Bạn đang xem bài viết Cấu Trúc Tổ Chức Và Kế Hoạch Dự Án được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Giống như bất kì những dự án khác, một dự án Six Sigma cũng cần một nhóm dự án, với một cấu trúc, vai trò và trách nhiệm rõ ràng, để cùng nhau thực hiện theo kế hoạch của dự án. Nhằm đảm bảo sự thành công của dự án và quá trình đạt được các mục tiêu của Six Sigma. Trong phần này mình sẽ giới thiệu về cấu trúc tổ chức của dự án Six Sigma và vai trò của bản kế hoạch dự án. Nếu chưa biết về Six Sigma, bạn có thể tìm hiểu thêm các bài viết trong Link sau.
Cấu trúc tổ chức
Cấu trúc tổ chức điển hình của dự án bao gồm:
Champion: Dự án cần được hỗ trợ và nhận biết của Champion, là người điều hành cấp cao, người phê duyệt cho dự án. Có vai trò đảm bảo rằng dự án phù hợp với tổng thể của chiến lược Lean Six Sigma.
Sponsor: Là người đứng đầu, người chịu trách nhiệm cho dự án. Sponsor phải là người hiểu về Six Sigma và là người giải quyết các vấn đề cho dự án Six Sigma đang diễn ra. Tuy nhiên, có nhiều sponsor chỉ cho thấy vai trò của mình là một người cố vấn, chứ không phải là người chịu trách nhiệm cho sự thành công của dự án.
Leader: Là người chịu trách nhiệm giám sát công việc của nhóm ngày qua ngày (tốt nhất là toàn thời gian) và thường có chứng nhận Black Belt. Trách nhiệm bao gồm giao tiếp với sponsor trong việc xác định mục tiêu và lý do thực hiện dự án, chọn và hỗ trợ các thành viên trong nhóm, giữ cho dự án theo đúng tiến độ.
Team member: Là thành viên trong nhóm dự án, người được giao nhiệm vụ và thời gian cụ thể để hoàn thành dự án.
Ai là người tham gia vào nhóm dự án?
Chọn đúng người. Chọn những người có kiến thức và kinh nghiệm phù hợp với dự án.
Không quá nhiều người, khi cần thiết bạn có thể xin thêm sự hỗ trợ. Một nhóm dự án cần 4 đến 6 thành viên là được.
Kế hoạch dự án
Xem xét định kì
Toàn bộ thành viên trong team dự án nên đươc tham gia trong suốt toàn bộ dự án.
Cung cấp một bản tóm lược về thời gian với những phát hiện quan trọng.
Đảm bảo rằng những yêu cầu hỗ trợ đã được thực hiện rõ ràng.
Những bước tiếp theo được thể hiện, phân công rõ ràng.
Bản kế hoạch dự án giống như lộ trình của một chuyến đi, nó sẽ cung cấp hướng đi cho dự án. Bản kế hoạch dự án sẽ giúp nhóm dự án biết được lịch trình để tiến hành thực hiện trên thực tế. Và bất cứ một dự án nào cũng cần có một cấu trúc tổ chức với vai trò và trách nhiệm rõ ràng để cùng nhau thực hiện hướng tới sự thành công của dự án.
Thu Huong
Related
Cấu Trúc Và Chức Năng Của Gen
Chúng ta có thể điểm qua những mốc chính trong lịch sử nghiên cứu về gen như sau: Mendel (1865) là người đầu tiên đưa ra khái niệm nhân tố di truyền. Johansen (1909) đã đề xuất thuật ngữ gen (từ genos, nghĩa là sản sinh, nguồn gốc) để chỉ nhân tố di truyền xác định một tính trạng nào đó. Sau đó, Morgan trong những năm 1920 đã cụ thể hóa khái niệm về gen, khẳng định nó nằm trên nhiễm sắc thể và chiếm một locus nhất định, gen là đơn vị chức năng xác định một tính trạng.
Vào những năm 1940, Beadle và Tatum đã chứng minh gen kiểm tra các phản ứng hóa sinh và nêu giả thuyết một gen-một enzyme. Tuy nhiên, trường hợp hemoglobin là một protein nhưng lại gồm hai chuỗi polypeptide do hai gen xác định, do đó giả thuyết trên buộc phải điều chỉnh lại là một gen-một polypeptide.
Vào những năm 1950, DNA (deoxyribonucleic acid) được chứng minh là vật chất di truyền. Mô hình cấu trúc DNA của Watson và Crick được đưa ra và lý thuyết trung tâm (central dogma) ra đời. Gen được xem là một đoạn DNA trên nhiễm sắc thể mã hóa cho một polypeptide hay RNA.
Cuối những năm 1970, việc phát hiện ra gen gián đoạn ở sinh vật eukaryote cho thấy có những đoạn DNA không mã hóa cho các amino acid trên phân tử protein. Vì thế, khái niệm về gen lại được chỉnh lý một lần nữa: Gen là một đoạn DNA đảm bảo cho việc tạo ra một polypeptide, nó bao gồm cả phần phía trước là vùng 5′ không dịch mã (5′ untranslation) hay còn gọi là vùng ngược hướng (upstream) và phía sau là vùng 3′ không dịch mã (3′ untranslation) hay còn gọi là vùng cùng hướng (downstream) của vùng mã hóa cho protein, và bao gồm cả những đoạn không mã hóa (intron) xen giữa các đoạn mã hóa (exon).
Hiện nay, có thể định nghĩa gen một cách tổng quát như sau: Gen là đơn vị chức năng cơ sở của bộ máy di truyền chiếm một locus nhất định trên nhiễm sắc thể và xác định một tính trạng nhất định. Các gen là những đoạn vật chất di truyền mã hóa cho những sản phẩm riêng lẻ như các mRNA được sử dụng trực tiếp cho tổng hợp các enzyme, các protein cấu trúc hay các chuỗi polypeptide để gắn lại tạo ra protein có hoạt tính sinh học. Ngoài ra, gen còn mã hóa cho các tRNA, rRNA và snRNA…
Bảng 3.1. Tóm tắt lịch sử nghiên cứu về di truyền học
Cấu trúc không gian của chuỗi polypeptide được xác định bởi trình tự sắp xếp của các amino acid tức cấu trúc bậc một. Như vậy, mặc dù có nhiều mức độ cấu trúc không gian khác nhau, nhưng cấu trúc bậc một tức trình tự sắp xếp các amino acid chi phối toàn bộ các mức độ cấu trúc khác. Việc xác định di truyền phân tử protein ở trạng thái tự nhiên có đầy đủ hoạt tính sinh học chỉ quy tụ lại chủ yếu ở xác định cấu trúc bậc một là đủ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc mất hoạt tính enzyme nhiều khi không phải do vắng mặt của enzyme, mà chỉ do các biến đổi trên phân tử (modification). Có trường hợp đột biến dẫn đến những thay đổi tinh vi, enzyme vẫn có hoạt tính nhưng sẽ biểu hiện khác nếu thay đổi điều kiện. Chẳng hạn:
Ở nấm mốc Neurospora crassa, enzyme tyrosinase do gen T xác định, xúc tác cho phản ứng chuyển hóa tyrosine thành dihydroxyphenylalanine. Alelle T+ của dòng hoang dại sản xuất tyrosinase có hoạt tính ở nhiệt độ bình thường và cả ở 60oC. Một đột biến TS sản xuất tyrosine có hoạt tính ở nhiệt độ bình thường, nhưng lại mất hoạt tính ở 60oC
Như vậy, trong đa số trường hợp, đột biến của một gen không làm biến mất enzyme mà chỉ biến đổi cấu trúc dẫn đến thay đổi hoạt tính. Các đột biến của cùng một gen có thể gây ra những biến đổi khác nhau trên enzyme. Các hiện tượng đó chứng tỏ rằng cấu trúc của enzyme chịu sự kiểm soát trực tiếp của gen.
Bản chất đó chính là quan hệ một gen-một polypeptide. Như đã nêu trên, người ta khám phá ở người có những gen tạo ra hemoglobin (Hb) khi biến dị sẽ tạo ra những hemoglobin bất thường do sai hỏng ở các chuỗi polypeptide α hoặc β (Bảng 3.2 và 3.3) và gây ra các bệnh di truyền.
Bảng 3.2. Các loại hemoglobin ở chuỗi polypeptide α
Ở trường hợp này, thứ tự các amino acid có thể bị sai lệch. Từ những dữ liệu trên ta thấy các dạng đột biến tạo một Hb bất thường đó là thay một amino acid này bằng một amino acid khác.
Bảng 3.3. Các loại hemoglobin ở chuỗi polypeptide β
Qua hai chuỗi polypeptide α và β chúng ta thấy có một số dạng hemoglobin bất thường ở người. Trên mỗi chuỗi, chỉ trình bày những amino acid đã bị thay đổi ở dạng đột biến. Số thứ tự chỉ vị trí của amino acid trong chuỗi polypeptide. Mỗi hemoglobin bất thường có thể được đặt cho một chữ cùng tên (nếu có) của địa phương được tìm thấy.
Đột biến được biểu hiện bởi sự thay thế vị trí của một amino acid này bằng một amino acid khác.
4.1. Đột biến tryptophan synthetase-sự đồng tuyến tính giữa gen và chuỗi polypeptide
Nghiên cứu trên enzyme tryptophan synthetase xúc tác cho phản ứng tổng hợp tryptophan của E. coli người ta nhận thấy có nhiều đột biến xảy ra trên cùng một gen mã hóa cho tryptophan synthetase.
Thực hiện tái tổ hợp trong gen (nguyên tắc là gen ở các vị trí càng xa nhau trên nhiễm sắc thể càng dễ tái tổ hợp), người ta đã nhận được các dạng biến dị có tính chất khác nhau, và tính được khoảng cách tương đối giữa những điểm khác nhau của đột biến đã được xác định. Vị trí biến dị trên thể nhiễm sắc tương ứng với vị trí của amino acid trên chuỗi polypeptide. Như vậy, có thể cho rằng có sự đồng tuyến tính giữa gen và chuỗi polypeptide (Hình 3.1).
Hình 3.1. Tương quan đồng tuyến tính giữa gen và enzyme tryptophan synthetase của E.coli thông qua các vị trí đột biến và các gốc amino acid bị thay đổi
Nhiều dạng đột biến của tryptophan synthethase đã được tạo ra. Bằng cơ chế tái tổ hợp, những khoảng cách tương đối giữa những điểm khác nhau của đột biến đã được xác định. Sản phẩm protein của mỗi dạng đột biến đã được phân tích, và những thay đổi các amino acid khác cũng được xác định. Người ta đã tìm thấy mối tương quan hoàn toàn giữa những khoảng cách của các đột biến được tìm thấy trên gen với khoảng cách của amino acid bị thay đổi trong phân tử protein.
4.2. Đột biến
4.2.1. Khái niệm
Một gen (DNA) có 4 loại base và một phân tử protein có 20 loại amino acid1, nhưng giữa chúng có mối tương quan như thế nào. Đầu tiên, người ta cho rằng một base qui định một amino acid, nhưng những tính toán cho thấy không hợp lý. Vì chỉ có 4 base trong DNA và 20 amino acid trong protein, cho nên mỗi codon phải chứa ít nhất 3 base. Hai base cũng không thể làm thành một codon bởi vì chỉ có 42 = 16 cặp hợp lý của 4 base. Nhưng 3 base thì có thể bởi vì sẽ có 43 = 64 bộ ba hợp lý. Vì số lượng bộ ba hợp lý lớn hơn 20, cho nên sẽ có trường hợp một vài codon chỉ định cùng một amino acid. Ví dụ: UCU, UCC, UCA, UCG, AGU và AGC đều cùng mã hóa cho serine. Từ đó, người ta đưa ra khái niệm mã di truyền (tín hiệu di truyền). Mã di truyền cho phép đọc thứ tự trên DNA để biết thứ tự trên chuỗi polypeptide. Mã di truyền không mơ hồ, có nghĩa với một trình tự chẳng hạn ATA ta biết nó ghi mã cho một amino acid gì, và cũng thấy rằng có nhiều mã di truyền xác định cho một amino acid (Bảng 3.4).
4.2.2. Đột biến điểm
Là đột biến chỉ tác động một vị trí, nói rõ hơn đó là một base. Khi thay đổi một base trên DNA sẽ tạo ra sự thay đổi một amino acid (Hình 3.2). Đột biến dĩ nhiên xảy ra trên DNA và được sao lại trên mRNA trong phiên mã, rồi trên protein trong dịch mã.
Bảng 3.4. Mã di truyền chung
Chú thích
Những đơn vị mã (codon) được đọc theo chiều 5’→3′.
STOP: codon kết thúc (còn gọi là vô nghĩa).
Đột biến điểm có các dạng sau:
– Đột biến sai nghĩa. Thay đổi một amino acid trong protein, có thể dẫn đến một trong ba kết quả sau:
+ Không hậu quả nào cả, vì amino acid không nằm trong vị trí hoạt động hoặc không có vai trò trong cấu trúc enzyme
+ Có biến đổi nhẹ ở chuỗi polypeptide sẽ tạo ra tính mẫn cảm yếu với nhiệt, làm giảm sự ổn định chuỗi polypeptide
+ Mất hẳn hoạt tính enzyme nếu đúng ngay vị trí hoạt động của enzyme đó.
– Đột biến vô nghĩa. Thay đổi một base. Nếu đó là một codon vô nghĩa sẽ làm ngừng kéo dài (tổng hợp) chuỗi polypeptide ở vị trí amino acid này. Tức là nếu codon này nằm ở đầu sẽ không có chuỗi polypeptide hoạt động.
– Đột biến acridine hoặc đột biến dịch khung. Đột biến này do chất acridine màu da cam tạo ra (hoặc còn gọi là đột biến dịch khung, frameshift, do thêm vào hoặc bớt đi một base) (Hình 3.2 E và D). Như vậy, một đột biến trên khung đọc khi thêm vào (C) hoặc mất đi (A) thường sẽ dẫn đến xuất hiện một codon stop làm ngừng chuỗi polypeptide và enzyme sẽ không có hoạt tính.
4.2.3. Đột biến kìm hãm
Đến nay, người ta nhận thấy mọi sai lệch trong việc tổng hợp protein nếu có đều xảy ra từ DNA, còn quá trình diễn ra từ RNA đến polypeptide luôn luôn đúng. Nghiên cứu một vài kiểu protein đột biến ta thấy:
– Đột biến sai nghĩa. Làm xuất hiện một bất thường trong trình tự amino acid. Kết quả protein mất hoạt tính. Hoạt tính này có thể được phục hồi, hoặc do một đột biến ngược để cho lại protein cấu trúc ban đầu.
– Đột biến vô nghĩa. Làm mất đi một phần chuỗi polypeptide, phần còn lại không có hoạt tính, và hoạt tính này có thể có lại được nhờ đột biến trong một codon đã bị đột biến.
Thông thường, những gen kìm hãm đột biến vô nghĩa không nằm ở gần vị trí của đột biến ấy. Đó là những gen làm biến đổi hệ thống dịch mã khi tổng hợp protein.
Hình 3.2. Các dạng đột biến điểm
A: trình tự các codon và các amino acid tương ứng ở dạng tự nhiên. B: thay đổi một base (C thành A) làm thay đổi một amino acid (Arg thành Pro) gây nên đột biến sai nghĩa. C: thay đổi một base (C thành G) sinh ra một codon vô nghĩa (UGA). D: thêm một base (C) gây nên đột biến acridine hoặc đột biến dịch khung, có sự dời khung đọc. E: mất một base (A), gây nên đột biến acridine, chấm dứt đọc.
Tổng hợp protein trong tế bào có các đặc điểm sau:
– Các phân tử thông tin như nucleic acid và protein được tổng hợp theo khuôn. Tổng hợp theo khuôn vừa chính xác vừa ít tốn enzyme. Tuy nhiên, căn cứ vào hàng loạt tính chất hóa học các protein không thể làm khuôn mẫu cho sự tổng hợp của chính chúng. Vì vậy, khuôn mẫu để tổng hợp nên protein không phải là protein.
– Sinh tổng hợp protein tách rời về không gian với chỗ chứa DNA. Nhiều nghiên cứu cho thấy tổng hợp protein có thể xảy ra khi không có mặt DNA. Sự kiện này thể hiện rõ ràng nhất ở những tế bào eukaryote. Trong những tế bào này, hầu như toàn bộ DNA tập trung ở nhiễm sắc thể trong nhân, còn tổng hợp protein chủ yếu diễn ra ở tế bào chất. Tảo xanh đơn bào Acetabularia khi bị cắt mất phần chứa nhân vẫn tổng hợp được protein và sống vài tháng nhưng mất khả năng sinh sản. Rõ ràng, nơi chứa DNA mang thông tin di truyền và chỗ sinh tổng hợp protein tách rời nhau về không gian.
– DNA không phải là khuôn mẫu trực tiếp để tổng hợp protein, do đó phải có chất trung gian chuyển thông tin từ DNA ra tế bào chất và làm khuôn để tổng hợp protein. Chất đó phải có cả trong nhân và tế bào chất với số lượng phụ thuộc vào mức độ tổng hợp protein.
– Chất trung gian đó được xem chính là RNA nhờ các đặc điểm sau:
+ RNA được tổng hợp ngay ở trong nhân có chứa DNA, sau đó nó đi vào tế bào chất cho tổng hợp protein.
+ Những tế bào giàu RNA tổng hợp protein nhiều hơn.
+ Về phương diện hóa học RNA gần giống DNA: chuỗi polyribo-nucleotide thẳng cũng chứa 4 loại ribonucleotide A, G, C và uracil (U). Nó có thể nhận được thông tin từ DNA qua bắt cặp bổ sung. Nói chung, trong tế bào không thể tìm thấy chất nào khác ngoài RNA có thể đóng vai trò trung gian cho tổng hợp protein. Mối quan hệ này chính là thông tin di truyền đi từ DNA qua RNA rồi đến protein và được biểu diễn ở hình 3.3. Mối quan hệ này còn được gọi là lý thuyết trung tâm (central dogma), được Crick đưa ra từ 1956 đến nay về căn bản vẫn đúng.
Vào những năm 1970, người ta đã phát hiện quá trình phiên mã ngược từ RNA tổng hợp nên DNA nhờ enzyme reverse transcriptase. Đến nay, việc sao chép (tổng hợp) RNA trên khuôn mẫu RNA cũng đã được chứng minh ở nhiều loại virus. Ngoài ra, thông tin từ protein cũng có thể được truyền sang protein (prion của bệnh bò điên). Riêng dòng thông tin từ protein ngược về mRNA/DNA thì chưa được tìm thấy (Hình 3.4).
Hình 3.4. Những bổ sung mới vào lý thuyết trung tâm của Crick
Chúng ta đã biết có sự liên quan đồng tuyến tính giữa DNA và phân tử protein, từ đó dễ dàng dự đoán rằng trình tự đặc hiệu của các amino acid trên phân tử protein sẽ được mã hóa bằng nhóm các nucleotide trên phân tử DNA. Có tất cả 4 loại base, nếu các base có nhóm đôi tức 2 nucleotide mã hóa cho một loại amino acid thì tất cả chỉ có 16 tổ hợp, không đủ cho 20 loại amino acid. Như vậy, đơn vị mã hóa (codon) phải gồm 3 nucleotide (xem phần 4.2).
Vấn đề tiếp theo là xác định chính xác các codon nào mã hóa cho từng amino acid. Nirenberg và Matthaei đã sử dụng enzyme để tổng hợp nhân tạo RNA. Khi dùng chỉ một loại nucleotide là U sẽ nhận được RNA là poly(U), nếu chỉ dùng A sẽ nhận được poly(A).
Năm 1961, Nirenberg và Matthaei đã dùng poly(U) thay cho khuôn mẫu mRNA để tổng hợp protein trong hệ thống vô bào (có amino acid, enzyme tổng hợp protein, nhưng không có DNA…), sản phẩm thu được là chuỗi polypeptide polyphenylalanine chỉ chứa một loại amino acid là phenylalanine. Điều đó chứng tỏ codon UUU mã hóa cho phenylalanine. Đây là codon đầu tiên được xác định. Sau đó, họ cũng chứng minh được rằng AAA mã hóa cho lysine, GGG cho glycine và CCC cho proline.
Năm 1964, Khorana tìm ra phương pháp tổng hợp mRNA nhân tạo với trình tự lặp lại (như AAG AAG AAG…) và nhờ nó giải quyết xong các vấn đề còn chưa rõ ràng.
Bảng mã di truyền (Bảng 3.4) cho thấy trong 64 codon, có 3 codon UAA, UAG, UGA không mã hóa cho amino acid được gọi là vô nghĩa (non-sense), đồng thời là codon kết thúc (termination) tức dấu chấm câu, chấm dứt chuỗi polypeptide.
Mã di truyền có tính suy biến (degeneration) tức một amino acid có nhiều codon mã hóa, chỉ trừ methionine và tryptophane chỉ có một codon (tương ứng là ATG và TGG). Các codon đồng nghĩa tức mã hóa cho cùng một amino acid thường có hai base đầu tiên giống nhau, nhưng khác nhau ở cái thứ ba. Ví dụ: CCU, CCC, CCA và CCG tất cả đều mã hóa cho proline. Trên thực tế, U và C luôn luôn tương đương nhau ở vị trí thứ ba, còn A và G tương đương nhau trong 14 trên 16 trường hợp.
Trừ một số ngoại lệ, mã di truyền có tính phổ biến (universal) tức toàn bộ thế giới sinh vật có chung bộ mã di truyền.
Khi nghiên cứu các quy luật di truyền Mendel và học thuyết di truyền nhiễm sắc thể, gen được quan niệm như một điểm trên nhiễm sắc thể, vừa là đơn vị chức năng xác định một tính trạng, vừa là đơn vị đột biến, vừa là đơn vị tái tổ hợp. Cùng với sự phát triển của di truyền học, khái niệm về gen được cụ thể hóa thêm, cấu trúc và chức năng của gen được hiểu chi tiết hơn.
Một gen thường được xem gồm có hai phần, phần mang mã di truyền được phiên mã sang phân tử mRNA và phần DNA làm nhiệm vụ điều khiển hoạt động của gen (Hình 3.5). Cả hai phần đều có cấu trúc cơ bản khá giống nhau ở mọi sinh vật prokaryote và eukaryote. Tuy nhiên, gen eukaryote còn có cấu trúc đặc thù liên quan đến các cơ chế kiểm soát khác nhau đối với hoạt động của gen.
Cấu trúc một gen điển hình nói chung đều có promoter, vị trí để RNA polymerase hoạt động khởi đầu phiên mã. Đôi khi nằm rất xa gen, có thể thấy các enhancer (vùng tăng cường) hoặc silencer (vùng ức chế) có vai trò liên quan đến quá trình phiên mã. Độ dài của một gen thay đổi tùy theo số lượng và độ dài của các intron chứa trong nó.
Hình 3.5. Cấu trúc chung của một gen
Vùng DNA mang mã di truyền sẽ được phiên mã sang phân tử mRNA. Quá trình này thực hiện theo chiều 5’→3′ trên sợi mRNA đang được tổng hợp. Không phải mọi phiên mã di truyền trên phân tử mRNA đều được dịch mã sang phân tử protein. Hai đầu 5′ và 3′ của phân tử mRNA gồm một số nucleotide không được dịch mã mà lại liên quan đến tính bền vững của phân tử mRNA hoặc tham gia kiểm soát quá trình dịch mã. Hai đoạn này gọi là vùng không dịch mã 5′ và 3′ (untranslated region). Vùng không dịch mã 5′ nằm trước điểm khởi đầu dịch mã (3 nucleotide AUG mã hóa cho methionine đầu tiên của chuỗi polypeptide) và vùng không dịch mã 3′ nằm sau điểm kết thúc dịch mã (stop codon có thể là UAA, UGA và UAG). Do tế bào prokaryote không có cấu trúc nhân nên quá trình phiên mã (tổng hợp mRNA) và dịch mã (tổng hợp protein) xảy ra đồng thời. Còn phân tử mRNA của eukaryote được phiên mã trong nhân, sau đó phải cắt bỏ intron và gắn các exon lại, chịu biến đổi tại các đầu 5′ và 3′ trước khi vận chuyển ra ngoài tế bào chất để dùng làm khuôn mẫu tổng hợp protein.
Hoạt động của một gen được đánh giá thông qua quá trình phiên mã (tổng hợp mRNA) và quá trình dịch mã (tổng hợp protein). Hoạt động này được kiểm soát rất chặt chẽ bằng các cơ chế khác nhau ở mọi giai đoạn, như bắt đầu và kết thúc phiên mã, quá trình biến đổi mRNA, quyết định tính bền vững và kiểm tra lại thông tin di truyền trên các phân tử này… Do cấu trúc sắp xếp các gen prokaryote khác với gen eukaryote nên sự phối hợp giữa các cơ chế điều khiển mang tính chất riêng biệt cho từng loại genome.
Các gen prokaryote thường sắp xếp nằm gần nhau và chịu sự điều khiển chung của một promoter, tức là chúng được phiên mã sang cùng một phân tử mRNA. Cấu trúc này được gọi là operon. Như vậy, một operon gồm hai hay nhiều gen nằm cạnh nhau trên một nhiễm sắc thể. Thông thường, đó là các gen cùng tham gia vào một con đường chuyển hóa, ví dụ như các gen mã hóa cho các enzyme cần thiết cho quá trình chuyển hóa glucose.
Do có chung promoter điều khiển cho mọi gen nằm trong một operon cho nên chỉ có một loại phân tử mRNA được tổng hợp từ một operon (mang thông tin di truyền của tất cả các gen nằm trong đó). Nói cách khác, quá trình phiên mã của các gen trong một operon xảy ra đồng thời và phân tử mRNA đặc trưng cho operon được gọi là mRNApolycistron.
Tuy nhiên, điều cần ghi nhớ là quá trình dịch mã trên các phân tử mRNApolycistron xảy ra hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi đoạn tương ứng với một gen trên phân tử này đều có vị trí bám của ribosome, có mã bắt đầu và kết thúc tổng hợp chuỗi polypeptide riêng biệt. Do đó, tốc độ tổng hợp các protein trên các phân tử mRNApolycistron hoàn toàn khác nhau (Hình 3.6).
Hình 3.6. Cấu trúc operon trong genome vi khuẩn. Một operon là một đơn vị phiên mã đơn bao gồm một chuỗi các gen cấu trúc (structural genes), một promoter và một operator.
Khái niệm locus được đưa ra để chỉ vị trí của gen trên nhiễm sắc thể, là vị trí của tất cả các allele của dãy đa allele. Bản thân hiện tượng đa allele cho thấy gen có cấu tạo phức tạp, sự biến đổi của gen có thể dẫn đến nhiều trạng thái allele khác nhau.
2.1. Hiện tượng allele giả
Theo quan niệm cổ điển gen là đơn vị tái tổ hợp. Nếu cá thể mang hai allele lặn a1/a2 của một dãy đa allele sẽ tạo thành hai loại giao tử là a1 và a2, lai phân tích với bố mẹ đồng hợp tử lặn sẽ chỉ cho kiểu hình đột biến a1 và a2 mà không có dạng tái tổ hợp hoang dại. Ví dụ:
Tuy nhiên, nhiều thí nghiệm cho thấy nếu tăng số cá thể thí nghiệm lên 10.000 hoặc 100.000, thì có thể phát hiện có dạng kiểu hình hoang dại do tái tổ hợp.
Ví dụ: Trường hợp locus mắt quả trám ở ruồi giấm, có 18 allele. Khi tăng số cá thể nghiên cứu lên nhiều lần, người ta phát hiện các allele xếp thành 3 nhóm A, B và C. Các allele của cùng một nhóm, khi lai lẫn nhau, không cho kiểu hình tái tổ hợp hoang dại mắt bình thường, mà chỉ có kiểu hình mắt quả trám. Nhưng lai allele của nhóm này với allele của nhóm khác sẽ có xuất hiện kiểu hình hoang dại do tái tổ hợp. Hiện tượng này được gọi là allele giả.
Hiện tượng allele giả cho thấy gen phân chia nhỏ về mặt tái tổ hợp, có thể xảy ra tái tổ hợp giữa các phần trong gen. Lúc đầu, hiện tượng allele giả được coi là trường hợp ngoại lệ, nhưng khi tăng số cá thể nghiên cứu lên nhiều lần thì rõ ràng đó là hiện tượng phổ biến. Nó được tìm thấy ở nhiều đối tượng khác nhau như nấm men S. cerevisiae, ngô, bồ câu, chuột, bacteriophage
2.2. Locus rII của bacteriophage T4
Nghiên cứu chi tiết về các đột biến rII của bacteriophage T4 đã làm sáng tỏ hơn về cấu trúc gen. Bacteriophage T4 ở dạng hoang dại r+ có khả năng xâm nhiễm đồng thời hai chủng E. coli B và K, trong khi các đột biến rII chỉ xâm nhiễm chủng B mà không xâm nhiễm chủng K (Hình 3.7).
Hình 3.7. Kiểu hình của các đột biến rII của phage T4
Benzer (1955) đã thu được vài nghìn đột biến rII có nguồn gốc độc lập với nhau. Ông cho lai các đột biến này với nhau và căn cứ vào sự xuất hiện các dạng tái tổ hợp hoang dại r+ mà lập bản đồ các điểm đột biến (mutation sites).
Trước thí nghiệm của ông, rII được coi là một locus. Tuy nhiên, thí nghiệm của ông đã cho thấy các đột biến xếp thành hai nhóm rIIA và rIIB. Lai các đột biến rIIA × rIIB sẽ có r+, nhưng lai rIIA × rIIA và rIIB × rIIB thì kiểu hình đột biến là r.
Cho đến nay, chúng ta định nghĩa một gen là nhờ dựa trên kiểu hình đột biến và vị trí trên bản đồ của nó. Bacteriophage là một mô hình di truyền đơn giản (genome của E. coli dài khoảng 4.600.000 bp, trong khi bacteriophage T4 là 165.000 bp và bacteriophage λ khoảng 46.500 bp), chúng có thể sinh sản một số lượng lớn rất nhanh (1010 hoặc hơn thế) và dễ dàng phân tích. Các thí nghiệm thực hiện với đột biến rII của T4 được thiết lập dựa trên cơ sở sau:
– Các gen có một phạm vi và ranh giới hạn chế.
– Các gen có thể chia được, có thể có sự tái tổ hợp giữa hai allele trong một gen đơn.
– Hoạt động của gen có thể được phân tích bởi sự phân tích bổ sung.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, gen có thể phân chia nhỏ về mặt đột biến. Các đoạn rIIA và rIIB được gọi là cistron, đơn vị chức năng nhỏ nhất đảm bảo khả năng xâm nhiễm chủng K. Thuật ngữ cistron thực chất là gen, ngày nay nó chỉ có tính chất lịch sử, ít được sử dụng. Theo quan niệm hiện nay, rIIA và rIIB là hai locus. Hai khái niệm mới được đưa ra là muton-đơn vị đột biến và recon-đơn vị tái tổ hợp.
Benzer đã tìm thấy 2.000 điểm đột biến trên đoạn gen được nghiên cứu, chúng phân bố không đều nhau, có những điểm tập trung nhiều đột biến hơn. Chiều dài gen khoảng 900 nucleotide. Đơn vị đột biến muton ở đây tương ứng với 900/2.000. Số đột biến ghi nhận có thể thấp hơn so với thực tế nên muton có thể tương ứng với một cặp nucleotide. Giống như vậy recon có thể tương ứng với một cặp nucleotide.
Tóm lại, gen là đơn vị chức năng, có thể chia nhỏ bởi các đơn vị đột biến tái tổ hợp.
Muốn nghiên cứu cấu trúc bên trong một gen, phải tìm hiểu nhiều allele của gen đó. Nhiều đột biến có kiểu hình giống nhau nhưng không allele với nhau. Thử nghiệm chức năng allele được sử dụng để xác định xem hai đột biến có allele với nhau không. Đây chính là thử nghiệm mà Benzer dùng để lập bản đồ locus rII.
Thử nghiệm này còn được gọi là thử nghiệm bổ sung (complementary test) vì nó cho biết sai hỏng chức năng ở hai đột biến có bổ sung tức bù trừ cho nhau được không.
Phương pháp thử này cũng được gọi là thử nghiệm đều-lệch (cis-trans test). Sở dĩ như vậy là vì phép thử nghiệm này so sánh hiệu quả kiểu hình của các gen đột biến ở hai vị trí khác nhau trên nhiễm sắc thể tương đồng. Ở vị trí lệch (trans) các đột biến nằm trên hai nhiễm sắc thể, còn ở vị trí đều (cis) các đột biến nằm trên cùng một nhiễm sắc thể. Trường hợp sai hỏng ở hai gen khác nhau nên có thể bổ sung được, còn trường hợp sai hỏng ở cùng một gen không bù đắp được sẽ dẫn đến kiểu hình đột biến.
Hình 3.8. Thử nghiệm chức năng allele. I: có kiểu hình đột biến do sai hỏng cùng một gen nên không bù đắp được. II: có kiểu hình hoang dại do sai hỏng khác gen nên bù trừ được cho nhau.
Thử nghiệm chức năng allele có thể được thực hiện dễ dàng trên các đối tượng vi sinh vật với các đột biến hóa sinh, thường là các đột biến khuyết dưỡng (auxotroph mutant: mất khả năng tổng hợp một chất nào đó). Ví dụ: Ở nấm mốc Neurospora crassa có nhiều đột biến mất khả năng tổng hợp adenine (Ade-). Các đột biến này dễ phát hiện vì có khuẩn lạc màu đỏ. Có hai dạng đột biến Adex và Adey, nếu dị hợp tử Adex/Adey có kiểu hình đột biến tức là cho khuẩn lạc màu đỏ, thì Adex và Adey là hai allele của một gen. Thử nghiệm chức năng allele cho thấy các đột biến Ade ở N. crassa tạo thành 9 nhóm. Điều đó chứng tỏ có 9 gen tổng hợp adenine ở loài nấm này: ade1, ade2, ade3… trong đó ade3 có hai locus nằm kề sát nhau là ade3A và ade3B (Hình 3.9).
Qua nghiên cứu các gen sản xuất adenine người ta nhận thấy quá trình tổng hợp adenine có liên quan đến 9 nhóm đột biến của gen này hoặc gen kia, và đều cùng có một kết quả là mất khả năng tổng hợp adenine. Như vậy, khái niệm gen không chỉ kiểm tra di truyền cả chu trình tổng hợp adenine, mà gen là đơn vị chức năng nhỏ nhất, kiểm tra một giai đoạn cơ bản nào đó của chu trình. Nếu biến đổi di truyền làm sai hỏng chức năng đó sẽ dẫn đến xuất hiện đột biến mất khả năng tổng hợp adenine.
Hình 3.9. Vị trí các gen ade trên các nhiễm sắc thể của nấm mốc Neurospora crassa
1. Hồ Huỳnh Thùy Dương. 1998. Sinh học phân tử. NXB Giáo dục, Hà Nội. 2. Phạm Thành Hổ. 2003. Di truyền học. NXB Giáo dục, Hà Nội. 3. Alberts B, Bray D, Lewis J, Raff M, Roberts K and Watson JD. 2002. Molecular Biology of the Cell. 3rd ed. Garland Publishing, Inc. New York, USA. 4. Lewin B. 2000. Gene VII. Oxford University Press, Oxford, UK. 5. Pierce BA. 2003. Genetics: A Conceptual Approach. W.H. Freeman & Co. New York, USA. 6. Watson JD, Hopkins NH, Roberts JW and Weiner AM. 2004. Molecular Biology of the Gene. The Benjamin/Cummings Publishing Company, Inc. California, USA.
Nguồn: Giáo trình Sinh học phân tử – Nguyễn Hoàng lộc (chủ biên)
Kế Hoạch Tổ Chức Thi Tiếng Hàn Xklđ Eps Năm 2022
Thực hiện nội dung Bản ghi nhớ giữa Bộ Việc làm và Lao động Hàn Quốc và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam về chương trình đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại Hàn Quốc theo chương trình trình cấp phép cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc (Chương trình EPS), kỳ thi tiếng Hàn năm 2019đối với các ngành sản xuất chế tạo, xây dựng và ngư nghiệp sẽ được tổ chức như sau:
Thực hiện nội dung Bản ghi nhớ giữa Bộ Việc làm và Lao động Hàn Quốc và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam về chương trình đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại Hàn Quốc theo chương trình trình cấp phép cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc (Chương trình EPS), kỳ thi tiếng Hàn năm 2019đối với các ngành sản xuất chế tạo, xây dựng và ngư nghiệp sẽ được tổ chức như sau:
Kể từ năm 2019, Cơ quan Phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc – HRD Korea sẽ áp dụng Phương thức tính điểm để tuyển chọn lao động tham gia Chương trình EPS trong các ngành sản xuất chế tạo, xây dựng và ngư nghiệp. Bên cạnh yêu cầu về năng lực tiếng Hàn, Phương thức tính điểm nâng cao khả năng đánh giá năng lực người lao động thông qua việc đánh giá trình độ tay nghề, thể chất và kinh nghiệm làm việc. Vì vậy, người lao động đăng ký tham gia chương trình EPS sẽ phải tham dự 2 vòng thi, bao gồm:
Vòng 1: Thi năng lực tiếng Hàn (EPS – TOPIK)
Vòng 2: Kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực.
I. THÔNG TIN VỀ KỲ THI TIẾNG HÀN – VÒNG 1
1. Ngành nghề đăng ký: sản xuất chế tạo, xây dựng và ngư nghiệp.
Căn cứ theo đối tượng và điều kiện dự thi, thí sinh dự thi kỳ thi tiếng Hàn năm 2019 có thể đăng ký dự thi theo ngành sản xuất chế tạo, xây dựng hoặc ngư nghiệp. Mỗi thí sinh chỉ được đăng ký một ngành và không được phép thay đổi ngành đã lựa chọn.
– Mỗi thí sinh chỉ được nộp duy nhất 01 đơn đăng ký dự thi.
+ Sản xuất chế tạo: lắp ráp – đo lường – gia công.
+ Xây dựng: mộc – cốt thép
+ Ngư nghiệp: nuôi trồng – đánh bắt gần bờ.
– Phương thức thi: thi trên máy tính
– Ngày thi:
+ Ngành sản xuất chế tạo và xây dựng: từ ngày 02/07 đến ngày 31/07/2019
+ Ngành ngư nghiệp: từ ngày 23/09 đến ngày 11/10/2019
– Ca thi chi tiết:
Thí sinh dự thi phải có mặt tại phòng thi trước 08:00 đối với ca 1; 09:30 đối với ca 2, 12:00 đối với ca 3, 13:30 đối với ca 4
Lưu ý: thời gian tổ chức thi có thể thay đổi, căn cứ theo số lượng người lao động đủ điều kiện tham dự kỳ thi. Thời gian hướng dẫn và làm bài thi có thể thay đổi theo tình hình thực tế của ngày thi.
Sản xuất chế tạo100 điểm
2,000 1,000
Số lượng người đạt yêu cầu thi tiếng Hàn bằng số chỉ tiêu được phân bổ, lựa chọn theo nguyên tắc lấy từ người có điểm cao nhất trở xuống trong số những người đạt từ 47,5 điểm trở lên.
Xây dựng90 điểm
600 300
Số lượng người đạt yêu cầu thi tiếng Hàn bằng số chỉ tiêu được phân bổ, lựa chọn theo nguyên tắc lấy từ người có điểm cao nhất trở xuống trong số những người đạt từ 36 điểm trở lên.
Ngư nghiệp200 điểm
3,900 2,600
Số lượng người đạt yêu cầu thi tiếng Hàn bằng số chỉ tiêu được phân bổ, lựa chọn theo nguyên tắc lấy từ người có điểm cao nhất trở xuống trong số những người đạt từ 60 điểm trở lên.
Người lao động thi đỗ tiếng Hàn bắt buộc phải tham gia kiểm tra tay nghề. Ứng viên chỉ được lựa chọn một nghề thuộc ngành đã đăng ký dự thi. Ứng viên không được thay đổi ngành đã lựa chọn (đối với các nghề thuộc ngành, có thể thay đổi trong thời gian đăng ký thi tay nghề và kiểm tra năng lực – Vòng 2).
Kế hoạch chi tiết kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực xem tai Mục II.
Thông báo về thời gian thi và địa điểm thi tiếng Hàn:
– Ngành ngư nghiệp: 16/9/2019 (Thứ 2)
Thời gian và địa điểm tổ chức thi sẽ được Trung tâm Lao động ngoài nước sẽ thông báo bằng văn bản cho Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh/ thành phố, đồng thời thông báo trên trang thông tin điện tử của Trung tâm Lao động ngoài nước tại địa chỉ: http://www.colab.gov.vn.
6.1. Đối tượng dự thi:
– Người lao động chưa từng đi làm việc tại Hàn Quốc, cư trú dài hạn tại các địa phương không tạm dừng tuyển chọn lao động năm 2019. Đối với những người lao động chuyển hộ khẩu từ các huyện tạm dừng tuyển chọn lao động năm 2019 đến các huyện không tạm dừng tuyển chọn phải có thời gian cư trú tối thiểu tại địa phương chuyển đến là 01 năm tính đến ngày 15/05/2019.
– Người lao động đã từng làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình EPS về nước đúng hạn hợp đồng (bao gồm người lao động có hộ khẩu thường trú tại các huyện tạm dừng tuyển chọn năm 2019).
– Người lao động đã từng làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình EPS, ở lại cư trú bất hợp pháp nhưng đã tự nguyện về nước trong các khoảng thời gian từ ngày 01/4/2016 đến hết ngày 31/12/2016, từ ngày 10/7/2017 đến hết ngày 31/10/2017 và từ ngày 01/10/2018 đến hết ngày 31/03/2019 (bao gồm người lao động có hộ khẩu thường trú tại các địa phương tạm dừng tuyển chọn năm 2019).
– Người lao động chưa từng đi làm việc tại Hàn Quốc theo chương trình EPS, đang cư trú tại các huyện ven biển và các huyện đảo thuộc các tỉnh/thành phố trong cả nước ngoại trừ các huyện tạm dừng tuyển chọn năm 2019 (đối với người lao động chuyển hộ khẩu từ các địa phương không tuyển chọn trong ngành ngư nghiệp hoặc các địa phương tạm dừng tuyển chọn năm 2019 đến các địa phương được tuyển chọn nói trên thì phải có thời gian cư trú tối thiểu tại địa phương chuyển đến là 01 năm tính đến ngày 15/05/2019);
– Những người đã từng làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình EPS trong ngành ngư nghiệp về nước đúng hạn hợp đồng (bao gồm trường hợp người lao động có hộ khẩu thường trú tại các địa phương tạm dừng tuyển chọn năm 2019 hoặc các địa phương không tuyển chọnlao động trong ngành ngư nghiệp);
– Người lao động đã từng làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình EPS trong ngành ngư nghiệp và ở lại cư trú bất hợp pháp nhưng đã tự nguyện về nước trong các khoảng thời gian từ ngày 01/4/2016 đến hết ngày 31/12/2016, từ ngày 10/07/2017 đến hết ngày 10/10/2017 và từ ngày 01/10/2018 đến hết ngày 31/03/2019 (bao gồm trường hợp người lao động có hộ khẩu thường trú tại các địa phương tạm dừng tuyển chọn năm 2019 hoặc các địa phương không tuyển chọn lao động trong ngành ngư nghiệp).
6.2. Điều kiện dự thi:
Người lao động đăng ký dự thi tiếng Hàn các ngành nghề nêu trên phải có đủ các điều kiện sau:
– Từ 18 đến 39 tuổi (những người sinh trong khoảng thời gian từ ngày 16/05/1979 đến ngày 15/5/2001);
– Không có án tích theo quy định của pháp luật;
– Chưa từng bị trục xuất khỏi Hàn Quốc;
– Nếu đã từng cư trú tại Hàn Quốc (bao gồm cư trú hợp pháp và bất hợp pháp) theo visa E9 (lao động EPS) hoặc(và) visa E10 (thuyền viên tàu đánh cá) thì tổng thời gian cư trú phải dưới 05 năm;
– Không bị cấm xuất cảnh Việt Nam;
– Không có thân nhân (bố, mẹ, con đẻ; anh, chị, em ruột; vợ hoặc chồng) đang cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc;
– Đủ sức khỏe đi làm việc tại nước ngoài theo quy định của Bộ Y tế;
– Không bị rối loạn sắc giác (mù màu);
– Người lao động bị đứt, cụt ngón tay hoặc chấn thương, dị tật cột sống vẫn được đăng ký dự thi, tuy nhiên việc xét tuyển sẽ căn cứ vào kết quả kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực.
Thời gian đăng ký:tổ chức chung một đợt tiếp nhận hồ sơ dự thi cho cả ba ngành từ ngày 15 – 17/5/2019 (3 ngày)
Thời gian tiếp nhận: 08h30 – 17h00 (nghỉ trưa 12h00 – 13h00)
Địa điểm đăng ký: Do Trung tâm Lao động ngoài nước thông báo
Cách thức đăng ký: Người lao động trực tiếp đến đăng ký tại địa điểm tiếp nhận đăng ký thi (không được đăng ký hộ).
Các giấy tờ cần thiết:
– ①Đơn đăng ký (sẽ được phát cho các ứng viên tại địa điểm tiếp nhận)
※Mỗi đơn đăng ký dự thi sẽ có một số báo danh, mỗi ứng viên sẽ được nhận và nộp duy nhất một đơn đăng ký. Nếu điền sai thông tin trong đơn đăng ký, ứng viên có thể sử dụng bút xóa để sửa lỗi trước khi nộp.
– ②Photo Giấy CMND (thẻ căn cước công dân hoặc hộ chiếu)
Lệ phí: 24 USD (nộp bằngtiền Việt Nam tương đương)
※Ứng viên phải dán 01 bản photo Giấy CMND (hoặc thẻ căn cước công dân, hộ chiếu) vào đơn đăng ký dự thi.
※Ứng viên nên dán bản photo của ảnh hộ chiếu và viết tên mình bằng chữ in hoa không dấu.
※Nếu thông tin trong Chứng minh nhân dân (hoặc thẻ căn cước, hộ chiếu) không trùng khớp với thông tin trong đơn đăng ký dự thi thì người lao động sẽ không được phép nhập cảnh vào Hàn Quốc trong bất cứ trường hợp nào và người lao động phải hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu có vấn đề gì xảy ra vì sự khác nhau trong thông tin cá nhân của mình.
※Thông tin cá nhân (tên, ngày tháng năm sinh và giới tính) và ảnh của các ứng viên trong đơn đăng ký sẽ được sử dụng cho công việc của người lao động tại Hàn Quốc và sẽ không thể thay đổi được trong bất cứ trường hợp nào.
c c. Ngành ngư nghiệp d d. Nội dung thi
※ Ảnh phông trắng, mặc áo tối màu, không sử dụng phần mềm chỉnh sửa. Nếu ảnh của ứng viên không thể nhận diện được khi đối chiếu với ảnh trong hộ chiếu/chứng minh nhân dân(thẻ căn cước), ứng viên sẽ không được quyền tham gia phần thi.
※Ứng viên đã nộp tiền nhưng hủy bỏ đăng ký trong thời gian tiếp nhận đăng ký vì những lý do bất khả kháng sẽ được hoàn lại lệ phí. Tuy nhiên, sau khi đã hủy bỏ đăng kýthì sẽ không được phép đăng ký lại.
– (1) Câu hỏi theo hình thức trắc nghiệm, (2) Phần thi đọc và thi nghe được tiến hành liên tục không có nghỉ giải lao.
– Số ứng viên đạt yêu cầu về tiếng Hàn, được chọn tham dự kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực của các ngành được lựa chọn theo nguyên tắc sau:
+ Ngành sản xuất chế tạo, xây dựng: ngành sản xuất chế tạo là 2.000 người, ngày xây dựng là 600 người (bằng 200% chỉ tiêu tuyển chọn được phân bổ), lựa chọn theo nguyên tắc lấy từ người có điểm cao nhất trở xuống trong số những người đạt từ 47.5 điểm trở lên đối với ngành sản xuất chế tạo và 36 điểm trở lên đối với ngành xây dựng đến khi đủ chỉ tiêu.
Các giấy tờ cần thiết phải mang theo khi đến dự thi
+ Ngành ngư nghiệp: 3.900 người (bằng 150% chỉ tiêu tuyển chọn được phân bổ), lựa chọn theo nguyên tắc lấy từ người có điểm cao nhất trở xuống trong số những người đạt từ 60 điểm trở lên đến khi đủ chỉ tiêu.
– Các câu hỏi trong bài thi được dựa trên Giáo trình đào tạo dành cho kỳ thi tiếng Hàn (The Standard Textbook for EPS-TOPIK).
– Thẻ dự thi (thí sinh nhận Thẻ ngay sau khi đăng ký dự thi).
Thông báo kết quảthi tiếng Hàn
Ngày thông báo kết quả ngành sản xuất chế tạo và xây dựng:14/08/2019
Hình thứcthông báo:
– Giấy chứng minh nhân dân (hoặc Thẻ căn cước công dân/Hộ chiếu).
(Yêu cầu tất cả các thí sinh đến dự thi bắt buộc phải mang theo Giấy Chứng minh nhân dân/Thẻ căn cước công dân/Hộ chiếu giống như bản sao đã dán trong đơn đăng ký. Những thí sinh không mang theo Chứng minh nhân dân/Thẻ căn cước công dân/Hộ chiếu sẽ không được phép dự thi.)
– Website Trung tâm Lao động ngoài nước: http://www.colab.gov.vn
Thông báo kết quảđiểm thi cụ thể của từng thí sinh:
– Website Chương trình EPS: http://www.eps.go.kr
Thời hạn hiệu lực của chứng chỉ tiếng Hàn: 2 nămkể từ ngày thông báo
Thí sinh không được mang vào phòng thi điện thoại di động, cassette, PDA, máy nghe nhạcMP3, từ điển điện tử và các thiết bị điện tử khác. Việc mang và sử dụng những thiết bị trên tại địa điểm thi sẽ bị xem là gian lận.
Những thí sinh có hành vi gian lận trong quá trình làm bài sẽ bị hủy bài kiểm tra và bị cấm dự thi trong thời gian 3 năm.
Nếu có sự khác biệt về các thông tin cá nhân (họ tên và ngày tháng năm sinh) giữa CMND/Thẻ căn cước và Đơn đăng ký dự thi tiếng Hàn thì hồ sơ đăng ký dự tuyển đi làm việc Hàn Quốc sẽ không được chấp nhận dù người lao động đã có kết quả thi đạt yêu cầu.
Việc đạt yêu cầu qua kỳthitiếng Hàn, kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực không đảm bảo là người lao động được đi làm việc tại Hàn Quốc.
Những người lao động không đạt yêu cầu về sức khỏe theo quy định của Hàn Quốc và những người đã từng có thời gian cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc sẽ không đượcđi làm việc tại Hàn Quốc.Tuy nhiên, đối với những lao động bất hợp pháp tự nguyện về nước trong khoảng các thời gian từ ngày 01/4/2016 đến hết ngày 31/12/2016, từ ngày 10/7/2017 đến hết ngày 31/10/2017 và từ ngày 01/10/2018 đếnhết ngày 31/03/2019 sẽ được Bộ Tư pháp (Cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh Hàn Quốc) xem xét.
Theo Bản ghi nhớ giữa Bộ Việc làm và Lao động Hàn Quốc và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, Trung tâm Lao động ngoài nước là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phái cử người lao động Việt Nam sang làm việc tại Hàn Quốc theoChương trình EPS.
Các tổ chức tư nhân không được tham gia vào các quá trình phái cử lao động đi làm việc tại Hàn Quốc theoChương trình EPS.
Sau khi nhập cảnh Hàn Quốc, những người lao động có kết quả xét nghiệm dương tính với chất gây nghiện sẽ phải về nước.
– Website EPS-TOPIK: http://eps.hrdkorea.or.kr/epstopik
Lưu ý: Vòng thi thứ 2 bao gồm 2 nội dung:
+ Kiểm tra tay nghề: áp dụng bắt buộc đối với tất cả thí sinh thi đỗ Vòng 1.
+ Đánh giá năng lực (không bắt buộc): áp dụng đối với những thí sinh đã nộp hồ sơ đánh giá năng lực trong thời gian tiếp nhận.
– Là những thí sinh đã thi đỗ Vòng 1.
– Đáp ứng ít nhất 1 tiêu chí trong số những tiêu chí sau:
+ Có kinh nghiệm làm việc trong ngành, nghề đăng ký dự thi;
– Ngành sản xuất chế tạo và xây dựng: 19/08 – 21/08/2019 (03 ngày)
○ Các giấy tờ cần chuẩn bị:
– Ngành ngư nghiệp: 28/10 – 30/10/2019
○: Trung tâm Lao động ngoài nước sẽ thông báo trên trang Thông tin điện tử http://www.colab.gov.vn.
○ Cách thức đăng ký: đăng ký trực tiếp tại các cơ quan/đơn vị được chỉ định.
① Giấy Chứng minh nhân dân (Thẻ căn cước công dân/Hộ chiếu) và thẻ dự thi tiếng Hàn
② Đơn đăng ký tham gia đánh giá năng lực (Tải từ trang thông tin điện tử chúng tôi vn)
Kinh nghiệm làm việc(cung cấp 1 trong 2 loại giấy tờ kế bên)
Giấy chứng nhận nghề nghiệp
Xác nhận làm việc được cấp bởi công ty nơi người lao động đang hoặc đã từng làm việc. Đối với người lao động có thời gian làm việc ở nước ngoài, cơ quan phái cử người lao động có thể xác nhận nội dung này.
Bắt buộc phải có dấu, chữ ký xác nhận của đại diện công ty, doanh nghiệp
Giấy xác nhận kinh nghiệm làm việc
Những ứng viên không thể xin xác nhận theo mẫu 1 vì lý do công ty phá sản, quy mô quá nhỏ hoặc làm việc theo diện tự do trong ngành nông nghiệp, có thể hoàn thiện theo mẫu 2.
– Giấy xác nhận cần chữ ký và bản photo chứng minh nhân dân của 2 người cùng làm việc (không phải người thân trong gia đình).
– Người lao động là thuyền viên tàu viễn dương có thể cung cấp bản sao hộ chiếu thuyền viên để làm căn cứ đánh giá.
Hoàn thành các chương trình đào tạoBằng cấp
(Bản sao công chứng)
– Nộp bản sao các loại bằng cấp và mang theo bản chính để đối chiếu vào ngày dự thi.
-Người lao động là sinh viên năm cuối của các trường đại học có thể nộp bản sao thẻ sinh viên và giấy xác nhận của nơi đào tạo để được xem xét.
Chứng nhận hoàn thành các khoá huấn luyện, đào tạo
( Bản sao công chứng)
Giấy chứng nhận được cấp bởi các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức tư nhân.
– Nộp bản sao và mang theo bản chính để đối chiếu vào ngày dự thi.
Chứng chỉ nghề quốc giaChứng chỉ chuyên môn, chứng chỉ nghề nghiệp
-Chứng chỉ được cấp chính quy bởi các cơ quan nhà nước.
-Các chứng chỉ quốc tế không được chấp nhận
-Nộp bản sao và mang theo bản chính để đối chiếu vào ngày dự thi
* Kinh nghiệm làm việc tại Hàn Quốc được chấp nhận.
* Bên cạnh các mẫu giấy tờ được cung cấp bởi HRD Hàn Quốc, Giấy chứng nhận làm việc được in từ hệ thống EPS cũng được chấp nhận.
* Chứng nhận hoàn thành các khóa huấn luyện, đào tạo phải ghi rõ tên của khóa đào tạo, số giờ đào tạo và nội dung đào tạo.
○ Lệ phí: Không thu lệ phí
Thông báo thời gian và địa điểm thi Vòng 2
4 Các điểm chính trong nội dung phần kiểm tra kỹ năng làm việc cơ bản
Sản xuất chế tạoLắp ráp
Lắp ghép
Quan sát ô trống trên khung, lắp ghép các thanh gỗ theo đúng tiêu chuẩn về màu sắc, kích thước và hình dạng.
Treo đồ vật
Treo vòng lên giá theo đúng kích cỡ được yêu cầu.
Lắp ráp bu lông và đai ốc
Trong 1 khoảng thời gian cố định, siết chặt bu lông và đai ốc theo quy cách được yêu cầu.
Treo đồ vật
Treo vòng lên giá theo đúng kích cỡ được yêu cầu.
Đo lường
Trong 1 khoảng thời gian cố định, thực hiện đo chính xác kích thước và âm lượng theo yêu cầu.
Treo đồ vật
Treo vòng lên giá theo đúng kích cỡ được yêu cầu.
Nối
Trong 1 khoảng thời gian cố định, kết nối 02 vật dụng tại 2 vị trí khác nhau bằng các công cụ được cung cấp.
Xây dựngCốt thép
Lắp ghép
Quan sát ô trống trên khung, lắp ghép các thanh gỗ theo đúng tiêu chuẩn về màu sắc, kích thước và hình dạng.
Lắp ráp và sửa chữa
Sửa chữa cốt thép theo sơ đồ được yêu cầu.
Tạo hình vật dụng
Trong 1 khoảng thời gian cố định, tạo hình vật dụng (1 tấm bảng) theo yêu cầu.
Ngư nghiệpNuôi trồng thủy hải sản
Đặt ống, trục, gậy lên bảng
Dựa theo sơ đồ có sẵn, đặt các ống, gậy vào bảng phân chia theo màu sắc, kích cỡ và hình dáng.
Vận chuyển các vật thể
Đo trọng lượng, mang vác và sắp xếp các vật thể.
Đặt ống, trục, gậy lên bảng
Dựa theo sơ đồ có sẵn, đặt các ống, gậy vào bảng phân chia theo màu sắc, kích cỡ và hình dáng.
Nội dung kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực
○Nội dung kiểm tra tay nghề và số điểm phân bổ
– Ngành sản xuất chế tạo và xây dựng: ngày 11/09/2019
– Ngành ngư nghiệp: ngày 01/11/2019
○ Hình thức thông báo: Thông báo trên trang thông tin điện tử của Trung tâm lao động ngoài nước và địa điểm tiếp nhận hồ sơ đánh giá năng lực tại các địa phương.
○ Thời gian các ca thi
– Ngành sản xuất chế tạo và xây dựng: 18/09 – 21/09/2019 (04 ngày)
– Ngành ngư nghiệp: 11/11 – 14/11/2019 (04 ngày)
Thông báo kết quả kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực:
○ Thông báo kết quả thi:
Thời gian thi có thể thay đổi tùy thuộc vào số lượng ứng viên dự thi.
* Ứng viên không thể thay đổi lịch thi và địa điểm thi, đối với những ứng viên đến muộn (sau 8:30 với ca 1và 12:30 với ca 2) sẽ không được dự thi.
○ Cách thức thông báo tới ứng viên đạt qua kỳ thi:
* Hồ sơ đánh giá năng lực sẽ được HRD thẩm định trong khi phỏng vấn. Nếu hồ sơ bị xác định là giả mạo, kết quả thi sẽ bị hủy bỏ và ứng viên sẽ bị cấm thi trong vòng 3 năm đồng thời sẽ thông báo tới các cơ quan chứng năng để xử lý.
– Ngành sản xuất chế tạo và xây dựng: 30/09/2019
○ Cách thức thông báo tới từng ứng viên.
– Ngành ngư nghiệp: 29/11/2019
① http://www.colab.gov.vn
② http://www.eps.go.kr
③ http://epstopik.hrdkorea.or.kr
– http://www.eps.go.kr
○Hiệu lực của kết quả thi: 2 năm kể từ ngày thông báo.
– Người lao động bị rối loạn sắc giác (mù màu) sẽ không đạt yêu cầu qua kỳ kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực.
– Chỉ những người lao động đã đạt yêu cầu qua kỳ kiểm tra tay nghề và đánh giá năng lực mới được nộp hồ sơ đăng ký dự tuyển đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình EPS.
– Việc người lao động được đưa vào danh sách tìm việc không đồng nghĩa với việc sẽ được doanh nghiệp Hàn Quốc lựa chọn.
– Đối với chứng nhận làm việc và giấy xác nhận làm việc, các thông tin quan trọng như tên, chữ ký, số điện thoại liên hệ bắt buộc phải có. Nếu phát hiện việc tẩy xóa, sửa đổi thông tin sử dụng bút xóa, giấy dán hoặc các cách khác thì thông tin được xem là không hợp lệ.
Cơ quan tổ chức: Bộ Việc làm và Lao động Hàn Quốc
Cơ quan thực hiện: Cơ quan phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc (HRD Korea)
Cơ quan phối hợp: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
Theo: Trung tâm Lao động ngoài nước http://colab.gov.vn/tin-tuc/1917/THONG-BAO-KE-HOACH-TO-CHUC-KY-THI-TIENG-HAN-NAM-2019.aspx
Cấu Trúc Và Chức Năng Của Adn Và Arn
ADN được cấu tạo từ 5 nguyên tố hoá học là C, H, O, P, N. ADN là loại phân tử lớn (đại phân tử), có cấu trúc đa phân, bao gồm nhiều đơn phân là nuclêôtit. Mỗi nuclêôtit gồm:
– Đường đêôxiribôluzơ: C5H10O4
– Axit phôtphoric: H3PO4
1 trong 4 loại bazơ nitơ (A, T, G, X ). Trong đó A, G có kích thước lớn còn T, X có kích thước bé hơn.
2. Cấu trúc ADN:
ADN là một chuỗi xoắn kép gồm 2 mạch pôlinuclêôtit xoắn đều quanh một trục theo chiều từ trái sang phải (xoắn phải): 1 vòng xoắn có: – 10 cặp nuclêôtit. – Dài 34 Ăngstrôn – Đường kính 20 Ăngstrôn.
– Liên kết trong 1 mạch đơn: nhờ liên kết hóa trị giữa axít phôtphôric của nuclêôtit với đường C5 của nuclêôtit tiếp theo.
– Liên kết giữa 2 mạch đơn: nhờ mối liên kết ngang (liên kết hyđrô) giữa 1 cặp bazơ nitríc đứng đôi diện theo nguyên tắc bổ sung (A liên kết với T bằng 2 liên kết hyđrô hay ngược lại; G liên kết với X bằng 3 liên kết hyđrô hay ngược lại).
– Hệ quả của nguyên tắc bổ sung:
+ Nếu biết được trình tự sắp xếp các nuclêôtit trong một mạch đơn này à trình tự sắp xếp các nuclêôtit trong mạch còn lại.
+ Trong phân tử ADN: tỉ số: A+T/ G+X là hằng số nhất định đặc trưng cho mỗi loài.
3. Tính chất của ADN
– ADN có tính đặc thù: ở mỗi loài, số lượng + thành phần + trình tự sắp xếp các nuclêôtit trong phân tử ADN là nghiêm ngặt và đặc trưng cho loài.
Tính đa dạng + tính đặc thù của ADN là cơ sở cho tính đa dạng và tính đặc thù của mỗi loài sinh vật.
4. Chức năng của ADN
Lưu trữ, bảo quản và truyền đạt thông tin di truyền về cấu trúc và toàn bộ các loại prôtêin của cơ thể sinh vật, do đó quy định các tính trạng của cơ thể sinh vật.
là bản sao từ một đoạn của ADN (tương ứng với một gen), ngoài ra ở một số virút ARN là vật chất di truyền.
1. Thành phần:
Cũng như ADN, ARN là đại phân tử sinh học được cấu tạo theo nguyên tắc đa phân, đơn phân là nuclêôtit. Mỗi đơn phân (nuclêôtit) được cấu tạo từ 3 thành phần sau:
–Đường ribôluzơ: C5H10O5(còn ở ADN là đường đềôxi ribôluzơ C5H10O4).
Các nuclêôtit chỉ khác nhau bởi thành phần bazơ nitơ, nên người ta đặt tên của nuclêôtit theo tên bazơ nitơ mà nó mang.
2. Cấu trúc ARN:
ARN có cấu trúc mạch đơn:
– Có 3 loại ARN:
– ARN thông tin (mARN): sao chép đúng một đoạn mạch ADN theo nguyên tắc bổ sung nhưng trong đó A thay cho T.
– ARN ribôxôm (rARN): là thành phần cấu tạo nên ribôxôm.
– ARN vận chuyển (tARN): 1 mạch pôlinuclêôtit nhưng cuộn lại một đầu
+ Ở một đầu của tARN có bộ ba đối mã, gồm 3 nuclêôtit đặc hiệu đối diện với aa mà nó vận chuyển.
+ Đầu đối diện có vị trí gắn aa đặc hiệu.
3. Chức năng ARN:
Mọi thông tin chi tiết về ôn thi khối B cũng như du học Y Nga, vui lòng liên hệ:
TỔ CHỨC GIẢI PHÁP GIÁO DỤC FLAT WORLD
Địa chỉ : Biệt thự số 31/32 đường Bưởi, Quận Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại liên hệ : 024 665 77771 – 0966 190708 (thầy Giao)
Email: fmeducation@fmgroup.vn
Cập nhật thông tin chi tiết về Cấu Trúc Tổ Chức Và Kế Hoạch Dự Án trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!