Xu Hướng 3/2023 # Cải Cách Hành Chính: Về Khái Niệm Thẩm Quyền # Top 9 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Cải Cách Hành Chính: Về Khái Niệm Thẩm Quyền # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Cải Cách Hành Chính: Về Khái Niệm Thẩm Quyền được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

I.ý nghĩa khái niệm và tình hình nghiên cứu ∗

Bài viết này là tiếp tục làm rõ khái niệm “phân cấp quản lý” trong bài “Phân cấp quản lý trong mối quan hệ giữa trung − ơng v μ địa ph ư ơng” của tác giả, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 7/2005. Bởi vì, bên cạnh việc phân chia địa giới hành chính – lãnh thổ (chia thành   “cấp” ) thì, nội dung còn lại của việc phân cấp quản lý thực chất chủ yếu là phân định thẩm quyền cho các cấp. Cũng vì lẽ đó mà các định nghĩa hay giải thích về khái niệm “phân cấp quản lý” ở nước ta mà tác giả đã dẫn trong bài trên trực tiếp hay gián tiếp đều nói về sự phân định thẩm quyền, hay phân giao chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm. Nhưng đáng tiếc là khái niệm thẩm quyền được thể hiện dưới những công thức chưa chính xác. Phân định rạch ròi ranh giới thẩm quyền, không trùng lắp: Để bộ máy nhà nước hoạt động chính xác, nhịp nhàng, ăn khớp và hiệu quả, nhà nước tiến hành “phân công lao động” giữa các bộ phận của bộ máy, nghĩa là phân định thẩm quyền. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước bắt nguồn/phái sinh từ thẩm quyền của nhà nước, nên thẩm quyền của mỗi cơ quan nhà nước không bao giờ được lớn hơn thẩm quyền của nhà nước.   “Sự phân công lao động” trong bộ máy công quyền phải thoả mãn yêu cầu sao cho mỗi cơ quan, mỗi nhà chức trách có một khối lượng “công việc nh à n ư ớc” hợp lý tương xứng với vị trí và khả năng của chủ thể đó, sao cho không có công việc nhà nước quan trọng đáng kể nào bị bỏ sót và không có công việc nào bị giao chồng chéo, trùng lắp. V.I. Lênin đã từng viết: “Nguyên tắc quản lý cơ bản, theo tinh thần của tất cả các nghị quyết của Đảng Cộng sản Nga v à các cơ quan Xô Viết trung ư ơng l à , một ng ư ời nhất định ho à n to à n chịu trách nhiệm về việc thực hiện một công việc nhất định” . 1 “Thẩm quyền” là một khái niệm quan trọng, trung tâm của khoa học pháp lý. Có thể nói, không có thuật ngữ nào được sử dụng phổ biến trong pháp luật như thuật ngữ   “thẩm quyền” . Trong pháp luật nước ngoài, chúng ta còn thường gặp thuật ngữ thẩm quyền ngay trong tên các văn bản pháp luật, nhất là về tổ chức bộ máy nhà nước, bởi vì nội dung các văn bản đó thực chất là các quy định về thẩm quyền . 2 Tuy vậy, ngay trong văn bản pháp luật nước ngoài, thường cũng không có định nghĩa khái niệm thẩm quyền, mặc dù thực chất vấn đề là quy định về thẩm quyền . 3 ở nước ta cũng có tình trạng đó. Có lẽ một phần do sự phức tạp của khái niệm này nên khó đưa ra một định nghĩa đầy đủ về nó, tuy các quy định về thẩm quyền chiếm tỉ trọng lớn trong hệ thống văn bản pháp luật và có vị trí đặc biệt quan trọng. Là khái niệm quan trọng và rất phổ biến, nhưng kể từ những năm 80 đến nay – những năm nền khoa học pháp lý mới của Việt Nam mới bắt đầu hình thành và phát triển, và cả thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hơn mười năm trở lại đây, chưa có bài viết nào riêng về khái niệm “thẩm quyền ”, dù dưới dạng đơn giản nhất. Trên cơ sở thống nhất với nhận định chung rằng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng như cải cách hành chính nói chung, phân cấp quản lý nói riêng, tuy đã có những thành tựu đáng kể, nhưng chưa đạt được kết quả như mong muốn, phải kể đến một nguyên nhân quan trọng hàng đầu là nhận thức lý luận chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ . 4 Việc nghiên cứu các khái niệm cơ bản đối với nhận thức luận là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa nền tảng. Tại đây, cần nhớ lại lời của V.I. Lênin, rằng: “ng ư ời n à o bắt tay v à o những vấn đề riêng tr ư ớc khi giải quyết các vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi b ư ớc đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó một cách không tự giác. M à mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng tr ư ờng hợp riêng, thì có nghĩa l à đ ư a chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất v à mất hẳn tính nguyên tắc” . Trong khoa 5 học pháp lý càng thấy rõ sự thiếu hụt những nghiên cứu cơ bản, hay những giới thiệu nghiêm túc các khái niệm cơ bản, nền tảng đã được khoa học pháp lý thế giới nghiên cứu kỹ lưỡng từ rất lâu và cập nhật vào thực tiễn khoa học pháp lý và quản lý nước nhà, trong đó có khái niệm “thẩm quyền” . Nhiều bất cập trong các quy định pháp luật về thẩm quyền nói chung và về phân cấp quản lý nói riêng, có nhiều nguyên nhân, nhưng có khi chỉ do một nguyên nhân đơn giản là không nắm vững khái niệm thẩm quyền và phương pháp phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước. Với mong muốn góp phần bù đắp sự thiếu hụt nói trên, bài viết này bằng phân tích tổng quan nhằm cung cấp một đôi nét lý luận cơ bản về khái niệm “thẩm quyền” mà khoa học pháp lý nước ngoài đã đúc kết (ý nghĩa, định nghĩa, các quan điểm và phân biệt khái niệm thẩm quyền với một số khái niệm gần gũi hay nhầm lẫn) và liên hệ vào khoa học và thực tiễn pháp lý nước nhà.

III. Định nghĩa khái niệm

Tóm lại như trên đã phân tích, các yếu tố như: nhiệm vụ, chức năng, vấn đề cần giải quyết, khách thể v à đối t ư ợng tác động, trách nhiệm, quyền v à nghĩa vụ, địa vị pháp lý, năng lực pháp luật, hình thức v à ph ư ơng pháp hoạt động, có quan hệ qua lại rất chặt chẽ theo những mức độ khác nhau với thẩm quyền. Song cần phải phân biệt chúng với nhau, không thể lẫn lộn.  18 Ví dụ xem: Tr † ờng Hành chính quốc gia, sách đã dẫn, 1991, tr.89 và Học viện Hành chính quốc gia, sách đã dẫn, 1999, tr.103. Quan điểm của B.M. Lazarép cho phép khắc phục được những lẫn lộn trên, theo đó, thẩm quyền là một hiện tượng nhà nước – quyền lực và pháp lý phức tạp có nội dung chức năng và vỏ bọc pháp lý, là một hệ thống (chứ không phải là một tập hợp giản đơn) các yếu tố cấu thành bao gồm hai nhóm lớn sau đây: Một l à , các quyền v à nghĩa vụ để thực hiện các chức năng nhất định m à cơ quan nh à n ư ớc đ ư ợc trao để giải quyết những vấn đề, quản lý những đối t ư ợng/khách thể nhất định trong những lĩnh vực nhất định của đời sống nhằm đạt những nhiệm vụ nhất định. Đây là nhóm các quyền v à nghĩa vụ chung. Các chức năng có thể là rất chung như lập pháp, hành pháp, tư pháp; hoặc cụ thể hơn như các chức năng chung của quản lý: thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin; dự báo; kế hoạch hóa; tổ chức; lãnh đạo; điều chỉnh; điều hành tác nghiệp; điều hoà – phối hợp; thống kê; kiểm tra… Các chức năng chung còn được phân hoá cụ thể hơn nữa. Các quyền v à nghĩa vụ chung xác định hành lang hoạt động chung, cái mà hoạt động nhà nước hướng tới (vấn đề, đối tượng/khách thể, lĩnh vực) và đích cần đi đến (nhiệm vụ). Hai l à , các quyền hạn cụ thể để thực hiện các quyền v à nghĩa vụ chung nói trên (l à quyền thực hiện các hình thức hoạt động cụ thể nh ư ban h à nh hay tham gia v à o việc ban h à nh quyết định, quyền đình chỉ, sửa đổi hay bãi bỏ quyết định, quyền áp dụng các biện pháp c ư ỡng chế,…). Các quyền hạn cụ thể là công cụ thực hiện các quyền và nghĩa vụ (chung) ở nhóm một. Nhờ các quyền hạn cụ thể mà các quyền và nghĩa vụ chung mới có tính hiện thực. Ví dụ, các quyền hạn cụ thể như quyền ra quyết định xử phạt hành chính, quyết định kỷ luật hay quyết định bồi thường thiệt hại vật chất thường được quy định với cơ cấu hợp lý kèm theo quyền thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát. Có như vậy chức năng này mới có hiệu lực. Do tính phức tạp, nội dung phong phú và tầm quan trọng của khái niệm này, chúng tôi xin dành bài kế tiếp để làm rõ các khía cạnh khác của khái niệm như các yếu tố cấu thành, tính hệ thống, phương pháp phân định thẩm quyền và những liên hệ với thực tiễn pháp lý nước ta./. 

Khái Niệm Cải Cách Thủ Tục Hành Chính

Thủ tục hành chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan Nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân.

Hiện nay thủ tục hành chính ở nước ta còn những nhược điểm: Hình thức đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, gây phiền hà cho nhân dân; nặng nề, nhiều cửa, nhiều cấp trung gian, rườm rà, không rõ ràng về trách nhiệm; không phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mở cửa và hội nhập. Thủ tục hành chính thiếu thống nhất, thường bị thay đổi một cách tuỳ tiện, thiếu công khai, minh bạch.

Hiệu quả của nhược điểm trên là gây phiền hà cho việc thực hiện quyền tự do, lợi ích và công việc chung của cơ quan, gây trở ngại cho việc giao lưu và hợp tác giữa nước ta với nước ngoài, gây ra tệ cửa quyền, bệnh giấy tờ trong hệ thống cơ quan hành chính, là nơi thuận lợi cho nạn tham nhũng, lãng phí phát sinh, hoành hành.

Chính vì vậy, cải cách thủ tục hành chính là yêu cầu bức xúc của nhân dân, doanh nghiệp, của các tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài, là khâu đột phá của tiến trình cải cách hành chính Nhà nước. Trong tiến trình phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính có một vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu thủ tục hành chính nói riêng, nền hành chính nói chung không được hay chậm cải cách thì sẽ là một rào cản kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ta. Nghị quyết 38/CP ngày 1/5/1994 của Chính phủ “Về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức” là khâu đột phá trong cải cách hành chính Nhà nước đã phát huy tác dụng và đạt được những kết quả nhất định trong thời gian qua. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng, thủ tục hành chính cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa.

Theo nghĩa chung nhất, cải cách là một biện pháp được thực hiện để giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể và yêu cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định.

Vậy Cải cách hành chính là gì? Cải cách hành chính có thể được hiểu như là một quá trình thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong lĩnh vực quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính là điều kiện cần thiết để tăng cường củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, tăng cường sự tham gia quản lý Nhà nước của nhân dân. Cải cách thủ tục được coi là khâu đột phá trong cải cách nền hành chính Nhà nước, nghĩa là để tạo sự chuyển động của toàn bộ hệ thống nền hành chính quốc gia; thủ tục hành chính là khâu được chọn đầu tiên, cải cách thủ tục hành chính sẽ gây ra sự chuyển động của toàn bộ hệ thống khi bị tác động.

– Phải đảm bảo tính thống nhất của hệ thống thủ tục hành chính

– Bảo đảm sự chặt chẽ của hệ thống thủ tục hành chính

– Bảo đảm tính hợp lý của thủ tục hành chính

– Bảo đảm tính khoa học của quy trình thực hiện các thủ tục hành chính đã ban hành.

– Bảo đảm tính rõ ràng và công khai của các thủ tục hành chính

– Dễ hiểu, dễ tiếp cận

– Có tính khả thi.

– Bảo đảm tính ổn định cần thiết của quy trình thủ tục hành chính

Để đáp ứng yêu cầu trên (cũng là yêu cầu của hành chính phát triển và hội nhập) cần phải xây dựng những cơ chế thích hợp cho việc thực hiện các thủ tục hành chính đã ban hành.

Những cơ chế đã, đang được nghiên cứu, xây dựng và đưa vào áp dụng; trong tiến trình phát triển và hội nhập hiện nay là:

– Thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng “một cửa” tiến tới “một dấu”.

– Giao dịch điện tử

– Chính phủ điện tử

– Áp dụng ISO.

Khái niệm cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam

Cải Cách Thể Chế Hành Chính

1.1. Cải cách thể chế hành chính là gì?

Ở Việt Nam hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) nào, kể cả các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước chính thức định nghĩa khái niệm CCHC, cải cách thể chế hành chính. Nhưng trên thực tế đã có một số quan niệm về CCHC như: (i) CCHC là sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong từng giai đoạn; (ii) CCHC không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến hành CCHC đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế – xã hội (KTXH) của một quốc gia; (iii) CCHC tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, yêu cầu phát triển KTXH của mỗi quốc gia, có thể được đặt ra những trọng tâm, trọng điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số nội dung của nền hành chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, thể chế pháp lý, thủ tục hành chính hoặc tài chính công1.

Theo các quan niệm trên, CCHC không phải là cải tổ hay cách mạng mà là sự thay đổi có kế hoạch gắn với hoạt động quản lý hành chính nhà nước (thuộc chức năng của cơ quan hành pháp), tùy điều kiện của từng thời kỳ và mang một số nội dung cơ bản, trong đó có nội dung về cải cách thể chế.

Khái niệm về thể chế được Douglass North đưa ra đầu tiên trong cuốn “Thể chế, sự thay đổi thể chế và vận hành kinh tế” (1990) cùng với sự phân chia thể chế thành hai loại: thể chế chính thức và không chính thức2. Theo Douglass North, thể chế là những quy tắc của trò chơi trong xã hội, hay đó là những quy tắc mang tính minh bạch và nhân văn để điều chỉnh những hành vi giao dịch giữa con người với nhau. Lý thuyết về thể chế được xây dựng dựa trên các hành vi ứng xử giữa con người với nhau phù hợp với lý thuyết của chi phí giao dịch. Ông đưa ra khái niệm về thể chế thông qua một minh họa bằng sơ đồ như sau: (Hình 1)

Như vậy, để công cuộc CCHC nói chung và cải cách thể chế hành chính nói riêng đạt được hiệu quả, việc xây dựng và hoàn thiện các chế định pháp luật cùng với việc cung cấp thông tin pháp luật đầy đủ cho mọi tổ chức, cá nhân là một trong những yêu cầu tối cần thiết. Khái niệm thể chế và cải cách thể chế hành chính rõ ràng rộng hơn khái niệm pháp luật và cải cách hệ thống pháp luật. Vì là quy tắc của trò chơi nên ngoài những quy định mang tính pháp luật, nó còn bao gồm những chuẩn mực, những quy tắc bất thành văn, những quyết sách, những mối quan hệ không chính thức ẩn sâu bên trong, điều đó làm cho vấn đề cải cách thể chế phải luôn kịp thời, linh hoạt và không có một mô hình chung cho tất cả4.

1.2.  Sự phát triển của thể chế hành chính

Masahiko Aoki đồng ý với việc phân chia thể chế thành hai loại là thể chế chính thức và không chính thức của Douglass North (như đã trình bày), nhưng ông đã bổ sung thêm một số yếu tố. Chẳng hạn như thể chế chính thức sẽ bao gồm các quy tắc chính trị, hiến pháp, luật thành văn và các quy định, các quy tắc kinh tế và ký kết hợp đồng, còn ở thể chế không chính thức ông gắn thêm các yếu tố như: quy tắc xã hội, quy tắc đạo đức, các hương ước và lệ làng5. Đặc biệt, trong công trình “Hướng tới sự phân tích thể chế so sánh” ông đã nghiên cứu sự thay đổi của thể chế ở các nước đang phát triển như Việt Nam với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

Trong tác phẩm của mình, Masahiko Aoki bắt đầu từ việc tiếp cận lý thuyết cổ điển về thể chế kinh tế mới được bắt nguồn từ học giả Ronald Coase, trong đó đánh giá cao vai trò của khung thể chế và chi phí giao dịch trong vận hành kinh tế. Với nghĩa thể chế là quy tắc của trò chơi, sự phát triển kinh tế cùng với hiệu quả của nó luôn được xem là những yếu tố cơ bản làm thay đổi thể chế hay phải cải cách nó. Điểm mới và gây tranh cãi của Masahiko Aoki so với Douglass North là ở chỗ: ông đã chỉ ra rằng, chức năng cơ bản của thể chế là phải làm giảm chi phí giao dịch trong vận hành kinh tế và sự thay đổi quá lớn trong mức giá cả tương xứng là nhân tố chính dẫn đến sự tất yếu phải thay đổi thể chế. Nhìn vào kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam), sự bất ổn định, leo thang về giá cả cũng như chi phí giao dịch tăng cao trong các mối quan hệ giữa các cá nhân và giữa cá nhân với Nhà nước cho thấy nguy cơ biến động thể chế, hàng loạt quy tắc, VBQPPL mới phải sửa đổi, bổ sung để điều chỉnh kịp thời. Masahiko Aoki lý giải sự cần thiết phải thay đổi, cải cách thể chế ngoài lý do nêu trên còn có thể do tác động bởi các yếu tố văn hóa pháp lý, môi trường và tâm lý. Ông cũng chia sẻ quan điểm với học giả Jack Knight trong tác phẩm “Thể chế và xung đột xã hội ”, theo đó, các xung đột trong xã hội và cách thức giải quyết tranh chấp các xung đột này cũng là những nguyên nhân làm cho thể chế thay đổi6.

D1t, sau khi thoát ra ngoài D0s (với một phần bộ phận được du nhập từ D0t), tiếp tục tham gia trong một bối cảnh thay đổi xã hội mới D1s. Để tránh những cú sốc hay khủng hoảng về sự thay đổi, một cơ chế được xác định là làm cho D1t phát triển trong D1s giống như là cách thức D0t đã phát triển hài hòa trong D0s, mặc dầu những yếu tố ở trong D1s và trong D0s không hoàn toàn là giống nhau. Mô hình này nhấn mạnh sự hài hòa của các nhân tố mới phát triển phù hợp với các nhân tố cũ để tránh bất kỳ một sự khủng hoảng hay các cú sốc văn hóa lớn bởi những sự thay đổi đường đột.

Việt Nam có vẻ phù hợp với mô hình trên trong việc cải cách thể chế hành chính phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Trong quá trình CCHC nói chung và cải cách thể chế hành chính nói riêng, giống như bất kỳ các nước đang phát triển có nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, Việt Nam không thể ngay lập tức chấp nhận và sao chép mô hình Nhà nước pháp quyền cũng như những thể chế hành chính tiến bộ từ các nước phương Tây. Những yếu tố, bộ phận trong thể chế hiện tại không mâu thuẫn với những nhân tố cốt lõi của Nhà nước pháp quyền nên tiếp tục được duy trì và phát triển phù hợp với những yếu tố, bộ phận mới. Trong trường hợp có yếu tố tương phản, không phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, nhưng cũng không hại đến trật tự xã hội và cũng không xâm phạm đến các quyền con người thì nên tiếp tục duy trì nhưng theo hướng chỉnh sửa cho phù hợp để đảm bảo sự hài hòa và tránh các cú sốc lớn làm thay đổi trật tự và an ninh xã hội7.

1.3. Tiếp cận thể chế hành chính không chính thức Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

Tiếp nhận thể chế không chính thức của Nhà nước pháp quyền có nghĩa là, bổ sung những yếu tố mới bên cạnh những yếu tố cũ đang tồn tại, trong trường hợp những yếu tố cũ có thể mâu thuẫn với yếu tố cốt lõi của Nhà nước pháp quyền (độc lập tư pháp, tính minh bạch trong thủ tục, bảo vệ triệt để các quyền tự do cá nhân…) nhưng không làm phương hại đến lợi ích cộng đồng, trật tự xã hội, quyền và lợi ích cá nhân, nó có thể được chỉnh lý một cách từ từ và thận trọng.   

Cải cách thể chế hành chính ở Việt Nam trong 10 năm qua có thể nói là kết quả của tổng thể quá trình CCHC gắn với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền theo thể chế không chính thức, tức là tiếp tục xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cải cách thể chế hành chính trong 10 năm qua ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế. Số lượng văn bản pháp luật được ban hành nhiều nhưng chất lượng chưa cao, nội dung chồng chéo, trùng lắp, thiếu tính toàn diện và ổn định. Một số thể chế cơ bản chậm được xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện như thẩm quyền quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, thẩm quyền chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, trách nhiệm của doanh nghiệp trong quản lý tài sản nhà nước. Tình trạng luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư vẫn khá phổ biến. Cải cách thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều thủ tục gây phiền hà, chưa thực hiện đúng hẹn khi giải quyết, đặc biệt vẫn tồn tại xu hướng cơ quan hành chính giành thuận lợi về mình, đẩy khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông còn chưa đồng bộ, ý thức phối kết hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm giải quyết chưa cao, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, tinh thần trách nhiệm và sẵn sàng phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết vụ việc còn chưa cao.

2. Cải cách thể chế hành chính ở Việt Nam – tiếp cận dưới góc độ học tập kinh nghiệm Nhật Bản

2.1. Kinh nghiệm cải cách thể chế hành chính ở Nhật Bản

Hiến pháp của Nhật Bản năm 1947 đã xây dựng một chế độ quân chủ lập hiến, tuân theo các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, trong đó xác định Nội các thực hiện hoạt động quản lý hành chính trung thành theo luật, không một cá nhân hay cơ quan hành chính nào có thể tự ý ban hành luật lệ hay quy định mà không theo thẩm quyền được luật quy định.

CCHC nói chung và cải cách thể chế hành chính nói riêng ở Nhật Bản thực sự diễn ra mạnh mẽ vào bốn thập kỷ cuối của thế kỷ XX và được xem là một chính sách quốc gia vĩ đại nhằm đưa nước Nhật tiến lên trở thành một trong các cường quốc đứng đầu trên thế giới8. Với bốn giai đoạn CCHC từ năm 1945 đến 1985, thành tựu lớn nhất là đã đưa Nhật Bản từ nước bại trận sau Thế Chiến lần thứ II, trở thành một cường quốc phát triển từ nửa cuối của thế kỷ trước. Giai đoạn cải cách đầu tiên (1945 – 1954) mang dấu ấn của việc thi hành công cuộc CCHC dưới sự giám sát và tư vấn của lực lượng chiếm đóng Mỹ. Việc ban hành Hiến pháp hòa bình năm 1947 được đánh giá như một động lực quan trọng để cải tổ lại hệ thống bộ máy nhà nước và thực hiện dân chủ hóa thể chế hành chính. Trong giai đoạn này, bốn đạo luật quan trọng được ban hành là: Luật Tổ chức Chính phủ quốc gia (1948), Luật Nội các (1947), Luật Công vụ quốc gia (1947), Luật Tự trị địa phương (1947). Giai đoạn thứ 2 (1955 – 1964) là giai đoạn phát triển hưng thịnh của nền kinh tế Nhật Bản cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền hành chính công. Ủy ban thứ nhất về CCHC lần đầu tiên được thành lập trong Văn phòng Thủ tướng năm 1962, người đứng đầu là chuyên gia cao cấp ngân hàng nổi tiếng Kiichiro Sato với đội ngũ 21 chuyên gia và 70 nhà nghiên cứu. Các đạo luật cơ bản của Nhật Bản hầu như đều được xây dựng cho đến kết thúc giai đoạn cải cách thứ hai cùng với một thể chế hành chính rất vững chắc cho sự phát triển kinh tế của quốc gia và chế độ công vụ tận tâm, trung thành. Giai đoạn thứ 3 (1965 – 1974) và giai đoạn thứ 4 (1975 – 1985) là các giai đoạn với nhiều cải cách nhằm tinh giản bộ máy, đơn giản hóa thủ tục hành chính, phát triển dịch vụ công, thực hiện tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1979, các biến động môi trường, đặc biệt là sự mất cân đối trong cán cân thu chi và sự thâm hụt tài chính của Chính phủ. Hệ thống thanh tra của Nhật Bản đã được thành lập trong giai đoạn này.

Cải cách thể chế hành chính ở Nhật Bản vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ cuối thế kỷ XX cùng với xu hướng tiếp tục tinh giản bộ máy hành chính, tăng cường tính minh bạch trong thủ tục hành chính (Luật Thủ tục hành chính được ban hành năm 1993), tăng các quyền tự quản cho chính quyền địa phương, cải cách chế độ công vụ và chế độ quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập (như tăng tính tự chủ của các trường đại học hoàng gia trước đây)…

Cải cách thể chế hành chính ở Nhật Bản luôn bắt nguồn từ khung Hiến pháp hiện tại của Nhật Bản (1947) với các thay đổi lớn như: (i) xóa bỏ nguyên tắc quân chủ chuyên chế, thay vào đó là nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân. Điều 15 của Hiến pháp Nhật Bản ghi rõ: Chính quyền và bộ máy hành chính công phục vụ nhân dân và công chức là “người đầy tớ của toàn cộng đồng”; (ii) nguyên tắc nhân dân tham gia quản lý dân chủ được áp dụng với chính quyền và bộ máy công vụ. Một loạt các đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy chính phủ trung ương và chính quyền địa phương, luật công vụ quốc gia và luật công vụ địa phương đã được ban hành; (iii) ghi nhận tư tưởng hòa bình, từ bỏ chiến tranh theo Điều 9 của Hiến pháp, các lực lượng hải quân, không quân, lục quân đều đã bị giải tán; (iv) phân cấp mạnh mẽ cho các chính quyền địa phương theo nguyên tắc tự trị địa phương được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ Nội vụ bị giải tán, thay vào đó các vấn đề nhân sự tại địa phương, quản lý giáo dục, văn hóa, duy trì trật tự an ninh địa phương sẽ do chính quyền địa phương quyết định kết hợp với các hoạt động tự quản của cư dân; (v) hệ thống quản lý nhân sự kiểu Mỹ đã được áp dụng với việc phân loại và quản lý công chức theo ngạch bậc, chức vụ.

Một số kết quả và xu hướng cải cách thể chế hành chính của Nhật Bản gần đây có thể được giới thiệu như sau:

Cải cách bộ máy chính phủ trung ương và công vụ:

– Nguyên tắc quản lý dựa trên pháp luật đã được mềm hóa. Chính sách tư nhân hóa và phi tập trung hóa đã được xây dựng trên những quan điểm của chủ nghĩa tự do mới. Hướng dẫn hành chính là một nội dung mới trong quản lý hành chính của Nhật Bản bên cạnh việc duy trì các mệnh lệnh, quyết định hành chính mang tính bắt buộc, cứng nhắc. Việc tư nhân hóa ba công ty lớn của Nhà nước, trong đó có Công ty đường sắt Nhật Bản vào cuối những năm 1980, việc chuyển giao các quyền quy định của Nội các thông qua các lệnh từ năm 1983, việc mở rộng quyền tự quản của cư dân địa phương… là những minh chứng cho nguyên tắc mềm hóa quản lý nhà nước dựa trên pháp luật.

– Theo đề xuất cải cách của Nội các do Thủ tướng Hashimoto Ryutaro khởi xướng năm 1997 với khẩu hiệu: “Tập trung cải cách Chính phủ và bộ máy hành chính hướng tới thế kỷ XXI”, một cơ cấu chính quyền mới, rút gọn và hiệu quả đã được xây dựng năm 2001. Theo đó, cơ cấu 12 bộ như trước đây đã được tổ chức lại thành 10 bộ.

– Thành lập các tổ chức công cộng độc lập. Các doanh nghiệp tư nhân được cho phép thành lập và hoạt động nhằm xử lý các công việc chung của cộng đồng một cách đơn giản hóa và đạt hiệu quả, như các công ty môi trường, xử lý rác thải, thu gom đồ đạc đã qua sử dụng. Từ tháng 4/2004, các trường đại học công lập đã được chuyển từ quy chế quản lý đội ngũ cán bộ, công chức sang quy chế quản lý như đối với người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân và nâng cao tính tự chủ của các tổ chức công cộng độc lập này.

– Chính phủ Nhật Bản nỗ lực cải cách hệ thống công vụ, theo đó chế độ thâm niên công tác bị bãi bỏ, thay vào đó là hệ thống tuyển dụng và trả lương dựa trên năng lực. Hiện nay, các tổ chức công đoàn tiếp tục yêu cầu Chính phủ mở rộng quyền phản đối của cán bộ, công chức với áp lực nghề nghiệp đã từng bị hạn chế kể từ sau chiến tranh.

Cải cách thể chế, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương:

– Cải cách chính quyền địa phương trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc của Hiến pháp, trong đó các cơ quan này phải thực sự là các tổ chức bảo vệ và thực thi có hiệu quả các quyền con người và quyền tự do cơ bản của người dân.

– Thành lập các tổ chức công cộng độc lập trong mỗi tỉnh và liên tỉnh nhằm xử lý các công việc chung một cách hiệu quả và đơn giản hóa. Chuyển đội ngũ cán bộ quản lý từ quy chế công chức sang quy chế người lao động trong khu vực tư nhân.

– Đổi mới hoạt động của các cơ quan tự quản địa phương. Nhà nước chủ trương khuyến khích thị trường hóa và tư nhân hóa các chức năng quản lý nhà nước của cơ quan tự quản với khẩu hiệu: “Hãy để khu vực tư nhân làm những gì họ có thể làm”. Cải cách thể chế hành chính ở địa phương với việc mở rộng quyền tự quản của tổ chức nhưng vẫn chưa chú trọng đến quyền tự quản của người dân, do đó các quyền tự quản này cần đi vào thực chất mà không chỉ là hình thức.

– Thực hiện dân chủ hóa nền hành chính quốc gia, mối quan hệ giữa lãnh đạo dân chủ và tập quyền của một số cơ quan hành chính địa phương cần được xem xét và xử lý thỏa đáng.

2.2. Học tập kinh nghiệm Nhật Bản trong bối cảnh hội nhập quốc tế

(1) Xem Hỏi đáp về CCHC, http://caicachhanhchinh.gov.vn/PortalPlus.aspx?/vi-VN/News/102//1010046/0/3179/

(2) The formal and informal constraints of insrtitution. Douglass C.North, Institution, Institutional Change and Economic Performance, tr.4 (1990).

(3) Xem Aida Custovic, Institutional Reform in Land Administration: Does Simplification create Transparency, (Cải cách thể chế trong quản lý đất đai: Liệu sự đơn giản có tạo ra tính minh bạch), 2010.

(4) Xem David M. Trubek, The Rule of Law in Development Asistance (Nhà nước pháp quyền trong trợ giúp phát triển), Y.Matsuura, The Role of Law in Development: Past, Present and Future, CALE, Nagoya University (2005).

(5) Xem Masahiko Aoki, Toward a Comparative Institutional Analysis, tr.5 (2001).

(6) Xem Jack Knight, Thể chế và xung đột xã hội, (Institutions and Social Changes), tr.4 -12 (1992). (7)  Xem Pham Hong Quang, Administrative Division Court in Vietnam: Model, Jurisdiction nad Lesson from Foreign Experiences, (Tòa hành chính ở Việt Nam: Mô hình, thẩm quyền và những kinh nghiệm nước ngoài), tr.210, CALE Book, Đại học Nagoya, Nhật Bản (2010).

(8) Xem O.P. Dwivedi & Keith M. Henderson, Public Administration in World Perspective, Administrative Reform in Contemporary Japan, tr. 2 (1996).

(9) Số lượng 8 cơ quan  bộ còn lại của Nhật Bản bao gồm: Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học và công nghệ, Bộ Y tế, lao động, phúc lợi, Bộ Nông, lâm, ngư nghiệp, Bộ Kinh tế, thương mại công nghiệp và Bộ Môi trường.

(10) Xem Phạm Hồng Quang, Lịch sử hệ thống chính quyền địa phương Nhật Bản và một số vấn đề cải cách chính quyền địa phương Nhật Bản hiện nay, tr. 62-63, Tạp chí Luật học số 4 (2010)

Khái Niệm Thẩm Quyền Của Tòa Án

Thẩm quyền không chỉ thể hiện được sự khác biệt giữa các cơ quan nhà nước với nhau mà còn là thuộc tính tất yếu của cơ quan quyền lực nhà nước.

Thẩm quyền không chỉ thể hiện được sự khác biệt giữa các cơ quan nhà nước với nhau mà còn là thuộc tính tất yếu của cơ quan quyền lực nhà nước. Có thể thấy, đối với một cơ quan nhà nước, thẩm quyền giữ vai trò rất quan trọng, nên trước tiên ta cần hiểu rõ khái niệm “Thẩm quyền”.

Theo từ điển tiếng Việt, “thẩm quyền” là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật. Theo từ điển Luật học, “thẩm quyền” là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định.

Theo tác giả Lê Hoài Nam thì “thẩm quyền là quyền được thực hiện những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một tổ chức hoặc một nhân viên nhà nước. Nói cách khác, thẩm quyền là quyền của một chủ thể nhất định, đó là khả năng mà pháp luật cho phép được thực hiện một công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định”

Như vậy, dưới những góc độ khác nhau thì khái niệm “thẩm quyền” được giải thích có đôi chút khác nhau. Tuy nhiên, có thể chung quy lại, “thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước được pháp luật quy định”

Có thể thấy, thẩm quyền của Tòa án bao gồm các quyền khác nhau của Tòa án khi giải quyết vụ việc.

“Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, chúng ta có thể thấy: thẩm quyền của tòa án”là quyền của tòa án trong việc xem xét giải quyết các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự và những vụ việc khác theo quy định của pháp luật và quyền ra bản án, quyết định khi giải quyết vụ việc đó”.

Cập nhật thông tin chi tiết về Cải Cách Hành Chính: Về Khái Niệm Thẩm Quyền trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!