật hình sự. Phạm vi tác động về không gian của Bộ luật hình sự được quy định và hiểu như thế nào?

Bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào đươc ban hành đều phải xác định rõ phạm vi tác động về không gian và đối tượng tác động của văn bản pháp luật đó. Đó chính là hiệu lực về không gian của văn bản quy phạm pháp luật.

Lãnh thổ Việt Nam theo Bộ luật hình sự Việt Nam được hợp thành bởi ba bộ phận:

+ Lãnh thổ có thực: bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời thuộc chủ quyền của Việt Nam.

+Lãnh thổ mở rộng: Tàu thủy mang cờ hiệu của Việt Nam đang ngoài vùng biển quốc tế, máy bay dân dụng mang cờ hiệu của Việt Nam trên đường bay. Tàu chiến, máy bay quân sự của Việt Nam đang ở bất cứ nơi nào.

+Lãnh sự quán, Đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài.

Hành vi được coi là phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam nếu bắt đầu hoặc kết thúc hoặc diễn ra trọn vẹn trong phạm vi không gian nói trên.

2. Hiệu lực về không gian của Bộ luật hình sự

a) Đối với hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam

Như vậy, với quy định trên thì Bộ luật hình sự có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam dù người đó là công dân Việt Nam, người nước ngoài, hay người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam.

Tuy nhiên, đối với đối tượng là người nước ngoài được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao là trường hợp ngoại lệ được quy định tại Khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự: ” Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.

Như vậy, Bộ luật hình sự có các quy định ngoại lệ đối với các đối tượng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp với hai nhóm như sau:

+Theo pháp luật Việt Nam, theo hiệp định Quốc tế mà Việt Nam tham gia thì những đối tượng được hưởng các đắc quyền ngoại giao là thành viên của đoàn ngoại giao trở lên.

b) Đối với hành vi phạm tội xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam

Trước hết, đối với công dân Việt Nam, người không có quốc tịch thường trú tại Việt Nam. Đối với đối tượng này khi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, nguyên tắc áp dụng Bộ luật hình sự tại khoản 6 quy định: ” Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này”.

Như vậy, nếu công dân Việt nam hoặc người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội đã thực hiện được quy định trong Bộ luật hình sự. Vì theo nguyên tắc quốc tịch thì công dân Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam ở bất cứ nơi nào, đồng thời phải tuân thủ pháp luật ở nước sở tại.

Đối với người nước ngoài khi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, nguyên tắc áp dụng Bộ luật hình sự được quy định tại Khoản 2 Điều 6 Bộ luật hình sự: ” Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia”.

Đó là những tội được quy định tại Chương XXIV của Bộ luật hình sự – tội phá hoại hòa hình, chống loài người, chiến tranh, các tội phạm các quyền và lợi ích cơ bản của công dân Việt Nam.

Khái Niệm Luật Hình Sự Việt Nam

Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm.

Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm – loại vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao hơn hẳn so với các loại vi phạm pháp luật khác cho xã hội. Nhà nước sử dụng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp pháp luật hình sự (PLHS). Biện pháp này được Nhà nước sử dụng thể hiện trước hết qua hoạt động xây dựng pháp luật mà kết quả là các văn bản quy phạm PLHS quy định về tội phạm và hình phạt được ra đời. Các quy phạm pháp luật này tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng với nhau trong một hệ thống tạo thành ngành luật hình sự.

Vậy, Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy.

2. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự

Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm PLHS tác động tới là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Luật hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra – đó cũng chính là các quan hệ PLHS.

Vậy, Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm.

Thời điểm bắt đầu xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự là thời điểm người phạm tội bắt đầu thực hiện tội phạm và quan hệ pháp luật này chấm dứt khi người phạm tội được xoá án tích. Trong cả quá trình này xuất hiện đồng thời quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, quan hệ pháp luật dân sự… Tuy nhiên, quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, đa số trường hợp bắt đầu xuất hiện khi có quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can.

Trong quan hệ pháp luật hình sự luôn có hai chủ thể với những vị trí pháp lý khác nhau.

1. Nhà nước: Có quyền truy tố, xét xử người phạm tội, buộc họ phải chịu những biện pháp trách nhiệm hình sự nhất định để bảo vệ pháp luật bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Nhà nước thực hiện quyền này bằng cách thể hiện ý chí của mình trong Bộ luật hình sự. Mặt khác, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội.

2. Người phạm tội: Có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước áp dụng đối với mình. Mặt khác, họ có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Xuất phát từ chức năng điều chỉnh và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật này, luật hình sự sử dụng phương pháp quyền uy – phương pháp sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự. Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người phạm tội không bị cản trở hay phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Người phạm tội phải phục tùng những biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng với họ. Trách nhiệm của người phạm tội về tội phạm mà họ đã gây ra là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải trách nhiệm đối với người bị hại hay trách nhiệm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.

Tổ bộ môn Luật Hình sự – Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình, tổng hợp

Nội dung trong bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (chú thích rõ trong bài viết).

Bài viết được sử dụng không nhằm mục đích thương mại, chỉ nhằm mục đích giảng dạy, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Khoa Luật Kinh tế – Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest.

Về Tội Phạm Có Dấu Hiệu “Có Tổ Chức” Trong Luật Hình Sự Việt Nam

TS. Lê Thị Sơn

 Theo Tạp chí Luật học số 1/2003 (1/2003) 

Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng sử dụng luật hình sự như là công cụ hữu hiệu để đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” nói riêng. Tuy nhiên, luật hình sự các nước quy định về nhóm tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” lại rất khác nhau. Luật hình sự Việt Nam quy định vấn đề này là xuất phát từ yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam. Nhưng câu hỏi vẫn được đặt ra là quy định này đã đáp ứng được ở mức độ nào yêu cầu của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu để làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề, từ đó đưa ra kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức”.

1. Nghiên cứu BLHS hiện hành cho thấy ở một số tội phạm, dấu hiệu “có tổ chức” được quy định là dấu hiệu định tội thuộc mặt khách quan của tội phạm. Cụ thể: Hành vi khách quan của một số tội phạm được quy định có đặc điểm là có tổ chức. Vậy những tội phạm nào có hành vi khách quan mang đặc điểm có tổ chức? Theo quan điểm của chúng tôi, các dạng hành vi khách quan sau đây mang đặc điểm có tổ chức:

Thứ nhất, dấu hiệu “có tổ chức” được phản ánh qua quy định hành vi khách quan của tội phạm dưới dạng là hoạt động chung có tổ chức của nhiều người. Các tội phạm thuộc loại này là một số tội xâm phạm an ninh quốc gia mà điển hình là tội bạo loạn (Điều 82 BLHS). Đặc điểm có tổ chức ở tội này được phản ánh qua dấu hiệu hành vi khách quan là hoạt động vũ trang có tổ chức hoặc hoạt động bạo lực có tổ chức của nhiều người. Những người tham gia hoạt động vũ trang hoặc bạo lực có tổ chức dù với vai trò nào cũng là những người thực hiện tội phạm này. Việc xác định vai trò của từng người thực hiện tội phạm trong hoạt động chung có tổ chức không phải là điều kiện để xác định có trách nhiệm hình sự hay không mà để xác định khung hình phạt áp dụng đối với họ. Chính vì vậy mà điều luật quy định về những tội phạm này bao giờ cũng có các khung hình phạt khác nhau cho các đối tượng người thực hiện tội phạm với vai trò khác nhau. Khung hình phạt quy định cho người có vai trò có tổ chức, hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng nghiêm khắc hơn khung hình phạt quy định cho những người khác (Điều 81 – Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Điều 82 – Tội bạo loạn; Điều 83 – Tội hoạt động phỉ; Điều 89 – Tội phá rối an ninh; Điều 91 – Tội trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền dân chủ nhân dân).

Thứ hai, dấu hiệu có tổ chức được phản ánh qua quy định hành vi khách quan của tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân (Điều 79 BLHS). Đặc điểm có tổ chức của hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện ở hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân. Điều luật không đòi hỏi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân nhất thiết phải là hoạt động do nhiều người thực hiện nhưng việc thực hiện hoạt động đó không thể không cấu kết với nhiều người. Đây là điều luật duy nhất quy định hành vi khách quan của tội phạm là hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm. Như vậy, theo luật hình sự Việt Nam, hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức có mục đích phạm tội chỉ cấu thành tội phạm khi tổ chức đó là tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân. Đây là tổ chức tội phạm duy nhất được quy định trong luật hình sự Việt Nam.

Thứ ba, ở một số ít tội phạm khác thì dấu hiệu có tổ chức lại được quy định là hành vi tổ chức việc thực hiện hành vi phạm tội (hoặc vi phạm) của người khác. Đó là các tội: Tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197); Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206); Tội tổ chức đánh bạc (Điều 249) và Tội tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275). Người phạm các tội phạm này là người có hành vi có tổ chức cho người khác thực hiện hành vi thuộc tội tảo hôn, tội sử dụng trái phép chất ma tuý, tội đua xe trái phép, tội đánh bạc, tội trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép. Hành vi tổ chức có thể là hành vi lôi kéo, rủ rê, kích động hoặc là hành vi sắp đặt hoặc tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật. Điều luật không đòi hỏi hành vi tổ chức phải là hành vi do nhiều người thực hiện. Nhưng trên thực tế vẫn có thể có trường hợp nhiều người cùng cố ý thực hiện các tội phạm này.

2. Ngoài việc quy định dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu định tội nêu trên, BLHS còn quy định dấu hiệu phạm tội có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Việc quy định này chỉ được thực hiện đối với các tội phạm cố ý mà hành vi khách quan của tội này không được quy định phải là hành vi chung của nhiều người phạm tội. Như vậy, nhóm tội thứ nhất trong ba nhóm tội thuộc loại tội có dấu hiệu định tội là dấu hiệu có tổ chức nêu ở mục trên không thuộc các tội phạm này. Phạm tội có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức là trường hợp nhiều người cùng cố ý thực hiện tội phạm mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ (khoản 3 Điều 17 BLHS). Đối với nhiều tội phạm, tình tiết phạm tội có tổ chức được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt (ở 78 Điều luật của phần các tội phạm cụ thể). Đối với những tội phạm cố ý còn lại, phạm tội có tổ chức được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm a khoản 1 Điều 48 BLHS). Dấu hiệu có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức nói ở đây là dấu hiệu phản ánh phương thức thực hiện hành vi phạm tội (hành vi phạm tội có thể được thực hiện bằng phương thức này hoặc không phải bằng phương thức này). Trong khi đó dấu hiệu có tổ chức nói ở mục trên là dấu hiệu phản ánh chính đặc điểm bắt buộc của hành vi phạm tội. Trong thực tế, nhóm tội thứ hai và thứ ba trong ba nhóm tội thuộc loại tội có dấu hiệu định tội là dấu hiệu có tổ chức nêu ở mục trên có thể được thực hiện bằng phương thức có tổ chức. Như vậy, dấu hiệu có tổ chức của trường hợp này thể hiện ở cả đặc điểm bắt buộc của hành vi phạm tội và ở cả phương thức thực hiện hành vi phạm tội.

Từ những phân tích trên cho thấy luật hình sự Việt Nam đã quy định hai loại tội phạm mang đặc điểm có tổ chức. Đó là loại tội có dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu định tội và loại tội phạm có dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu tăng nặng định khung hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hai loại tội phạm này có thể được gọi chung là tội phạm có tổ chức. Việc quan niệm tội phạm có tổ chức như vậy là hoàn toàn dựa trên cơ sở quy định của BLHS hiện hành. Thuộc về tội phạm có tổ chức không bao gồm những hành vi mà luật hình sự Việt Nam chưa quy định là tội phạm như hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm thực hiện một hoặc nhiều tội phạm nhất định, tuy những hành vi đó đã được luật hình sự một số nước quy định là tội phạm. Như vậy, có thể định nghĩa tội phạm có tổ chức như sau: Tội phạm có tổ chức là tội phạm mà việc thực hiện hành vi khách quan đòi hỏi phải có sự cấu kết với nhiều người hoặc hành vi khách quan được thực hiện với sự cấu kết chặt chẽ của nhiều người.

3. Tình hình tội phạm có tổ chức ở Việt Nam trong những năm gần đây đang đặt ra đòi hỏi phải hoàn thiện quy định của BLHS về tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức”. Các nhận định của nhiều tác giả cũng như các số liệu thống kê phản ánh tình hình tội phạm có tổ chức trong những năm gần đây của Tổng cục cảnh sát nhân dân Bộ công an đã được công bố ở nhiều bài viết, công trình khác nhau,(1) cho thấy tình hình là ngày càng nhiều tổ chức được thành lập nhằm mục đích thực hiện tội phạm mà hiện nay được tạm gọi là băng, ổ, nhóm tội phạm hoặc tổ chức tội phạm theo kiểu xã hội đen. Trong khi đó số tội phạm có tổ chức do các có tổ chức tội phạm đó thực hiện bị phát hiện lại có xu hướng giảm. Ví dụ, nếu như năm 1992 phát hiện được 67.742 vụ phạm tội hình sự (không kể các vụ phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia) do 2.365 băng, nhóm tội phạm thực hiện thì đến năm 2001 phát hiện được 45. 962 vụ phạm tội hình sự do 2.972 băng, nhóm tội phạm thực hiện.(2) Trong khoảng thời gian 6 năm (từ năm 1992 đến năm 1997) chúng ta đã phát hiện được 13.134 băng, ổ, nhóm tội phạm.(3) Nhưng trong khoảng thời gian chỉ 4 năm tiếp đó (từ năm 1998 đến 2001) chúng ta cũng đã phát hiện được số băng, ổ, nhóm tội phạm tương đương là 13.068.(4) Đặc biệt trong vài năm gần đây đã xuất hiện nhiều tổ chức tội phạm theo kiểu xã hội đen, chuyên hoạt động phạm tội trên nhiều lĩnh vực, thậm chí cấu kết với cả với các có tổ chức tội phạm nước ngoài, dùng bạo lực hoặc nhiều thủ đoạn nguy hiểm để mở rộng và tăng mức độ ảnh hưởng của tổ chức… Điển hình là tổ chức tội phạm theo kiểu xã hội đen Phúc Bồ, Khánh Trắng ở Hà Nội và Trương Văn Cam ở thành phố Hồ Chí Minh. Hậu quả của việc hình thành, tồn tại và phát triển các tổ chức tội phạm nêu trên không chỉ thể hiện ở các tội phạm do các tổ chức tội phạm đó gây ra mà còn thể hiện ở sự gây nguy hại nghiêm trọng cho trật tự, an toàn công cộng. Ngay sự thành lập những tập hợp người có cùng mục đích phạm tội mà chưa cần có hoạt động phạm tội cụ thể đã đe doạ gây nguy hại cho trật tự, an toàn công cộng. Việc đấu tranh chống các tổ chức tội phạm này cần phải được bắt đầu ngay khi có tổ chức đó mới được hình thành. Như vậy, đấu tranh triệt để chống các tổ chức tội phạm không thể chỉ thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm có tổ chức do các tổ chức tội phạm gây ra mà phải bao gồm cả việc đấu tranh chống sự hình thành và tồn tại của các tổ chức tội phạm đó. Có như vậy, mới có thể hạn chế được sự hình thành và gia tăng của các tổ chức tội phạm cũng như ngăn chặn các tội phạm có tổ chức do các tổ chức tội phạm thực hiện.

Tuy nhiên, quy định của BLHS hiện hành về các tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Các quy định của BLHS mới chỉ cho phép đấu tranh chống các tổ chức tội phạm thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm do các tổ chức đó thực hiện. BLHS hiện hành chưa tạo cơ sở pháp lí để đấu tranh trực tiếp và ngăn chặn kịp thời sự hình thành và tồn tại của các tổ chức tội phạm. Vì vậy, theo chúng tôi, BLHS nên có thêm quy định coi những hành vi thành lập, tham gia hoặc hỗ trợ tổ chức có mục đích thực hiện tội phạm là tội phạm. BLHS không nên chỉ dừng lại ở việc quy định hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm đặc biệt như tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân mới là tội phạm.

4. Qua nghiên cứu luật hình sự nước ngoài cho thấy một số nước đã có những kinh nghiệm nhất định trong việc quy định loại tội phạm này.

BLHS của Cộng hoà Pháp có cách quy định đơn giản hơn về tội “tham gia tổ chức tội phạm”. Theo Điều 450-1 tổ chức tội phạm là nhóm người được tập hợp lại nhằm thực hiện một hay nhiều trọng tội hay khinh tội có mức phạt tù là 10 năm. Người tham gia vào tổ chức tội phạm này sẽ bị phạt tù 10 năm và phạt tiền 1.000.000 frăng. Khi quy định về cấu thành tội phạm của tội phạm này, BLHS của Cộng hoà Pháp không phân biệt hành vi thành lập tổ chức với hành vi tham gia tổ chức mà quy định chung cho hai loại hành vi đó là hành vi tham gia tổ chức tội phạm.

Những đánh giá về thực trạng quy định các tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” trong BLHS Việt Nam hiện hành cùng những nhận thức đúng về yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có tổ chức ở Việt Nam cũng như sự tham khảo có chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số nước trên thế giới về loại tội tổ chức tội phạm là những cơ sở thuyết phục cho phương hướng hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức”./.

 

(1).Xem: Phạm Thường Khanh, Về khái niệm “tội phạm có tổ chức”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/1997, tr. 42; TS. Trần Hữu ứng, Nhận dạng về tội phạm có tổ chức ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí toà án nhân dân số 1/1998 tr. 24-27; Nhận diện về tội phạm có tổ chức và đấu tranh với những có tổ chức tội phạm ở Việt Nam, Báo An ninh thế giới ngày 27/6/2002, tr.1, 2; Nguyễn Trung Thành, Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống (Luận án tiến sĩ luật học), năm 2002…

(2), (4).Xem: Nguyễn Trung Thành, Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng, chống (Luận án tiến sĩ luật học), năm 2002, tr. 212.

(3).Xem: Nhận diện tội phạm có tổ chức và đấu tranh với những có tổ chức tội phạm ở Việt Nam, Báo An ninh thế giới, ngày 27/6/2002, tr.2.

Khái Niệm Tội Phạm Trong Bộ Luật Hình Sự Việt Nam

Bộ luật Hình sự được Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2023 (sửa đổi bổ sung năm 2023). Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội.

I/ Khái niệm tội phạm, định nghĩa tội phạm, tội phạm là gì?:

Được quy định tại Điều 8 của Bộ luật Hình sự 2023, sửa đổi bổ sung năm 2023 như sau:

” 1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”

1- Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm: Theo luật hình sự Việt Nam, tội phạm chỉ có thể là hành vi nguy hiểm cho xã hội của con người. Những tư tưởng suy nghĩ của con người nếu chưa thể hiện qua bên ngoài bằng hành vi (hành động hoặc không hành động) thì không thể bị coi là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản có ý nghĩa quyết định đối với các dấu hiệu khác của tội phạm vì chỉ khi một hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội thì mới bị quy định là tội phạm.

Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thể hiện ở chỗ nó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội.

– Tính có lỗi của tội phạm: Lỗi là thái độ tâm lý và hành vi của con người (thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý) đã thực hiện và hậu quả đã xẩy ra.

– Tính trái pháp luật: Một hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm nếu “được quy định trong Bộ Luật Hình sự”. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế: “Không ai bị kết tột vì những hành động hay những sơ suất mà khi bị buộc tội đó không phải là một hành vi phạm tội theo luật quốc gia hay luật quốc tế” (Khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc”.

– Tính phải chịu hình phạt: Thể hiện ở chỗ chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt. Điều đó có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước. Việc áp dụng hình phạt không phải là bắt buộc trong mọi trường hợp. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn chấp hành hình phạt trong các trường hợp được Bộ Luật Hình sự quy định.

2- Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Có thể xử lý bằng các chế tài dân sự, hành chính.

Ví dụ: Hành vi đánh bạc bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội đánh bạc. Còn dưới 5.000.000 đồng thì chỉ bị xử phạt hành chính. (Điều 321 – Bộ Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2023).

So với Điều 8 Bộ Luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 và Điều 8, Bộ Luật Hình sự 2023, sửa đổi bổ sung 2023 có những điểm mới như:

– Bổ sung pháp nhân thương mại phạm tội là chủ thể của tội phạm;

– Khách thể tội phạm mà Bộ Luật Hình sự 2023, sửa đổi, bổ sung 2023 được bộ luật này bảo vệ quy định rộng hơn, khái quát hơn, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, bổ sung “quyền con người” trước “quyền, lợi ích hơp pháp của công dân” nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân;

– Khái niệm tội phạm được bổ sung cụm từ “mà theo quy định của Bộ Luật này phải bị xử lý hình sự” nhằm thể hiện rõ hơn mối quan hệ tội phạm và trách nhiệm hình sự: tội phạm phải bị xử lý theo quy định của Bộ luật này và ngược lại, trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

II. Phân loại tội phạm

Điều 9, Bộ Luật hình sự 2023, được sửa đổi bổ sung năm 2023

” 1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù; 3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù; 4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

Việc phân loại tội phạm là căn cứ không chỉ là căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể mà còn để xây dựng các khung hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể trong Bộ luật này phù hợp với chính sách hình sự của nhà nước. Đây cũng là cơ sở pháp lý để các cơ quan tố tụng nhận thức đúng và áp dụng thống nhất các quy định của Bộ luật này trong thực tiễn xét xử.

So với Điều 8 Bộ Luật Hình sự năm 1999, Điều 9 Bộ Luật Hình sự năm 2023 có những sửa đổi, bổ sung sau:

– Việc phân loại tội phạm được sửa đổi theo hướng quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn bằng cách thay thế cụm từ “gây nguy hại bằng các cụm từ ” có tính chất và mức độ nguy hiểm” cho phù hợp với căn cứ phân loại tội phạm; bổ sung cụm từ “do Bộ luật này quy định” sau cụm từ “mức cao nhất của khung hình phạt” nhằm khắc phục sự hiểu nhầm về bản chất của phân loại tội phạm; thay các cụm từ “đến 03 năm tù”, “đến 07 năm tù”, “đến 15 năm tù” và ” đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” bằng các cụm từ tương ứng: “phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”, “từ trên 03 năm đến 07 năm tù”, “từ trên 07 năm đến 15 năm tù” và “từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” nhằm bảo đảm sự đầy đủ, rõ ràng, chính xác hơn trong phân loại tội phạm.

– Bổ sung khoản 2 quy định về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện.

Trân trọng!.

Cập nhật thông tin chi tiết về Chế Định Thời Hiệu Trong Luật Hình Sự Việt Nam trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!