Xu Hướng 3/2023 # Cần Phân Biệt Rõ Chức Năng, Nhiệm Vụ Giữa Pháp Y Và Kỹ Thuật Hình Sự # Top 6 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Cần Phân Biệt Rõ Chức Năng, Nhiệm Vụ Giữa Pháp Y Và Kỹ Thuật Hình Sự # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Cần Phân Biệt Rõ Chức Năng, Nhiệm Vụ Giữa Pháp Y Và Kỹ Thuật Hình Sự được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tin tức chuyên ngành

Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII, việc thống nhất hay chưa nên thống nhất tổ chức giám định tư pháp cấp tỉnh nhận được sự quan tâm của nhiều đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, đối với lĩnh vực giám định tư pháp nói chung…

Để rộng đường dư luận, PLVN đã có cuộc trò chuyện với TS. Vũ Dương, Viện trưởng Viện Pháp y quốc gia với tư cách một nhà chuyên môn để nhằm làm sáng tỏ vấn đề:

Thưa Tiến sĩ Vũ Dương, là người trong nghề hẳn ông rất quan tâm đến vấn đề đang làm nóng nghị trường hiện nay của dự thảo Luật Giám định Tư pháp. Nhưng có thể nhận thấy rằng không phải ai cũng hiểu sâu, cặn kẽ “câu chuyện” này với hàng loạt các khái niệm, ví dụ như thế nào là pháp y y tế, kỹ thuật hình sự công an… Là nhà chuyên môn, ông có thể giải thích rõ hơn?Gốc rễ vấn đề là sự nhầm lẫn về chức năng, nhiệm vụ

Trong quá trình trò chuyện, TS. Vũ Dương có đề cập tới hai vấn đề. Thứ nhất, đó là hiện nay nhiều người quan niệm pháp y là phải mổ ngay tại hiện trường và từ quan niệm đó dẫn đến sự nhầm lẫn nhiệm vụ đó là của công an – lực lượng chiếm lĩnh hiện trường đầu tiên khi vụ việc xảy ra. Nhưng chính xác mà nói, việc giám định viên phải mổ tử thi ngay tại hiện trường như hiện nay chỉ là “khoảnh khắc” của việc đất nước còn nghèo, chưa đáp ứng được nhu cầu về cơ sở vật chất phục vụ khoa học.  

Khám nghiệm pháp y đặc biệt là tử thi là nhiệm vụ đảm bảo tính khoa học và khách quan nên có rất nhiều thao tác tỷ mỷ từ mẩu da, mạch máu… đòi hỏi phải có ánh sáng, phòng ốc, thời gian, an ninh để tiến hành. Nên chuyện mổ tại hiện trường chỉ là giải pháp tình thế và rất dễ dẫn đến sai sót.  

Thứ hai, TS Vũ Dương đặt ra vấn đề tới đây nên hướng tới mô hình một cơ quan giám định độc lập trực thuộc thẳng Chính phủ ở cấp trung ương, chính quyền tỉnh thành ở cấp địa phương. Nhân lực của tổ chức đó sẽ do cả pháp y y tế và khoa học hình sự công an cung cấp.  

Theo TS Vũ Dương, sâu xa mà nói, việc tranh cãi thống nhất hay chưa nên thống nhất tổ chức giám định tư pháp cấp tỉnh, nên chăng quy pháp y một mối về ngành y tế thực ra là một bước thụt lùi so với Nghị định 117/HĐBT năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng theo đó cả và y tế và công an đều hoạt động chung trong Tổ chức pháp y do UBND tỉnh hoặc Sở Y tế quản lý.

Đúng là muốn đưa ra một quyết định đúng đắn thì trước hết phải hiểu rõ thế nào là pháp y y tế và kỹ thuật hình sự công an cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn và phạm vi hoạt động của nó trong quá trình phục vụ tố tụng.

Có thể nói một cách ngắn gọn dễ hiểu thế này, pháp y y tế là cơ quan sử dụng chuyên môn, nghiệp vụ y học để phục vụ cho hoạt động tư pháp, tố tụng; kỹ thuật hình sự công an là cơ quan sử dụng chuyên môn, nghiệp vụ điều tra để phục vụ cho quá trình điều tra chứng minh hành vi phạm tội.

Về cơ bản, hai cơ quan này trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ có một số điểm chung nhưng nếu đi vào những vấn đề chuyên sâu thì hoàn toàn khác biệt.

Tôi ví dụ như thế này để dễ hình dung, khi có án mạng do súng thì cơ quan điều tra (bao gồm  khoa học hình sự) và pháp y cùng đến hiện trường. Khoa học hình sự sẽ khám nghiệm hiện trường cùng cơ quan điều tra và cùng pháp y khám nghiệm tử thi.

Nói về việc khám nghiệm tử thi, pháp y và kỹ thuật hình sự khi khám nghiệm có phần chung nhưng phần lớn là riêng biệt.

Còn nhiệm vụ của kỹ thuật hình sự là phải xem cụ thể viên đạn ấy được bắn ra từ cây súng nào để sau đó trưng cầu pháp y giám định hung khí xem có phù hợp với dấu viết trên tử thi hay không.

Nếu bác sĩ nghi dấu vết trên tường là máu, nghi dấu vết trên giường, quần áo có nguồn gốc sinh học (trong vụ án hiếp dâm) thì kỹ thuật hình sự có nhiệm vụ thu và bảo quản dấu vết này và cơ quan điều tra trưng cầu pháp y giám định dấu vết sinh học đó, thậm chí giám định gene để so sánh với nghi phạm nhận diện hung thủ…

Với quy trình làm việc như vậy, có thể nói nhiệm vụ của pháp y và kỹ thuật hình sự rất rạch ròi nhưng luôn xen kẽ, có từng giai đoạn cộng hưởng và tách ra độc lập. Không thể ra mệnh lệnh bắt bác sĩ pháp y làm thay kỹ thuật hình sự  được và ngược lại vì kỹ thuật hình sự và pháp y là hai chuyên ngành được đào tạo khác nhau, sử dụng kiến thức khác nhau để phục vụ những nhiệm vụ khác nhau.

Nếu nói như vậy thì phải chăng có hai bản kết luận giám định và điều này có gây khó cho Tòa án trong quá trình tố tụng?

Khi vụ án kết thúc quá trình điều tra và được đưa ra xét xử ở Tòa thì không thể có hai bản kết luận giám định được mà chỉ có một bản duy nhất do pháp y cung cấp. Lý do vì sao? Vì với chuyên môn nghiệp vụ và chức năng quyền hạn của mình, khoa học hình sự chỉ chịu trách nhiệm về các vấn đề tại hiện trường và biểu hiện tổng thể bên ngoài của vụ án như đã nói trên để cùng với pháp y đưa ra kết luận cuối cùng.

Pháp y nằm riêng biệt với cơ quan điều tra và phối hợp với cơ quan điều tra để sáng tỏ vụ án – mô hình này, cách xử lý vấn đề này đã được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng  nhằm tránh tình trạng oan sai, tạo niềm tin trong tố tụng. Tuy nhiên ở Việt Nam vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, chủ quan mà chúng ta chưa đạt đến được điều này.

Pháp y không làm khó Công an

Tôi có thể khẳng định ngay rằng chiếm lĩnh hiện trường không phải là nhiệm vụ của pháp y vì từ khi có tin báo cho đến khi tiến hành khám nghiệm tử thi (ví dụ vụ án mạng) phải trải qua nhiều khâu và nhiều thủ tục như: có người chết do chất nổ cơ quan công an phải có thời gian đảm bảo rằng không còn vụ nổ tiếp theo tại hiện trường, khi nghi người chết do đầu độc thì phải có thời gian xác định không còn chất độc ảnh hưởng đến giám định viên, phải có thời gian để kỹ thuật hình sự khoanh vùng mở lối đưa tử thi ra khỏi hiện trường để không mất đi dấu vết, chứng cứ quan trọng, phục vụ cho điều tra…

Như vậy, không phải pháp y đến là khám nghiệm tử thi ngay. Hơn nữa, vì từ khi có pháp y đến nay, không có quy định nào cho pháp y trực khám nghiệm như trực cấp cứu ở bệnh viện, trực chiến đấu ở công an nên chỉ khi có yêu cầu giám định viên mới tập trung. Vì vậy nói pháp y y tế đến hiện trường muộn là do nhận định chủ quan của cơ quan trưng cầu, cơ quan điều tra xuất phát từ sự lầm lẫn chức năng nhiệm vụ giữa pháp y và lực lượng kỹ thuật hình sự của công an.

Nhân tiện đây nói thêm rằng có ý kiến cho rằng cứ để nhiều cơ quan giám định, để cơ quan trưng cầu có sự lựa chọn khách quan và làm nhiệm vụ đối trọng. Ý tưởng đó không thuyết phục vì nơi đáp ứng trưng cầu giám định, nhất là giám định tử thi là độc quyền của cơ quan pháp y, không như món hàng để người dân thấy nơi nào tốt rẻ hợp lý thì mua

Xin cảm ơn TS về cuộc trò chuyện thú vị này!

Theo tài liệu lưu trữ, trước năm 1945, giám định pháp y chủ yếu do các giáo sư, bác sĩ thuộc trường đại học y, bệnh viện trung ương và bệnh viện các tỉnh đảm nhận. Ngày 12/12/1956, Bộ Tư pháp và Bộ Y tế có Thông tư liên bộ số 2759/HC-TP quy định về một số điểm cụ thể trong công tác giám định pháp y, quy định cho các Sở y tế, Ty y tế thực hiện công tác này. Sau đó, những năm 1975-1980, do điều kiện kinh tế đất nước khó khăn, bác sĩ ở miền Nam di tản, bác sĩ miền Bắc tăng cường cho miền Nam, sự dàn trải ấy làm cho lực lượng bác sĩ mỏng đi.  

Hơn nữa, chế độ chính sách cho những người làm pháp y chưa được quan tâm, mặt khác cũng không có chế tài khi từ chối làm pháp y do vậy lực lượng giám định viên y tế bị mai một. Để đáp ứng yêu cầu công việc, lực lượng công an buộc phải tự hình thành bộ phận pháp y. Năm 1988, Nghị định 117/HĐBT của Hội động Bộ trưởng được ban hành, thành lập các Tổ chức giám định pháp y, lúc này y tế và công an đều hoạt động chung trong tổ chức pháp y do UBND tỉnh hoặc Sở Y tế quản lý. Từ khi Pháp lệnh Giám định Tư pháp ra đời ngày 29/9/2004 thì ở một số tỉnh, pháp y công an đã tách ra trực thuộc phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh. Theo tài liệu của Bộ Công an báo cáo năm 2010 trên cả nước có 61.547 vụ phải giám định pháp y thì pháp y y tế giải quyết 50.712 vụ (chiếm 82,45%), pháp y công an giám định 10.835 vụ (chiếm 17,6%).

Theo phapluatvn

Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII, việc thống nhất hay chưa nên thống nhất tổ chức giám định tư pháp cấp tỉnh nhận được sự quan tâm của nhiều đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, đối với lĩnh vực giám định tư pháp nói chung, giám định pháp y nói riêng và dự thảo Luật Giám định Tư pháp đang được ĐBQH cho ý kiến đóng góp, thông qua có rất nhiều khái niệm, quan điểm mà ngay cả người trong cuộc vẫn chưa hiểu rõ để từ đó đưa ra một quyết định đúng đắn nhất.

Cần Phân Biệt Rõ “Cán Bộ”, “Công Chức”, “Viên Chức”

Hiện nay, việc sử dụng các khái niệm ” cán bộ“, ” công chức“, ” viên chức” trong các văn bản quy phạm pháp luật còn lúng túng và thiếu thống nhất, thể hiện trên một số điểm sau: Thứ nhất , khái niệm ” cán bộ “, ” công chức ” đã được sử dụng trong Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998. Tuy nhiên, ngay tên gọi của Pháp lệnh này đã không thống nhất với Hiến pháp năm 1992, vì Điều 8 của Hiến pháp năm 1992 sử dụng khái niệm ” cán bộ, viên chức” chứ không sử dụng khái niệm ” công chức “. Khi không sử dụng khái niệm ” viên chức “, có thể hiểu Pháp lệnh cán bộ, công chức chỉ điều chỉnh một phạm vi rất hẹp, bao gồm những nhóm đối tượng được gọi là ” cán bộ ” và ” công chức ” làm việc trong các cơ quan nhà nước và được định nghĩa rõ. Điều 1 của Pháp lệnh này, có 5 nhóm đối tượng được gọi một cách rất chung chung, không phân biệt nhóm nào là ” cán bộ ” và nhóm nào là ” công chức “. Đến Nghị định số 95/1998/NĐ ư CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức thì nhóm đối tượng ” công chức ” đã được làm rõ. Đó là những người thuộc Khoản 3 và 5, Điều 1 của Pháp lệnh cán bộ, công chức. Tuy nhiên, tại Nghị định số 117/2003/NĐ ư CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội thì khái niệm ” công chức ” lại được sử dụng để gọi chung cho cả cán bộ và công chức.

Thứ hai , khái niệm ” cán bộ, công chức ” được sử dụng trong Pháp lệnh năm 1998 chỉ bao gồm những người trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách. Tuy nhiên, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003 mở rộng khái niệm này, bao gồm trong biên chế nhưng không nhất thiết phải hưởng lương từ ngân sách nhà nước, mà có thể hưởng lương và thu nhập khác từ các hoạt động sự nghiệp. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các khái niệm ” cán bộ “, ” công chức ” như đã nêu trên cho thấy khái niệm ” công chức ” đã thay thế cho khái niệm ” viên chức ” trong Hiến pháp năm1992. Tuy nhiên, từ năm 1999 đến nay, có nhiều văn bản không đi theo công thức ” cán bộ, công chức ” như các văn bản trên mà lại sử dụng khái niệm ” cán bộ, viên chức “. Như vậy, khái niệm ” công chức ” đã lại được thay thế bằng khái niệm ” viên chức “. Đáng chú ý là những chủ thể đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có sử dụng khái niệm ” cán bộ, công chức ” nay chính họ lại ban hành văn có sử dụng khái niệm ” cán bộ, viên chức“. Đơn cử như: Quyết định số 198/1999/QĐưTTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/9/1999 về tiền lương của cán bộ, viên chức làm việc tại Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng; Quyết định số 17/2000/QĐưTTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 3/2/2000 về chế độ tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, viên chức Quỹ hỗ trợ phát triển… Các văn bản này cũng không phân biệt rõ ai là ” cán bộ“, ai là ” viên chức” mà chỉ dẫn chiếu Pháp lệnh cán bộ, công chức. Thứ ba , khái niệm ” viên chức ” cũng bắt đầu xuất hiện trở lại tại Điểm d, Khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003, giới hạn phạm vi áp dụng trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước, các tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị ư xã hội. Từ đây, khái niệm ” viên chức ” được sử dụng trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, Nghị định số 116/2003/NĐưCP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước lại định nghĩa ” viên chức là cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật“. Như vậy, có sự không thống nhất giữa tên gọi của Nghị định với nội dung của nó, và khái niệm ” viên chức ” đã được sử dụng bao hàm ” cán bộ, công chức“. Thứ tư, khái niệm ” cán bộ ” rất ít được làm rõ, mặc dù nó đã xuất hiện dường như ” xuyên suốt” trong hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật như đã phân tích ở trên. Theo quy định tại Nghị định số 95/1998/NĐưCP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức thì những người thuộc diện quy định tại Khoản 1, 2 và 4 của Điều 1 của Pháp lệnh cán bộ, công chức có thể được ” ngầm hiểu ” là ” cán bộ ” vì những người thuộc Khoản 3 và 5 của Điều 1 của Pháp lệnh này đã được coi là công chức.

Phân Biệt Kỹ Năng Cứng Và Kỹ Năng Mềm

Kỹ năng cứng là những kỹ năng giúp thực hiện những công việc cụ thể. Kỹ năng cứng có thể được đánh giá bằng các bằng cấp, chứng chỉ hay qua một bài kiểm tra. Ví dụ như: kỹ năng đánh máy, kỹ năng soạn thảo văn bản,…Tuy nhiên, để trau dồi được kỹ năng cứng, bạn cũng phải mất cả một quá trình, một thời gian dài để trau dồi kiến thức. Nó có thể là 5 năm, 10 năm hoặc nhiều hơn nữa nhưng nó vẫn chưa thấm tháp vào đâu khi có vô vàn kỹ năng bạn chưa được học tới ở đại dương mênh mông kiến thức.

2. Kỹ năng mềm là gì?

Kỹ năng mềm là những kỹ năng như: Kỹ năng ứng xử, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống,… Kỹ năng mềm không phải là những kỹ năng chỉ gắn với một công việc cụ thể như kỹ năng cứng và không thể đánh giá kỹ năng mềm thông qua cách giải quyết, xử lý một tình huống cụ thể trong công việc. Thực tế cho thấy, người có kỹ năng cứng tốt chưa chắc đã giỏi hơn người có kỹ năng mềm.

Ví dụ, bạn ra trường với tấm bằng đại học loại giỏi, nhưng khi đi xin việc ở một công ty bạn lại là người thất bại trước đối thủ có bằng cao đẳng. Tại sao lại như vậy? Đơn giản là vì bạn có kỹ năng cứng nhưng bạn lại không có kỹ năng mềm bằng họ. Bởi khi bạn học qua trường lớp là các kỹ năng trong sách vở, rất ít kỹ năng thực tế. Còn bạn học cao đẳng ra, bạn vừa có kỹ năng cứng lại vừa có kỹ năng mềm. Như vậy, chỉ cần bạn là người có năng lực và có kỹ năng mềm thì xuất phát điểm của bạn có thấp hơn nhưng chưa chắc bạn đã thua cuộc.

Người có kỹ năng cứng tốt chưa chắc đã giỏi hơn người có kỹ năng mềm

4. Tầm quan trọng của kỹ năng cứng và kỹ năng mềm

Tầm quan trọng của kỹ năng cứng và kỹ năng mềm phụ thuộc vào ngành nghề bạn làm việc. Nếu bạn làm một công việc như lễ tân, bán hàng, người dẫn chương trình thì kỹ năng mềm đặc biệt quan trọng. Còn nếu bạn là bác sĩ, lập trình viên,.. thì kỹ năng cứng lại vô cùng quan trọng. Nếu bạn là luật sư, giáo viên,… thì bạn phải giỏi cả kỹ năng mềm và kỹ năng cứng.

Đặc biệt, kỹ năng mềm là yêu cầu không thể thiếu đối với các vị trí lãnh đạo, quản lý. Vị trí càng cao thì đòi hỏi bạn phải có một kỹ năng mềm như kỹ năng ứng xử, kỹ năng quản lý phải tốt.

5. 3 kỹ năng mềm cho sinh viên buộc phải biết

Ngoài những kĩ năng cứng để quyết định thành công của một công việc cụ thể. Unica gợi ý bạn 3 kỹ năng mềm cho sinh viên cần phải được trang bị ngay sau khi ra trường để bổ trợ cho công việc diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.

Kỹ năng thuyết trình

Trọn bộ kỹ năng thuyết trình ấn tượng và chuyên nghiệp được xem như một cuốn cẩm nang giúp bạn trở nên tự tin, hiểu rõ tâm lý người nghe, từ đó thành công truyền tải ý kiến và nội dung mà mình muốn truyền đạt. Giúp bạn trau dồi kỹ năng thuyết trình cũng như thuyết phục cao nhất với người nghe.

Kỹ năng tin học văn phòng

Rèn luyện kỹ năng cứng và kỹ năng mềm giúp chúng ta giải quyết công việc được dễ dàng hơn và mang lại thành công cho bản thân, doanh nghiệp, tổ chức. Hiện nay công nghệ 4.0 đang thay thế cho con người trong việc xử lý các số liệu, các con số, cách thức làm việc sẽ chủ yếu trên máy móc hiện đại. Vậy mà rất nhiều sinh viên không có kỹ năng này. Tin học văn phòng không chỉ là biết cách sử dụng máy tính, các phần mềm mà còn biết cách biến chúng trở thành công cụ hữu ích theo ý muốn của mình.

Kỹ năng về ngoại ngữ

Các doanh nghiệp nước ngoài hiện nay đầu tư rất nhiều tại Việt Nam, việc liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài trong thời đại mở cửa có tác dụng giúp thúc đẩy kinh tế đi lên một cách nhanh chóng. Ngoại ngữ trở thành một phương tiện giúp giao tiếp được thuận tiện. Tuy vậy, hầu hết sinh viên sau khi ra trường không thành thạo ngôn ngữ này. Có rất ít số sinh viên sở hữu 2 loại ngôn ngữ. Nhiều sinh viên còn chia sẻ rằng rất sợ môn học này khi ngồi trên ghế nhà trường.

Ngoài những kỹ năng liệt kê ở trên thì việc bạn cải thiện được kỹ năng ghi nhớ là rất quan trọng. Do đó, khóa học ” Làm chủ kỹ năng ghi nhớ” của giảng viên Đỗ Văn Quát sẽ giúp bạn nâng cao khả năng ghi nhớ dễ dàng thông qua các ác trò chơi về làm chủ con số, nhớ từ vựng tiếng Anh, nhớ sự kiện lịch sử, nhớ nội dung bài giảng.

Khóa học “Làm chủ kỹ năng ghi nhớ”

Tham khảo khóa học “Làm chủ kỹ năng ghi nhớ”

Khóa học bao gồm 25 bài giảng ra đời nhằm giúp các ca nhân cải thiện được trí nhớ của mình thông qua các trò chơi, làm chủ con số, từ vựng tiếng Anh. Kết thúc khóa học, các bạn sẽ phát triển được bản thân ghi nhớ từ vựng rất hiệu quả, các bài giảng đểu nắm được nội dung chính. Đặc biệt hơn nữa, giải quyết được các vấn đề về trí nhớ như tình trạng học trước quên sau, tình trạng nói gì quên đó, mất hứng thú học tập, “trí nhớ kém”…

Nội Dung Chức Năng Nhiệm Vụ

Chức năng nhiệm vụ

Trích Hiến pháp năm 2013

CHƯƠNG VII

CHÍNH PHỦ

Điều 94 

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Điều 95 

1. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 

Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.

Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. 

2. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

3. Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.

4. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.

Điều 96 

Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

2. Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;

3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;

4. Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;  

5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; 

6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;

7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;

8. Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. 

Điều 97

Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ. 

Điều 98 

Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. 

Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật;

2. Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia;

3. Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;

5. Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

6. Thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

Điều 99  

2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý.

Điều 100 

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật.

Điều 101

Cập nhật thông tin chi tiết về Cần Phân Biệt Rõ Chức Năng, Nhiệm Vụ Giữa Pháp Y Và Kỹ Thuật Hình Sự trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!