Bạn đang xem bài viết Cải Cách Hành Chính: Về Khái Niệm Thẩm Quyền được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I.ý nghĩa khái niệm và tình hình nghiên cứu ∗
Bài viết này là tiếp tục làm rõ khái niệm “phân cấp quản lý” trong bài “Phân cấp quản lý trong mối quan hệ giữa trung − ơng v μ địa ph ư ơng” của tác giả, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 7/2005. Bởi vì, bên cạnh việc phân chia địa giới hành chính – lãnh thổ (chia thành “cấp” ) thì, nội dung còn lại của việc phân cấp quản lý thực chất chủ yếu là phân định thẩm quyền cho các cấp. Cũng vì lẽ đó mà các định nghĩa hay giải thích về khái niệm “phân cấp quản lý” ở nước ta mà tác giả đã dẫn trong bài trên trực tiếp hay gián tiếp đều nói về sự phân định thẩm quyền, hay phân giao chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm. Nhưng đáng tiếc là khái niệm thẩm quyền được thể hiện dưới những công thức chưa chính xác. Phân định rạch ròi ranh giới thẩm quyền, không trùng lắp: Để bộ máy nhà nước hoạt động chính xác, nhịp nhàng, ăn khớp và hiệu quả, nhà nước tiến hành “phân công lao động” giữa các bộ phận của bộ máy, nghĩa là phân định thẩm quyền. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước bắt nguồn/phái sinh từ thẩm quyền của nhà nước, nên thẩm quyền của mỗi cơ quan nhà nước không bao giờ được lớn hơn thẩm quyền của nhà nước. “Sự phân công lao động” trong bộ máy công quyền phải thoả mãn yêu cầu sao cho mỗi cơ quan, mỗi nhà chức trách có một khối lượng “công việc nh à n ư ớc” hợp lý tương xứng với vị trí và khả năng của chủ thể đó, sao cho không có công việc nhà nước quan trọng đáng kể nào bị bỏ sót và không có công việc nào bị giao chồng chéo, trùng lắp. V.I. Lênin đã từng viết: “Nguyên tắc quản lý cơ bản, theo tinh thần của tất cả các nghị quyết của Đảng Cộng sản Nga v à các cơ quan Xô Viết trung ư ơng l à , một ng ư ời nhất định ho à n to à n chịu trách nhiệm về việc thực hiện một công việc nhất định” . 1 “Thẩm quyền” là một khái niệm quan trọng, trung tâm của khoa học pháp lý. Có thể nói, không có thuật ngữ nào được sử dụng phổ biến trong pháp luật như thuật ngữ “thẩm quyền” . Trong pháp luật nước ngoài, chúng ta còn thường gặp thuật ngữ thẩm quyền ngay trong tên các văn bản pháp luật, nhất là về tổ chức bộ máy nhà nước, bởi vì nội dung các văn bản đó thực chất là các quy định về thẩm quyền . 2 Tuy vậy, ngay trong văn bản pháp luật nước ngoài, thường cũng không có định nghĩa khái niệm thẩm quyền, mặc dù thực chất vấn đề là quy định về thẩm quyền . 3 ở nước ta cũng có tình trạng đó. Có lẽ một phần do sự phức tạp của khái niệm này nên khó đưa ra một định nghĩa đầy đủ về nó, tuy các quy định về thẩm quyền chiếm tỉ trọng lớn trong hệ thống văn bản pháp luật và có vị trí đặc biệt quan trọng. Là khái niệm quan trọng và rất phổ biến, nhưng kể từ những năm 80 đến nay – những năm nền khoa học pháp lý mới của Việt Nam mới bắt đầu hình thành và phát triển, và cả thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hơn mười năm trở lại đây, chưa có bài viết nào riêng về khái niệm “thẩm quyền ”, dù dưới dạng đơn giản nhất. Trên cơ sở thống nhất với nhận định chung rằng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng như cải cách hành chính nói chung, phân cấp quản lý nói riêng, tuy đã có những thành tựu đáng kể, nhưng chưa đạt được kết quả như mong muốn, phải kể đến một nguyên nhân quan trọng hàng đầu là nhận thức lý luận chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ . 4 Việc nghiên cứu các khái niệm cơ bản đối với nhận thức luận là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa nền tảng. Tại đây, cần nhớ lại lời của V.I. Lênin, rằng: “ng ư ời n à o bắt tay v à o những vấn đề riêng tr ư ớc khi giải quyết các vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi b ư ớc đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó một cách không tự giác. M à mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng tr ư ờng hợp riêng, thì có nghĩa l à đ ư a chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất v à mất hẳn tính nguyên tắc” . Trong khoa 5 học pháp lý càng thấy rõ sự thiếu hụt những nghiên cứu cơ bản, hay những giới thiệu nghiêm túc các khái niệm cơ bản, nền tảng đã được khoa học pháp lý thế giới nghiên cứu kỹ lưỡng từ rất lâu và cập nhật vào thực tiễn khoa học pháp lý và quản lý nước nhà, trong đó có khái niệm “thẩm quyền” . Nhiều bất cập trong các quy định pháp luật về thẩm quyền nói chung và về phân cấp quản lý nói riêng, có nhiều nguyên nhân, nhưng có khi chỉ do một nguyên nhân đơn giản là không nắm vững khái niệm thẩm quyền và phương pháp phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước. Với mong muốn góp phần bù đắp sự thiếu hụt nói trên, bài viết này bằng phân tích tổng quan nhằm cung cấp một đôi nét lý luận cơ bản về khái niệm “thẩm quyền” mà khoa học pháp lý nước ngoài đã đúc kết (ý nghĩa, định nghĩa, các quan điểm và phân biệt khái niệm thẩm quyền với một số khái niệm gần gũi hay nhầm lẫn) và liên hệ vào khoa học và thực tiễn pháp lý nước nhà.
III. Định nghĩa khái niệm
Tóm lại như trên đã phân tích, các yếu tố như: nhiệm vụ, chức năng, vấn đề cần giải quyết, khách thể v à đối t ư ợng tác động, trách nhiệm, quyền v à nghĩa vụ, địa vị pháp lý, năng lực pháp luật, hình thức v à ph ư ơng pháp hoạt động, có quan hệ qua lại rất chặt chẽ theo những mức độ khác nhau với thẩm quyền. Song cần phải phân biệt chúng với nhau, không thể lẫn lộn. 18 Ví dụ xem: Tr † ờng Hành chính quốc gia, sách đã dẫn, 1991, tr.89 và Học viện Hành chính quốc gia, sách đã dẫn, 1999, tr.103. Quan điểm của B.M. Lazarép cho phép khắc phục được những lẫn lộn trên, theo đó, thẩm quyền là một hiện tượng nhà nước – quyền lực và pháp lý phức tạp có nội dung chức năng và vỏ bọc pháp lý, là một hệ thống (chứ không phải là một tập hợp giản đơn) các yếu tố cấu thành bao gồm hai nhóm lớn sau đây: Một l à , các quyền v à nghĩa vụ để thực hiện các chức năng nhất định m à cơ quan nh à n ư ớc đ ư ợc trao để giải quyết những vấn đề, quản lý những đối t ư ợng/khách thể nhất định trong những lĩnh vực nhất định của đời sống nhằm đạt những nhiệm vụ nhất định. Đây là nhóm các quyền v à nghĩa vụ chung. Các chức năng có thể là rất chung như lập pháp, hành pháp, tư pháp; hoặc cụ thể hơn như các chức năng chung của quản lý: thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin; dự báo; kế hoạch hóa; tổ chức; lãnh đạo; điều chỉnh; điều hành tác nghiệp; điều hoà – phối hợp; thống kê; kiểm tra… Các chức năng chung còn được phân hoá cụ thể hơn nữa. Các quyền v à nghĩa vụ chung xác định hành lang hoạt động chung, cái mà hoạt động nhà nước hướng tới (vấn đề, đối tượng/khách thể, lĩnh vực) và đích cần đi đến (nhiệm vụ). Hai l à , các quyền hạn cụ thể để thực hiện các quyền v à nghĩa vụ chung nói trên (l à quyền thực hiện các hình thức hoạt động cụ thể nh ư ban h à nh hay tham gia v à o việc ban h à nh quyết định, quyền đình chỉ, sửa đổi hay bãi bỏ quyết định, quyền áp dụng các biện pháp c ư ỡng chế,…). Các quyền hạn cụ thể là công cụ thực hiện các quyền và nghĩa vụ (chung) ở nhóm một. Nhờ các quyền hạn cụ thể mà các quyền và nghĩa vụ chung mới có tính hiện thực. Ví dụ, các quyền hạn cụ thể như quyền ra quyết định xử phạt hành chính, quyết định kỷ luật hay quyết định bồi thường thiệt hại vật chất thường được quy định với cơ cấu hợp lý kèm theo quyền thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát. Có như vậy chức năng này mới có hiệu lực. Do tính phức tạp, nội dung phong phú và tầm quan trọng của khái niệm này, chúng tôi xin dành bài kế tiếp để làm rõ các khía cạnh khác của khái niệm như các yếu tố cấu thành, tính hệ thống, phương pháp phân định thẩm quyền và những liên hệ với thực tiễn pháp lý nước ta./.
Cải Cách Hành Chính Là Gì ? Khái Niệm Về Cải Cách Hành Chính ?
Cải cách hành chính là một chủ trương, công cuộc có tính đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Cải cách hành chính là vấn đề diễn ra ở tất cả các quốc gia và được coi là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, là trọng tâm của công việc cải cách bộ máy nhà nước nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, thống nhất, có đủ quyền lực, năng lực để thực hiện đúng đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, phục vụ đắc lực cho nhân dân.
Ở Việt Nam, nội dung trọng tâm của cải cách hành chính gồm: 1) Cải cách thể chế – là xây dựng và hoàn thiện các thể chế mà trước hết là thể chế kinh tế trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới quy định xây dựng và ban hành văn bản quy phạm phápluật; đảm bảo tổ chức thực thi pháp luật nghiêm của các cơ quan Nhà nước; cải cách thủ tục hành chính phù hợp; 2) Cải cách tổ chức bộ máy hành chính – là việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lí nhà nước trong tình hình mới; khắc phục những chồng chéo về chức năng của các cơ quan nhà nước; chuyển một số công việc sang cho tổ chức phi chính phủ đối với các công việc dịch vụ; thực hiện phân cấp quản lý; cải tiến phương thức làm việc của cơ quan hành chính các cấp; hiện đại hoá nền hành chính; 3) Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức – bao gồm việc đổi mới chế độ quản lí công chức; cải cách chế độ tiền lương của cán bộ công chức; đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, nâng cao tỉnh thần trách nhiệm và đạo đức của công chức; 4) Cải cách tài chính công bao gồm đổi mới cơ chế phân cấp quản lí tài chính và ngân sách; bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương; đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công.
Cải cách hành chính là chủ trương được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra và thể hiện rõ trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Trong đó, mục tiêu cải cách hành chính là: “xây dựng một nền hành chính dân chủ, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất năng lực đáp ứng được công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”. Chủ trương cải cách hành chính tiếp tục được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII và các Nghị quyết trung ương 3, trung ương 6 (lần thứ 2) và trung ương 7 (khoá VIIl).
Khái Niệm Cải Cách Và Cải Cách Hành Chính Nhà Nước
– Theo cách hiểu chung nhất, cải cách là những thay đổi có tính hệ thống và có mục đích nhằm làm cho một hệ thống hoạt động tốt hơn. Điều đó làm phân biệt cải cách với những hoạt động khác cũng chỉ sự biến đổi như sáng kiến, thay đổi,…
– Cải cách hành chính, theo đó, được hiểu là những thay đổi có tính hệ thống, lâu dài và có mục đích nhằm làm cho hệ thống hành chính nhà nước hoạt động tốt hơn, thực hiện tốt hơn các chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội của mình. Như vậy, cải cách hành chính nhằm thay đổi và làm hợp lý hóa bộ máy hành chính, với mục đích tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước.
– Cải cách hành chính nhà nước là một trong những nội dung quan trọng của khoa học hành chính, có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn cao. Mọi hoạt động cải cách hành chính nhà nước đều hướng tới việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý cụ thể của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển.
Vì bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận không tách rời của bộ máy nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị của một quốc gia nói chung nên cách thức tổ chức và hoạt động của nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố chính trị, mức độ phát triển kinh tế-xã hội, cũng như các yếu tố mang tính chất đặc trưng khác của mỗi quốc gia như truyền thống văn hoá, lịch sử,… Cải cách hành chính nhà nước ở các nước khác nhau, vì vậy, cũng mang những sắc thái riêng, được tiến hành trên những cấp độ khác nhau, với những nội dung khác nhau. Ở Việt Nam, có thể xem cải cách hành chính nhà nước là một bộ phận quan trọng của công cuộc đổi mới, là trọng tâm của tiến trình xây dựng và hoiàn thiện Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam , bao gồm các thay đổi có chủ đích và lâu dài nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước để đáp ứng những đòi hỏi của tiến trình đổi mới.
Khái niệm cải cách và cải cách hành chính nhà nướcAdmin Mr.Luân
Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : [email protected] ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍
Khái Niệm Cải Cách Thủ Tục Hành Chính
Thủ tục hành chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan Nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân.
Hiện nay thủ tục hành chính ở nước ta còn những nhược điểm: Hình thức đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, gây phiền hà cho nhân dân; nặng nề, nhiều cửa, nhiều cấp trung gian, rườm rà, không rõ ràng về trách nhiệm; không phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mở cửa và hội nhập. Thủ tục hành chính thiếu thống nhất, thường bị thay đổi một cách tuỳ tiện, thiếu công khai, minh bạch.
Hiệu quả của nhược điểm trên là gây phiền hà cho việc thực hiện quyền tự do, lợi ích và công việc chung của cơ quan, gây trở ngại cho việc giao lưu và hợp tác giữa nước ta với nước ngoài, gây ra tệ cửa quyền, bệnh giấy tờ trong hệ thống cơ quan hành chính, là nơi thuận lợi cho nạn tham nhũng, lãng phí phát sinh, hoành hành.
Chính vì vậy, cải cách thủ tục hành chính là yêu cầu bức xúc của nhân dân, doanh nghiệp, của các tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài, là khâu đột phá của tiến trình cải cách hành chính Nhà nước. Trong tiến trình phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính có một vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu thủ tục hành chính nói riêng, nền hành chính nói chung không được hay chậm cải cách thì sẽ là một rào cản kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ta. Nghị quyết 38/CP ngày 1/5/1994 của Chính phủ “Về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức” là khâu đột phá trong cải cách hành chính Nhà nước đã phát huy tác dụng và đạt được những kết quả nhất định trong thời gian qua. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng, thủ tục hành chính cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa.
Theo nghĩa chung nhất, cải cách là một biện pháp được thực hiện để giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể và yêu cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định.
Vậy Cải cách hành chính là gì? Cải cách hành chính có thể được hiểu như là một quá trình thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong lĩnh vực quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính là điều kiện cần thiết để tăng cường củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, tăng cường sự tham gia quản lý Nhà nước của nhân dân. Cải cách thủ tục được coi là khâu đột phá trong cải cách nền hành chính Nhà nước, nghĩa là để tạo sự chuyển động của toàn bộ hệ thống nền hành chính quốc gia; thủ tục hành chính là khâu được chọn đầu tiên, cải cách thủ tục hành chính sẽ gây ra sự chuyển động của toàn bộ hệ thống khi bị tác động.
– Phải đảm bảo tính thống nhất của hệ thống thủ tục hành chính
– Bảo đảm sự chặt chẽ của hệ thống thủ tục hành chính
– Bảo đảm tính hợp lý của thủ tục hành chính
– Bảo đảm tính khoa học của quy trình thực hiện các thủ tục hành chính đã ban hành.
– Bảo đảm tính rõ ràng và công khai của các thủ tục hành chính
– Dễ hiểu, dễ tiếp cận
– Có tính khả thi.
– Bảo đảm tính ổn định cần thiết của quy trình thủ tục hành chính
Để đáp ứng yêu cầu trên (cũng là yêu cầu của hành chính phát triển và hội nhập) cần phải xây dựng những cơ chế thích hợp cho việc thực hiện các thủ tục hành chính đã ban hành.
Những cơ chế đã, đang được nghiên cứu, xây dựng và đưa vào áp dụng; trong tiến trình phát triển và hội nhập hiện nay là:
– Thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng “một cửa” tiến tới “một dấu”.
– Giao dịch điện tử
– Chính phủ điện tử
– Áp dụng ISO.
Khái niệm cải cách thủ tục hành chính ở Việt NamCơ Quan Hành Chính Có Thẩm Quyền Chung Và Thẩm Quyền Chuyên Môn
Phân biệt cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn? Quy định về cơ quan hành chính có thẩm quyền chung và thẩm quyền chuyên môn?
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, cơ quan hành chính Nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cấp, có phương diện hoạt động chủ yếu là hoạt động quản lý nhà nước, có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định. Cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống thống nhất từ trung ương tới địa phương đứng đầu hệ thống đó là chính phủ.
Cơ quan quản lý hành chính nhà nước nhân danh nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật để bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước nhằm tổ chức và chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá – xã hội và hành chính – chính trị. Cơ quan hành chính nhà nước căn cứ vào những tiêu chí mà được phân loại thành những cơ quan khác nhau. Bài viết của Luật Dương Gia sau đây làm rõ sự khác nhau giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chung và thẩm quyền chuyên môn.
I. Các vấn đề chung về cơ quan hành chính nhà nước 1. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nướcCơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, có phương diện hoạt động chủ yếu là hoạt động chấp hành – điều hành, có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định.
2. Đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nướcThứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành (đó là những hoạt động được tiến hành trên cơ sở luật và để thi hành luật) nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Như vậy, hoạt động chấp hành – điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bản của cơ quan nhà nước đó như: Chức năng lập pháp của Quốc hội, chức năng xét xử của tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân.
Chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội…Việc thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước là nhằm hoàn thành chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Thứ hai, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ Trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. Như vậy, cơ quan hành chính nhà nước có tính trực thuộc, tính thứ bậc chặt chẽ tạo thành một hệ thống thống nhất. Bộ máy hành chính nhà nước chủ yếu thực hiện quyền hành pháp, thực hiện một loại hoạt động đặc thù, phức tạp, đa dạng.
Thứ ba, các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước. Do đó các cơ quan này chịu sự lãnh đạo, giám sát của cơ quan dân cử tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó. Có những cơ quan hành chính nhà nước không do cơ quan dân cử trực tiếp lập ra mà do các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên lập, nhưng về nguyên tắc cũng chịu sự giám sát, lãnh đạo của cơ quan dân cư tương ứng.
Thứ tư, thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành – điều hành.
Thứ năm, các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức năng quản lý hành chính đều có các đơn vị cơ sở trực thuộc.
II. Phân biệt cơ quan hành chính có thẩm quyền chung và thẩm quyền chuyên mônCơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn có những điểm giống nhau như sau:
– Đều là cơ quan hành chính nhà nước được giao thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước.
– Đều có đội ngũ cán bộ, công chức để thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ được giao nhằm mục đích được giao nhằm thực hiện chức năng của mình.
– Đều có thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính để giải quyết công việc phát sinh nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Bên cạnh đó cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cũng có những điểm khác nhau cơ bản để có thể phân biệt được, cụ thể như sau:
Xin c hào công ty luật Dương Gia. Em tên là Minh Phương, là sinh viên, hiện đang thực tập tại Phòng Kinh tế Huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ. Sau quá trình thực tập, em có dự định làm việc tại quê em ở Phú Thọ. Tuy nhiên, hiện em chưa rõ cơ quan chuyên môn ở huyện bao gồm những cơ quan nào. Xin luật sư đáp câu hỏi c ơ quan chuyên môn cấp huyện bao gồm cơ quan nào? Văn bản nào quy định điều này?
Vấn đề cơ quan chuyên môn cấp huyện quy định tại Khoản 2 Điều Nghị định 37/2014/NĐ-CP cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban huyện quận thị xã thành phố thuộc tỉnh cụ thể như sau:Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm có phòng và cơ quan tương đương phòng (sau đây gọi chung là phòng).
Các cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quy định tại Điều 7 Nghị định 37/2014/NĐ-CP bao gồm các cơ quan sau:
1. Phòng Nội vụ:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Tổ chức bộ máy; vị trí việc làm; biên chế công chức và cơ cấu ngạch công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước; vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng trong cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước; tôn giáo; công tác thanh niên; thi đua – khen thưởng.
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý, nuôi con nuôi, hộ tịch, chứng thực, bồi thường nhà nước và các công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
3. Phòng Tài chính – Kế hoạch:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về; Tài chính; kế hoạch và đầu tư; đăng ký kinh doanh; tổng hợp và thống nhất quản lý các vấn đề về doanh nghiệp, hợp tác xã, kinh tế tư nhân.
4. Phòng Tài nguyên và Môi trường:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; môi trường; biển và hải đảo (đối với các huyện có biển, đảo).
5. Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội;
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Việc làm; dạy nghề; lao động, tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội.
6. Phòng Văn hóa và Thông tin:
7. Phòng Giáo dục và Đào tạo:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Chương trình và nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo và tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo.
Cải Cách Bộ Máy Hành Chính, Nội Dung Quan Trọng Của Cải Cách Hành Chính
Để xác định được nội dung đổi mới tổ chức cùa bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập kinh tế thế giới thì trước hết chúng ta phải tiến hành cài cách nền hành chính quốc gia.
Cải cách bộ máy hành chính là khâu quan trọng của cải cách nền hành chính quốc gia. Trong thời gian qua chúng ta đã đạt được một sô thành tựu đáng kế như bước đầu đã có sự phân biệt giữa quản lí nhà nước và quản lí sản xuất kinh doanh; cái cách một bước thể chế hành chính và thú tục hành chính; đổi mới chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước khác; cơ cấu bộ máy hành chính bước đầu tinh giảm trên cơ sở sáp nhập một số cơ quan hành chính nhà nước có thấm quyền chuyên môn ở trung ương…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì bộ máy hành chính nhà nước ta vẫn còn một số những nhược điểm, cụ thể là:
– Cơ cấu bộ máy hành chính còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, không thông suốt, làm tăng biên chế và chi phí hành chính;
Tình trạng tham nhũng vẫn còn tổn tại và có nhiều diễn biến phức tạp. Cán bộ, cồng chức trong bộ máy hành chính nhà nước còn mắc bệnh quan liêu, xa dân, xa cấp dưới và cấp cơ sơ. Đây chính là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu lực, hiệu quả trong quản lí nhà nước;
– Sự phân cấp trong quản lí nhà nước vẫn còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, thực sự chưa quán triệt một cách triệt để nguvên tắc tập trung dàn chủ trong quản lí nhà nước;
– Tình trạng phân tán, thiếu trật tự, kỉ cương trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có chiều hướng gia tăng.
Để khắc phục tình trạng này chúng ta phải xây dựng bộ máy hành chính nhà nước trong sạch, có đủ nâng lực, sử dụng đúng quyên lực và từng bước hiện đại hoá để quản lí nhà nước có hiệu lực, hiệu quả.
Mặt khác, thực tiẽn quản lí nhà nước có nhiều thay đổi, chịu tác động của quy luật phát tricn của xã hội, tác dộng của nổn kinh tê thị trường trong xu thế hội nhập quốc tế, đặc biệt là sự hội nhập giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Thực trạng này hơn lúc nào hết yêu cầu cải cách bộ máy hành chính nhà nước cho phù hợp với xu thế mới là tất yếu khách quan.
Mục tiêu của cải cách bộ máy hành chính nhà nước ta hiện nay là hướng tới xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh giản, tổ chức hợp lí, có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp, hoạt động liên tục có kỷ cương trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; một bộ máy hành chính nhà nước hướng vào phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của dân, phát huy hợp lí và hiệu quả sức dân, đảm bảo công bằng và văn minh với mỗi người dân ở mọi vùng đất nước.
Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải được thực hiện trên cơ sở quán triệt đầy đủ các quan điểm:
– Cải cách bộ máy hành chính nhà nước trên cơ sở bảo đám quvền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phân nhiệm một cách hợp lí giữa ba quyển lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó đặc biệt chú ý quyền hành pháp;
– Cải cách bộ máy hành chính nhà nước đặt trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân;
– Cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong xu thế hội nhập quốc tế; góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tiến hành cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc sau:
– Thể chế hoá kịp thòi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách bộ máy hành chính nhà nước thành các quy phạm pháp luật trong từng giai đoạn cụ thể;
– Luôn xuất phát từ lợi ích của dân, đáp ứng quyền lợi, nguyện vọng của dán. Đảm bảo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”;
– Tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước;
– Phân biệt rõ hơn chức năng quản lí nhà nước về kinh tế và quản lí sản xuất kinh doanh;
– Đảm bảo quản lí hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực với quản lí theo lãnh thổ;
– Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, của trung ương và dịa phương.
Phương hướng cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong những năm tới:
– Xác định lại vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ:, từ đó xây dựng mô hình Chính phủ văn minh, Chính phủ điện tử;
– Quy định một cách khách quan, khoa học, hợp lí, chạt chẽ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ. Giám đến mức tháp nhất sô lượng các cơ quan thuộc Chính phủ, thành lập các bộ quản lí đa ngành, đa lĩnh vực nhằm thu gọn đầu mối cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyên chuyên môn:
– Ổn định địa vị hành chính, thiết lập các căn cứ phân tách phù hợp được các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ở địa phương có thể chủ động trong quản lí nhà nước;
– Xác định địa vị pháp lí hành chính của uỷ ban nhân dân xã theo hướng tăng quvền tự quản đối với các hoạt động quán lí dân cư ớ địa phương, chủ yếu tập trung vào các vấn đề như xây dựng kế hoạch tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương; quan lí hoạt động kinh tế chủ yếu là quán lí đất đai: quản lí dân cư; quán lí trật tự trị an; tổ chức đời sổng dân cư và cung cấp các dich vu công cho địa bàn dân cư;
– Đổi mới hoàn thiện đội ngũ cán bộ, công chức. Chỉ tuyến dụng những công dân có trình độ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức vào ngạch công chức, viên chức nhà nước. Xác lập quy chế công việc phù hợp, hiện đại nhằm thiết lập trật tự, kỉ cương, kỉ luật chặt chẽ đối với đội ngũ cán bộ, công chức.
Tổ bộ môn Luật Hành chính – Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình, tổng hợp
Nội dung trong bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (chú thích rõ trong bài viết).
Bài viết được sử dụng không nhằm mục đích thương mại, chỉ nhằm mục đích giảng dạy, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Khoa Luật Kinh tế – Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest .
Cập nhật thông tin chi tiết về Cải Cách Hành Chính: Về Khái Niệm Thẩm Quyền trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!