Xu Hướng 3/2023 # Các Nội Dung Cơ Bản Của Hợp Đồng # Top 6 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Các Nội Dung Cơ Bản Của Hợp Đồng # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Các Nội Dung Cơ Bản Của Hợp Đồng được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Chủ thể của hợp đồng

Thông thường trong hợp đồng, nội dung này thường được ghi nhận là thông tin các bên. Một hợp đồng chỉ được xác lập khi có từ hai bên tham gia thỏa thuận và xác lập. Do đó, nội dung về chủ thể của hợp đồng là cơ bản và bắt buộc phải có.

Chủ thể của hợp đồng có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức (pháp nhân).

Ngoài ra, việc xác định chủ thể hợp đồng còn giúp xác định đối tượng của hợp đồng, từ đó xác định quyền và trách nhiệm cơ bản của chủ thể.

    Đối tượng của hợp đồng

    Mỗi một hợp đồng đều có đối tượng cụ thể. Ví dụ như hợp đồng mua bán tài hàng hóa thì đối tượng của hợp đồng là hàng hóa.

    Trong hợp đồng phải ghi nhận đúng đối tượng àm các bên giao dịch; ngoài ra để chắc chắn, các bên thường quy định về loại đối tượng, số lượng, chất lương… đối tượng của hợp đồng.

      Nội dung hợp đồng

      Nội dung hợp đồng là điều khoản khái quát về những gì các bên thỏa thuận trong Hợp đồng. Nôi dung hợp đồng có thể làm căn cứ để xác định những trách nhiệm “đương nhiên” của mỗi bên khi thực hiện hợp đồng đồng thời chỉ ra được đối tượng hợp đồng mà các bên đang hướng đến.

      Thông thường, nội dung hợp đồng được quy định chi tiết hơn ở trong hợp đồng dịch vụ, hợp đồng mua bán, hợp đồng thương mại (đại lý thương mại, nhượng quyền thương mại…).

        Giá và phương thức thanh toán

        Giá được hiểu là giá trị đối với đối tượng của hợp đồng hay còn được hiểu là giá trị của hợp đồng. Ví dụ hai bên xác lập hợp đồng mua bán điện thoại, hai bên thỏa thuận giá của chiếc điện thoại là 5.000.000 đồng thì đây là giá trong hợp đồng.

        Tuy nhiên, trong một số trường hợp, Điều khoản giá không tồn tại do các bên lập “Hợp đồng cơ bản/Hợp đồng khung” và giá trị các giao dịch dựa trên các hóa đơn chứng từ. Trường hợp này hợp đồng vẫn được xem xét về giá trị dựa trên những giấy tờ các bên đưa ra chứ không chỉ dựa trên bản Hợp đồng. Một số trường hợp pháp luật quy định phương thức xác định giá.

        Trong điều khoản về giá thường đi kèm với thỏa thuận phương thức thanh toán. Các bên trong hợp đồng có thể tùy chọn phương thức thanh toán phù hợp. Công ty luật Việt An xin đề xuất một số phương pháp thanh toán thường được sử dụng: Trả tiền mặt; chuyển khoản qua ngân hàng; nhờ thu…

          Quyền và nghĩa vụ của các bên

          Căn cứ vào các điều khoản về nội dung và giá trị hợp đồng, đồng thời dựa trên những quyền lợi chính đáng mà các bên đã thỏa thuận với nhau để quyết định về điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên. Điều khoản này có thể lăp lại những nghĩa vụ và cam kết của các bên tại các điều khoản trước và nêu thêm các điều khoản ràng buộc nếu các bên xét thấy cần thiết.

          Thông thường, đối với từng loại hợp đồng cụ thể thì pháp luật có quy định cơ bản nhất đối với quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng đó.

            Thời hạn hợp đồng

            Đây là điều khoản quan trọng đối với quá trình thực hiện hợp đồng trên thực tế. Các bên nên thảo thuận cụ thể thời hạn bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng; Thời hạn thực hiện hợp đồng (thời gian giao hàng, thời gian thực hiện dịch vụ,…); Thời điểm kết thúc hợp đồng.

              Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại

              Để đảm bảo hơn quyền và lợi ích của các bên và đảm bảo việc thực hiện đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng thì các bên nên thỏa thuận về điều kiện phạt vi phạm và bồi thường thiêt hại.

              Lưu ý: Luât Thương mại 2005 thì mức phạt vi phạm không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm và chỉ được phạt vi phạm nếu điều này được quy định trong hợp đồng. Cũng theo Luật này, nếu có thỏa thuận phạt vi phạm thì các bên có thể áp dụng cả phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.

              Trường hợp các bên có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm. Do đó, vẫn khuyến khích người soạn thảo hợp đồng nên làm rõ cả hai vấn đề trên bằng các điều khoản và câu chữ.

              Vấn đề phạt vi phạm có thể áp dung song song với việc tiếp tục hợp đồng nếu trường hợp vi phạm không rơi vào điều kiện được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng

                Chấm dứt, đơn phương chấm dứt hợp đồng

                Việc chấm dứt hợp đồng được áp dụng khi một trong các bên có những vi phạm cơ bản theo hợp đồng khiến cho bên còn lại không thể đạt được mục đích ban đầu. Ngoài ra, có thể bên vi phạm vi phạm những cam kết tuy không cơ bản nhưng bất hợp lý và có ảnh hưởng đến tiến độ hoặc các quá trình làm việc của bên thứ ba.

                Bên cạnh việc hai bên chấm dứt hợp đồng, các bên có quyền thỏa thuận các trường hợp được đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với từng bên.

                Nên thỏa thuận thuận việc đơn phương chấm dứt hợp đồng dù có phù hợp với những điều kiện mà hợp đồng đã quy định vẫn phải thông báo cho bên còn lại bằng văn bản, nếu không thông báo mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.

                  Giải quyết tranh chấp

                  Các bên thỏa thuận chọn con đường Tòa án hoặc Trọng tài nếu tranh chấp xảy ra. Đồng thời các hợp đồng quốc tế lưu ý về việc chọn luật điều chỉnh ngay từ khi ký kết hợp đồng nhằm tránh các rắc rối về sau trong việc chọn hoặc phải tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật nước nào.

                  Công ty luật Việt An cung cấp các dịch vụ pháp lý về soạn thảo và tư vấn soạn thảo hợp đồng. Qúy khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ về hợp đồng xin vui lòng liên hệ đến Công ty luật Việt An để được hỗ trợ một cách tốt nhất.

                  Nội Dung Cơ Bản Của Luật Thương Mại 2005

                  Luật Thương mại năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005. Ngày 27 tháng 6 năm 2005, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 10/2005/L/CTN công bố ban hành. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006.

                  Luật Thương mại đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 10 tháng 5 năm 1997, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1998. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất từ trước đến nay quy định thống nhất về hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam. Qua hơn 7 năm thực hiện, Luật Thương mại năm 1997 đã có những tác động tích cực đến đời sống kinh tế – xã hội của Việt Nam, từng bước đưa hoạt động thương mại vào nề nếp, khuyến khích và phát triển hoạt động thương mại hợp pháp, ngăn chặn và xử lý các hành vi bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường thương mại. Tuy nhiên cùng với sự hội nhập và phát triển, Luật Thương mại 1997 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi cần được bổ sung và sửa đổi để tạo điều kiện cho hoạt động thương mại phát triển và nâng cao tính khả thi của các đạo luật. 

                  NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI 2005

                  1. Chương I – Những quy định chung  Chương I gồm 3 mục, quy định về: phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại; thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam.

                  Về phạm vi điều chỉnh:phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005 được mở rộng phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, theo hướng Luật Thương mại xác định hoạt động thương mại theo nghĩa rộng và đưa ra quy định khung cho các hoạt động này. Đối với các hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động thương mại gắn liền và phục vụ trực tiếp cho mua bán hàng hóa, Luật Thương mại năm 2005 đưa ra những chế định cụ thể. Những hoạt động thương mại khác chưa được quy định cụ thể trong Luật Thương mại năm 2005 sẽ được các luật chuyên ngành quy định.

                  Về những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại:Luật Thương mại năm 2005 quy định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại phù hợp với nguyên tắc của Bộ Luật Dân sự năm 2005 cũng như thực tiễn hoạt động thương mại tại Việt Nam.

                  Về thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam: Luật Thương mại năm 2005 xác định các hình thức và quyền hoạt động thương mại của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. So với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 bổ sung thêm 2 hình thức hiện diện thương mại bao gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài bên cạnh hình thức chi nhỏnh, văn phòng đại diện. Sự bổ sung này là phù hợp với quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết như BTA.

                  So với Luật Thương mại năm 1997, trong Chương này có những điểm mới sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:

                  1. 1. Phạm vi điều chỉnh  Luật Thương mại năm 2005 đã không điều chỉnh việc xác định địa vị pháp lý của thương nhân. Phạm vi điều chỉnh mới là các hoạt động thương mại, trong đó hoạt động thương mại được hiểu là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác (Điều 3 khoản 1) đã mở rất rộng các hoạt động thương mại không bị giới hạn trong 14 hành vi thương mại của Luật Thương mại năm 1997.

                  1.2. Đối tượng áp dụng  Đối tượng áp dụng của Luật Thương mại 2005 không chỉ dừng lại ở các thương nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam mà cũn cả những thương nhân có hoạt động thương mại tại nước ngoài (mà các bên thỏa thuận áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này).

                  Đối tượng áp dụng của Luật này cũng được mở rộng ra đối với những đối tượng không phải là thương nhân khi có hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lónh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật này. Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Điều 6).

                  1.3. Nguyên tắc áp dụng luật Một trong những điểm mới của Luật Thương mại năm 2005 là đã xác định rõ ràng vị trí của Luật Thương mại năm 2005 trong hệ thống pháp luật. Cụ thể là, trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 được xác định là luật chuyên ngành, cũn trong mối quan hệ với các luật quy định các hoạt động thương mại đặc thù thì Luật Thương mại năm 2005 được xác định là luật chung.

                  1.4. Hoạt động thương mại của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam Luật Thương mại năm 2005 đã dành hẳn một mục trong Chương I để quy định về quyền, nghĩa vụ của văn phòng đại diện, chi nhánh, doanh nghiệp thương mại có vốn đầu tư nước ngoài và thẩm quyền cấp phép cho các chủ thể này.

                  Luật Thương mại năm 2005 đã thừa nhận những hình thức mới của thương nhân nước ngoài khi hoạt động thương mại tại Việt Nam. Luật Thương mại năm 1997 chỉ quy định về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài hai hình thức trên, Luật Thương mại năm 2005 đã quy định bổ sung hai loại hình doanh nghiệp thương mại có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn của nước ngoài.

                  2. Chương II – Mua bán hàng hoá

                  Chương II gồm 3 mục, bao gồm: các quy định chung đối với hoạt động mua bán hàng hóa; quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa; mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.

                  Về các quy định chung đối với hoạt động mua bán hàng hóa, những quy định về vấn đề này trong Luật Thương mại năm 2005 có nhiều điểm mới so với Luật Thương mại năm 1997. Theo đó, Luật đưa ra những quy định áp dụng đối với hoạt động mua bán hàng hóa trong nước và hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Luật cũng đưa ra quy định về việc áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp của Nhà nước phù hợp với các chuẩn mực của WTO. Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ các phương thức hoạt động xuất nhập khẩu, ghi nhãn hàng hóa và xuất xứ hàng hóa.

                  Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa,Luật Thương mại năm 2005 quy định quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa trên cơ sở kế thừa những quy định về mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại năm 1997, tham khảo Công ước Viên năm 1980 và tập quán, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa để xây dựng được quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp nhất với điều kiện thực tế của Việt Nam.

                  Đối với những vấn đề chung về hợp đồng trước đây có trong Luật Thương mại năm 1997 nhưng nay đã được Bộ Luật Dân sự năm 2005 điều chỉnh như nội dung chủ yếu của hợp đồng, chào hàng và chấp nhận chào hàng, sửa đổi, bổ sung chào hàng…thì Luật Thương mại năm 2005 không quy định để bảo đảm tính hệ thống và sự phù hợp với Bộ Luật Dân sự năm 2005.

                  Về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa,Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra những quy định khung cho hoạt động này. Những quy định cụ thể sẽ được Chính phủ ban hành phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

                  Hàng hóa theo Luật Thương mại năm 2005 bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai. Như vậy có thể nói khái niệm hàng hoá trong Luật Thương mại năm 2005 đã có tính khái quát cao trong hệ thống pháp luật hiện hành.

                  Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Vì hàng hóa vừa có thể là tài sản được dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh, vừa có thể là hàng tiêu dùng, cho nên chủ thể của các quan hệ mua bán hàng hoá thường là thương nhân hoặc giữa một bên là thương nhân và các bên khác là người tiêu dùng.

                  2.1. Sửa đổi, bổ sung trong Mục 1: Những quy định chung về mua bán hàng hoá trong Luật Thương mại năm 2005 có sự bổ sung lớn so với Luật Thương mại năm 1997, thể hiện qua các điểm cơ bản như sau:

                  Về hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện: Luật đã quy định cơ sở để quản lý việc lưu thông hàng hoá trên thị trường. Về cơ bản, hàng hoá lưu thông trên thị trường thuộc về một trong 4 hình thức sau đây: tự do kinh doanh, cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Căn cứ vào điều kiện kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Luật giao Chính phủ quy định những điều kiện để quản lý hàng hoá lưu thông trên thị trường.

                  Về hoạt động mua bán hàng hóa trong nước: Luật quy định thương nhân được mua bán tất cả các loại hàng hóa trừ hàng hóa cấm kinh doanh; đối với hàng hóa hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thì khi kinh doanh, thương nhân phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định. Về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế: Luật khẳng định quyền hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của mọi thương nhân đối với mọi hàng hóa, trừ những mặt hàng pháp luật cấm xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào điều kiện kinh tế – xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ sẽ có quy định cụ thể về những hàng hóa thuộc diện cấm xuất nhập khẩu. Đối với những mặt hàng cần thực hiện việc quản lý xuất nhập khẩu theo giấy phép thì thủ tục cấp phép phải đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch theo Hiệp định cấp giấy phép xuất nhập khẩu của WTO.

                  Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp trong lưu thông hàng hoá trong nước: Đây là điểm mới so với Luật Thương mại năm 1997. Luật đã quy định rõ ràng các biện pháp khẩn cấp bao gồm: thu hồi hàng hóa, cấm lưu thông, tạm ngừng lưu thông, lưu thông có điều kiện hoặc phải có giấy phép. Luật cũng đồng thời quy định rõ ràng cơ sở để áp dụng các biện pháp khẩn cấp này, đó là khi hàng hoá là nguồn gốc hoặc phương tiện lây truyền các loại dịch bệnh hoặc khi xảy ra tình trạng khẩn cấp.

                  Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp trong mua bán hàng hóa quốc tế: Đây cũng là điểm mới so với Luật Thương mại năm 1997. Như chúng ta đã biết thời gian qua, hoạt động ngoại thương của chúng ta đã bị ảnh hưởng đáng kể do các biện pháp phi thuế của nước ngoài. Trong điều kiện chúng ta đang đàm phán gia nhập WTO, việc Luật Thương mại năm 2005 quy định cơ sở pháp lý để Thủ tướng Chính phủ áp dụng biện pháp khẩn cấp trong thương mại quốc tế là rất cần thiết để hạn chế các tác hại tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

                  Ngoài ra, Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung một số chế định để làm rõ các phương thức của hoạt động xuất nhập khẩu và bổ sung quy định mang tính nguyên tắc đối với nhãn hàng hóa và xuất xứ hàng hóa làm cơ sở pháp lý cho Chính phủ quy định chi tiết thi hành nhằm nõng cao hiệu lực pháp lý cho việc thực hiện trên thực tế.

                  2.2. Sửa đổi, bổ sung trong Mục 2: Một số nội dung cơ bản mới được sửa đổi, bổ sung trong mục này là:

                  Chuyển rủi ro và chuyển quyền sở hữu: Luật Thương mại bổ sung các quy định về chuyển rủi ro trong các trường hợp cụ thể sau: + Có địa điểm giao hàng xác định thì rủi ro về mất mỏt hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho bên mua hoặc người được bên mua uỷ quyền đã nhận hàng tại địa điểm đó, kể cả trong trường hợp bên bán được uỷ quyền giữ lại các chứng từ xác lập quyền sở hữu đối với hàng hoá. (Điều 57) + Không có địa điểm giao hàng xác định thì rủi ro về mất mỏt hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho người vận chuyển đầu tiên. (Điều 58) + Nếu hàng hóa đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là người vận chuyển thì rủi ro về mất mỏt hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua thuộc một trong các trường hợp (i) khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hoá hoặc (ii) khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hoá của bên mua. (Điều 59) + Nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hoá đang trên đường vận chuyển thì rủi ro về mất mỏt hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm giao kết hợp đồng. (Điều 60) + Nếu không thuộc một trong các trường hợp được nêu trên thì rủi ro về mất mỏt hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng với điều kiện hàng hoá được xác định rõ ràng bằng ký mó hiệu, chứng từ vận tải và được thông báo cho bên mua. (Điều 61)

                  Nghĩa vụ của bên mua: Luật Thương mại sửa đổi, bổ sung các quy định về địa điểm thanh toán (Điều 54), thời hạn thanh toán trong trường hợp các bên không có thỏa thuận (Điều 55); và nghĩa vụ nhận hàng (Điều 56) và thực hiện những công việc hợp lý của bên mua để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho bên bán. Đây là sự thay đổi rất quan trọng dựa trên một nguyên tắc chung của “tính hợp lý” – nguyờn tắc cơ bản nhất để xác định nghĩa vụ của các bên trong các giao dịch thương mại. Thực tế thương mại cho thấy, không phải lúc nào, các nội dung mang tính bắt buộc phải có trong hợp đồng được quy định của Luật Thương mại năm 1997 như thời hạn giao hàng, địa điểm giao hàng, giá cả, thời hạn, địa điểm thanh toán đều được các bên thoả thuận cụ thể. Trong trường hợp các bên trong hợp đồng không có thoả thuận hoặc thoả thuận không rõ về thời hạn giao hàng thì pháp luật buộc phải quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện hợp đồng.

                  2.3. Sửa đổi, bổ sung trong Mục 3: Vấn đề mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hoá được quy định tại Mục 3 (từ Điều 63 đến Điều 73). Đây là một chế định hoàn toàn mới của Luật Thương mại năm 2005 so với Luật Thương mại năm 1997.

                  Luật Thương mại đưa ra những quy định mang tính cơ bản nhất đối với hoạt động này để làm cơ sở cho sự phát triển của hoạt động này trong tương lai. Các quy định của mục này đã nêu bật các đặc điểm cơ bản sau:

                  Thứ nhất, các khuôn khổ pháp lý được ghi nhận trong Luật Thương mại không phải là sự “ép buộc” hình thành nên các thị trường kỳ hạn mà là sự “hỗ trợ bằng hành lang pháp lý” cho sự phỏt triển và hình thành các thị trường này.

                  Thứ hai, việc tạo dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa không chỉ được xử lý bởi các quy định của Luật Thương mại mà sẽ phải được xử lý đồng bộ với các văn bản qui phạm pháp luật khác.

                  Thứ tư, Luật Thương mại khuyến khích việc hình thành và phỏt triển của thị trường kỳ hạn, tuy nhiên, vẫn đảm bảo quản lý một cách chặt chẽ các hoạt động này.

                  Thứ năm, Luật Thương mại thừa nhận và khẳng định quyền của thương nhân trong việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài.

                  3. Chương III – Cung ứng dịch vụ

                  Chương này gồm 2 mục, bao gồm các quy định chung đối với hoạt động cung ứng dịch vụ và các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ.

                  Về các quy định chung đối với hoạt động cung ứng dịch vụ, Luật đưa ra quy định về dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện làm cơ sở quản lý nhà nước về thương mại dịch vụ trong nước điều mà cho đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào xử lý một cách tổng thể. Song song với điều này, Luật cũng đã có những quy định cơ bản về quyền cung ứng và quyền sử dụng dịch vụ của thương nhân được xây dựng trên cơ sở những phương thức cung ứng dịch vụ phù hợp với quy định về thương mại dịch vụ của BTA và WTO.

                  Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ, ngoài việc quy định chung về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ và khách hàng, Luật cũn đưa ra các quy định đặc thù về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ tựy theo tính chất của loại dịch vụ là dịch vụ theo kết quả công việc hay dịch vụ theo nỗ lực cao nhất của bên cung ứng dịch vụ.

                  Cùng với việc mở rộng khái niệm thương mại bao hàm mọi hoạt động sinh lợi, trong đó có dịch vụ, Luật Thương mại đã có một mục riêng quy định về vấn đề cung ứng dịch vụ.

                  Luật Thương mại không thể quy định cụ thể về tất cả các loại dịch vụ mà chỉ có thể quy định khung chung về thương mại dịch vụ mà thôi. Những dịch vụ khác trước hết phải tuân thủ quy định của luật chuyên ngành. Những dịch vụ như dịch vụ lao động, dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch vụ đào tạo, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải…đều có luật chuyên ngành điều chỉnh như Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, những quy định về dịch vụ tư vấn pháp lý, Luật Bảo hiểm, Luật các Tổ chức tín dụng…

                  4. Chương IV – Xúc tiến thương mại 

                  4.1. Khuyến mại  Những thay đổi chủ yếu của quy định về khuyến mại trong Luật Thương mại năm 2005 so với Luật Thương mại năm 1997 gồm:

                  – Bổ sung quy định cụ thể quyền thực hiện khuyến mại của thương nhân (Điều 91). Về cơ bản, mọi thương nhân đều có quyền thực hiện khuyến mại, trừ Văn phòng đại diện của thương nhân do hoạt động khuyến mại gắn liền với việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ nhưng Văn phòng đại diện lại không thể tiến hành hoạt động này vì không được kinh doanh sinh lời trực tiếp.

                  – Một số hình thức khuyến mại cũng đã được bổ sung theo hướng khái quát hoá những hình thức có đặc điểm chung (như các chương trình mang tính may rủi) và bổ sung một số hình thức khuyến mại mà các thương nhân đã tiến hành trên thực tế nhưng chưa có quy định của pháp luật điều chỉnh (Điều 92).

                  – Quy định cụ thể về hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại (Điều 93) và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại (Điều 94). Trong đó, Luật đã bổ sung quy định về việc không cho phép hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh được khuyến mại hoặc được dùng để khuyến mại. Luật cũng có quy định hạn chế về mức giá trị tối đa của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại và mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ khuyến mại nhằm chống việc lợi dụng khuyến mại để bán phá giá hàng hóa, dịch vụ .

                  Những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu gồm:

                  4.3. Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ  Một số nội dung được sửa đổi, bổ sung trong mục này gồm: – Quy định cụ thể về quyền trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ. Theo đó mọi thương nhân và chi nhánh thương nhân đều có quyền trực tiếp tổ chức trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh (Điều 118). Riêng Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp thực hiện hoạt động này trừ việc trưng bày giới thiệu tại trụ sở của mình và chỉ được ký hợp đồng thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày thực hiện cho thương nhân mà mình đại diện khi có uỷ quyền. – Bổ sung quy định về cấm trưng bày hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác để so sánh với hàng hóa, dịch vụ của mình (Điều 123). Tuy nhiên, Luật cho phép trưng bày so sánh nếu hàng hóa của thương nhân khác là hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.

                  4.4. Hội chợ, triển lãm thương mại  – Bói bỏ sự phõn biệt khái niệm về hội chợ thương mại và triển lãm thương mại do trên thực tế cũng như quy định của pháp luật có thể phân biệt được hai hoạt động này (Điều 129). – Bổ sung các quy định quản lý đối với việc tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (Điều 132-133). – Bổ sung quy định về hàng hóa, dịch vụ tham gia hội chợ, triển lãm thương mại và việc bán, tặng hàng hóa, dịch vụ đó trong và sau hội chợ, triển lãm thương mại (Điều 136-137).

                  5. Chương V – Các hoạt động trung gian thương mại  Chương này gồm 4 mục, quy định về đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; ủy thác mua bán hàng hóa; đại lý thương mại. Các điều khoản của Chương này kế thừa nhiều nội dung của Luật Thương mại năm 1997, có bổ sung một số điểm phù hợp với thông lệ quốc tế như quyền đũi bồi thường của bên đại lý trong trường hợp bên giao đại lý đơn phương yêu cầu chấm dứt hợp đồng đại lý.

                  5.1. Đại diện cho thương nhân  Trong chế định này không có nhiều sửa đổi, bổ sung. Luật vẫn quy định khá cụ thể về hợp đồng đại diện (Điều 142), phạm vi đại diện (Điều 143), thời hạn đại diện (Điều 144), quyền hưởng thù lao đại diện (Điều 147), quyền cầm giữ (Điều 149), nghĩa vụ của bên đại diện (Điều 145) và nghĩa vụ của bên giao đại diện (Điều 146). Các quy định này thực chất là thừa nhận quy tắc xử sự giữa các thương nhân. Đây là một trong những lĩnh vực thể hiện tính chất tư của Luật Thương mại một cách rất rõ rệt.

                  5.2. Môi giới thương mại 

                  5.3. Uỷ thác mua bán hàng hóa  Chế định này sửa đổi không nhiều. Luật vẫn quy định về bên nhận uỷ thác (Điều 156), bên uỷ thác (Điều 157), hàng hoá uỷ thác (Điều 158), hợp đồng uỷ thác (Điều 159), quyền và nghĩa vụ của bên uỷ thác (Điều 162-163), quyền và nghĩa vụ của bên nhận uỷ thác (Điều 164-165). Cũng như hai chế định trên, chế định uỷ thác mua bán hàng hoá cũng là việc thừa nhận các quy tắc xử sự giữa các thương nhân. Đây cũng là lĩnh vực thể hiện tính chất tư của Luật Thương mại rất rõ rệt.

                  5.4. Đại lý thương mại  Những nội dung sửa đổi, bổ sung chính về đại lý thương mại trong Luật Thương mại năm 2005 so với Luật Thương mại 1997 gồm: – Bổ sung quy định về quyền của bên đại lý trong việc ký kết hợp đồng đại lý, theo đó bên đại lý có quyền ký kết hợp đồng đại lý với nhiều bên giao đại lý trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật (Điều 174). Việc bổ sung quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay. – Bổ sung quy định về thời hạn đại lý với quan điểm bảo vệ quyền lợi của bên đại lý trong trường hợp bên giao đại lý chấm dứt hợp đồng đại lý (Điều 177). Trên thực tế, bên đại lý khi làm đại lý thương mại phải đầu tư ban đầu về nhân lực, vật lực để mở thị trường cho hàng hóa, dịch vụ của bên giao đại lý. Vì vậy, trong trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn đại lý chỉ được chấm dứt sau một thời gian hợp lý kể từ khi một trong hai bên đề nghị chấm dứt hợp đồng đại lý. Trường hợp bên giao đại lý đề nghị chấm dứt hợp đồng thì bên giao đại lý phải bồi thường cho bên đại lý một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

                  6. Chương VI – Một số hoạt động thương mại cụ thể khác  Chương này gồm 8 mục, quy định về gia công trong thương mại; đấu giá hàng hóa; đấu thầu hàng hóa, dịch vụ; dịch vụ logistics; quỏ cảnh hàng hóa qua lónh thổ Việt Nam và dịch vụ quỏ cảnh hàng hóa; dịch vụ giỏm định; cho thuê hàng hóa và nhượng quyền thương mại.

                  6.1. Gia công trong thương mại  Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao. Luật Thương mại năm 2005 sửa đổi không nhiều vào chế định này. Luật vẫn quy định về hàng hoá gia công (Điều 180); quyền và nghĩa vụ của bên đặt gia công (Điều 181); quyền và nghĩa vụ của bên nhận gia công (Điều 182); thù lao gia công (Điều 183) và chuyển giao công nghệ trong gia công với tổ chức, cá nhân nước ngoài (Điều 184).

                  6.2. Đấu giá hàng hoá Đấu giá hàng hoá là hình thức công khai để chọn người mua. Trong tiến trình đấu giá, những người muốn mua tham gia trả giá theo một thủ tục nhất định, người trả giá cao nhất là người được mua tài sản bán đấu giá.

                  6.3. Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ  Luật Thương mại năm 1997 có 22 điều quy định về đấu thầu hàng hóa. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về đấu thầu trong Luật Thương mại năm 2005 gồm những nội dung chính sau:

                  Thứ nhất, mở rộng khái niệm đấu thầu trong thương mại bao gồm đấu thầu hàng hóa và đấu thầu dịch vụ (Điều 214).

                  Thứ hai, xác định rõ những hoạt động đấu thầu trong mua sắm có sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc có nguồn gốc từ Nhà nước (bao gồm mua sắm công, mua sắm của doanh nghiệp nhà nước) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.

                  Thứ ba, do quy định về đấu thầu trong hoạt động thương mại chủ yếu là do thương nhân thực hiện và không áp dụng cho hoạt động đấu thầu trong mua sắm sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc có nguồn gốc Nhà nước, vì vậy những quy định về đấu thầu trong Luật được xây dựng theo nguyên tắc tăng cường quyền tự chủ của thương nhân và đơn giản hóa các quy định về thủ tục, giấy tờ phải thực hiện trong quá trình đấu thầu.

                  Khác với mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ nói chung, đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là một tiến trình mua hàng hóa, dịch vụ theo một quy chế riờng biệt nhằm chọn lựa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo những yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ, giỏ cả và những yêu cầu khác của bên mua hàng. Nói một cách khác, đấu thầu là một quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu về giá cả, điều kiện kinh tế- kỹ thuật do bên mời thầu đặt ra trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu.

                  6.4. Dịch vụ logistics  Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bói, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bỡ, ghi ký mó hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liờn quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-stớc. So với 9 điều được quy định trong Luật Thương mại năm 1997 thì về cơ bản, Luật Thương mại năm 2005 không có thay đổi nhiều nhưng về nội dung thì có sự thay đổi đáng lưu ý sau: đổi tờn của Mục là dịch vụ logistic và mở rộng khái niệm giao nhận hàng hóa tương đương với khái niệm dịch vụ “logistics”. Khái niệm này đã được thừa nhận rộng rói trong thương mại quốc tế, trong đó giao nhận chỉ là một khâu của dịch vụ này.

                  6.5. Quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh hàng hóa  Quá cảnh hàng hóa qua lónh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh hàng hóa được quy định tại Mục 5 là một hoạt động thương mại mới được bổ sung vào Luật Thương mại trên cơ sở luật hóa những quy định về quá cảnh hàng hóa hiện hành và phù hợp với nguyên tắc của WTO (Điều 5 GATT 1994). Một số quy định cơ bản trong Luật gồm: – Khẳng định quyền tự do quá cảnh trong hoạt động thương mại quốc tế. Tất cả hàng hoá mà nhà nước không cấm của tổ chức, cá nhân nước ngoài đều được quá cảnh lónh thổ Việt Nam (trừ trường hợp được Bộ trưởng Bộ Thương mại cho phép) và hàng hoá đó chỉ cần làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập khẩu và cửa khẩu xuất khẩu. Nhưng tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn quá cảnh hàng hoá qua lónh thổ Việt Nam phải thuờ thương nhân Việt Nam kinh doanh dịch vụ quá cảnh thực hiện. – Đưa ra một số quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc cung ứng dịch vụ quá cảnh hàng hoá.

                  6.6. Dịch vụ giám định  Nội dung của Mục này cũng có sự thay đổi đáng kể so với những quy định trong Luật Thương mại năm 1997, cụ thể là:

                  Thứ nhất, mở rộng khái niệm giám định không chỉ bao gồm giám định hàng hóa mà cũn gồm cả giỏm định dịch vụ (Điều 254). Nội dung giám định được xác định cụ thể trong Luật để tạo điều kiện cho việc áp dụng (Điều 255).

                  Thứ hai, một số quy định được bổ sung nhằm tăng cường năng lực của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại để nâng cao chất lượng của hoạt động này trên thị trường. Do đó, Luật đã bổ sung những quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định thương mại (Điều 257), phạm vi kinh doanh dịch vụ giám định thương mại (Điều 258), tiêu chuẩn giám định viên (Điều 259).

                  Thứ ba, nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định đối với kết quả giám định do mình thực hiện cũng được quy định vừa thông thoáng hơn, vừa chặt chẽ hơn bằng việc bổ sung các quy định về giá trị của chứng thư giám định, quyền và nghĩa vụ của khách hàng. Nghĩa vụ chịu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả giám định sai đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tính chất của hoạt động giám định nhưng cũng tăng cường trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định đối với khách hàng trong trường hợp cố ý giám định sai (Điều 266).

                  6.7. Cho thuê hàng hóa  Đây là hoạt động thương mại được bổ sung mới vào Luật Thương mại năm 2005. Thực tế hoạt động thương mại hiện nay cho thấy, cho thuê hàng hóa là một hoạt động diễn ra ngày càng phổ biến nhưng pháp luật thương mại hiện hành lại chưa có quy định cụ thể điều chỉnh với tính chất là một hoạt động thương mại. Bộ luật dân sự năm 2005 cũng chỉ đưa ra những quy định chung về hợp đồng cho thuê tài sản và chưa đủ để điều chỉnh hoạt động cho thuê hàng hóa trên thị trường, vì nguyờn tắc của Bộ luật dõn sự năm 2005 là chỉ quy định những vấn đề chung về hợp đồng cũng những hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ do luật chuyên ngành điều chỉnh.

                  Do đó, Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung quy định về hoạt động cho thuê hàng hóa với 15 điều. Những quy định về cho thuê hàng hoá này là khá tương đồng với các quy định tại Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC), và Luật Hợp đồng Trung Quốc. Đây là những quy định được đánh giá là khá chuẩn mực về hoạt động thương mại này.

                  6. 8. Nhượng quyền thương mại  Hoạt động nhượng quyền thương mại được quy định tại Mục 8 Chương VI Luật Thương mại năm 2005, bao gồm các nội dung cơ bản như khái niệm về nhượng quyền thương mại (Điều 284); hợp đồng nhượng quyền thương mại (Điều 285); quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nhượng quyền (Điều 286 – 289); nhượng quyền lại cho bên thứ ba (Điều 290); đăng ký nhượng quyền thương mại (Điều 291).

                  Với các nội dung như trên, Luật Thương mại năm 2005 chỉ mới quy định ở mức độ hết sức cơ bản về hoạt động nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, những quy định này là hết sức cần thiết để Chính phủ có cơ sở quy định chi tiết về trách nhiệm cung cấp thông tin và thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.

                  7. Chương VII – Chế tài trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại  Chương này gồm 2 mục, quy định về chế tài trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại. So với Luật Thương mại năm 1997, phần chế tài trong Luật Thương mại năm 2005 được bổ sung thêm hai loại chế tài là tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng. Các chế tài như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy hợp đồng chỉ áp dụng đối với vi phạm cơ bản. Mối quan hệ giữa các chế tài cũng được xác định rõ để tạo thuận lợi cho việc áp dụng.

                  7.1. Chế tài trong thương mại  Điểm mới khá quan trọng trong phần này là việc chia hành vi vi phạm hợp đồng làm hai loại, vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản. Việc đưa ra khái niệm về hai loại vi phạm này là cơ sở quan trọng để quyết định việc áp dụng các chế tài trong thương mại. Việc bổ sung này là phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế và thực tiễn hoạt động thương mại của Việt Nam

                  Luật Thương mại năm 1997 chỉ quy định về các hình thức chế tài sau: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, huỷ hợp đồng. Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung hai chế tài mới là tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng và điều quan trọng nhất là Luật Thương mại năm 2005 đã thừa nhận các biện pháp chế tài khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hũa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. Mối quan hệ giữa các chế tài cũng được xác định rõ để tạo thuận lợi cho việc áp dụng.

                  7.2. Giải quyết tranh chấp trong thương mại  Về cơ bản, Luật Thương mại năm 2005 giữ nguyên các quy định của Luật Thương mại năm 1997, có sửa đổi một số nội dung cho phù hợp với thực tiễn.

                  8. Chương VIII – Xử lý vi phạm pháp luật về thương mại Chương này quy định về hành vi vi phạm pháp luật về thương mại, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, việc thi hành quyết định xử phạt hành chính và giải quyết khiếu nại quyết định xử phạt hành chính. Những nội dung cụ thể về xử lý vi phạm trong hoạt động thương mại sẽ được các văn bản dưới Luật quy định chi tiết phù hợp với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.

                  9. Chương IX – Điều khoản thi hành Chương này chỉ có hai điều, quy định về hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành Luật Thương mại năm 2005. Theo đó, Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 và thay thế Luật thương mại ngày 10 tháng 5 năm 1997. Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật.

                  SOURCE: http://vibonline.com.vn/vi-VN/Home/PreLawDetail.aspx?PreLawID=58

                  Những Nội Dung Cơ Bản Của Luật Du Lịch Năm 2022

                  Luật Du lịch năm 2017 có 09 chương, 78 điều, giảm 2 chương, 10 điều so với Luật Du lịch năm 2005 với nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung nhằm thúc đẩy du lịch phát triển; nâng cao chất lượng hoạt động du lịch; tạo điều kiện thuận lợi, môi trường cạnh tranh lành mạnh cho doanh nghiệp du lịch; tăng cường tính chuyên nghiệp của hoạt động hướng dẫn; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách du lịch, cụ thể:

                  – Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)

                  – Về đối tượng áp dụng (Điều 2)

                  Điều này sửa đổi Điều 2 Luật Du lịch năm 2005, sắp xếp lại quy định về đối tượng áp dụng, bổ sung quy định về hoạt động du lịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động du lịch ở nước ngoài. Việc sửa đổi bổ sung điều này để phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế về du lịch và đáp ứng thực tế ngày càng có nhiều người Việt Nam ra nước ngoài du lịch.

                  – Về giải thích từ ngữ (Điều 3)

                  Điều này sửa đổi nội dung giải thích các từ ngữ: Du lịch, Khách du lịch, tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, chương trình du lịch, hướng dẫn du lịch, cơ sở lưu trú du lịch, xúc tiến du lịch, du lịch bền vững, du lịch sinh thái, môi trường du lịch, du lịch văn hóa. Nội dung giải thích từ ngữ này được sửa đổi để đảm bảo sự rõ ràng, chính xác và phù hợp với quy định của Tổ chức du lịch thế giới, thông lệ quốc tế, tạo sự dễ hiểu, minh bạch khi thực hiện.

                  Bỏ giải thích các từ ngữ: Tham quan, đô thị du lịch, tuyến du lịch, dịch vụ du lịch, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, phương tiện chuyên vận chuyển khách du lịch, lữ hành. Những từ ngữ này không được đưa vào phần quy định ở những chương kế tiếp hoặc trong quá trình thi hành Luật những từ ngữ này được đa số chủ thể hiểu thống nhất, không sai lệch.

                  Bổ sung giải thích các từ ngữ: Hướng dẫn viên du lịch, du lịch cộng đồng vì những từ ngữ này phát sinh trong quá trình thi hành Luật cần được giải thích để các chủ thể hiểu, thống nhất áp dụng. Theo đó, Hướng dẫn viên du lịch là người được cấp thẻ để hành nghề hướng dẫn du lịch; du lịch cộng đồng là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi.

                  – Về nguyên tắc phát triển du lịch (Điều 4)

                  Điều này xây dựng trên cơ sở Điều 5 Luật Du lịch năm 2005, từ 6 khoản được thiết kế thành 5 khoản nhưng được viết khái quát hơn thể hiện các quan điểm, định hướng phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước thành các nguyên tắc, theo đó, nguyên tắc phát triển du lịch được quy định như sau: (1). Phát triển du lịch bền vững, theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm. (2). Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường liên kết vùng. (3). Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. (4). Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch. (5). Phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế; tôn trọng và đối xử bình đẳng đối với khách du lịch.

                  – Về chính sách phát triển du lịch (Điều 5)

                  Điều 5 Luật Du lịch năm 2017 sửa đổ, bổ sung Điều 6 Luật Du lịch năm 2005, theo đó loại bỏ những chính sách phát triển du lịch không còn phù hợp, không tương thích với quy định của Luật Đầu tư 2014 như: Chính sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài chính, tín dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vào một số lĩnh vực. Đồng thời quy định Nhà nước ưu tiên bố trí kinh phí cho các hoạt động Điều tra, đánh giá, bảo vệ, tôn tạo, phát triển giá trị tài nguyên du lịch; lập quy hoạch về du lịch; xúc tiến du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia, địa phương; xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các hoạt động: Đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ du lịch chất lượng cao; nghiên cứu, định hướng phát triển sản phẩm du lịch; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch; đầu tư phát triển sản phẩm du lịch mới có tác động tích cực tới môi trường, thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư; đầu tư phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa và sản phẩm du lịch đặc thù khác; ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch; phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch; sử dụng nhân lực du lịch tại địa phương; đầu tư hình thành khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn; hệ thống cửa hàng miễn thuế, trung tâm mua sắm phục vụ khách du lịch.

                  – Về sự tham gia của cộng đồng dân cư trong phát triển du lịch (Điều 6)

                  Trên cơ sở nội dung cơ bản quy định tại Điều 7 Luật Du lịch năm 2005, Điều 6 Luật Du lịch năm 2017 quy định theo nhóm quyền và nghĩa vụ, đồng thời, chỉnh từ ngữ cho rõ nghĩa, bảo đảm rõ ràng và chính xác hơn.

                  Luật Du lịch năm 2017 bổ sung điều quy định về tổ chức xã hội – nghề nghiệp về du lịch, cụ thể như sau: (1). Tổ chức xã hội – nghề nghiệp về du lịch được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về hội. (2). Tổ chức xã hội – nghề nghiệp về du lịch có trách nhiệm sau đây: tuân thủ pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên; tham gia xây dựng, phổ biến, giáo dục, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật, chính sách về du lịch; tham gia xúc tiến du lịch, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về du lịch; đánh giá, tư vấn, thẩm định tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, chất lượng dịch vụ cho doanh nghiệp và lao động trong ngành du lịch; xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh cho các hội viên; huy động các nguồn lực xã hội để triển khai hoạt động du lịch theo quy định của pháp luật; tổ chức triển khai việc thực hiện quy tắc đạo đức nghề nghiệp, vận động hội viên kinh doanh du lịch bảo đảm chất lượng dịch vụ; phát hiện và kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về du lịch, bảo vệ môi trường.

                  – Về bảo vệ môi trường du lịch (Điều 8)

                  Điều này xây dựng trên cơ sở kế thừa Điều 9 Luật Du lịch năm 2005, tuy nhiên có chỉnh lý từ ngữ cho rõ nghĩa và chính xác hơn, theo đó Điều 8 Luật Du lịch năm 2017 quy định như sau: (1). Môi trường du lịch phải được bảo vệ, tôn tạo và phát triển theo hướng xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn, lành mạnh và văn minh. (2). Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, ban hành quy định nhằm bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch. (3). Chính quyền địa phương các cấp có biện pháp bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch phù hợp với thực tế của địa phương. (4). Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách nhiệm thu gom, xử lý các loại chất thải phát sinh trong hoạt động kinh doanh; khắc phục tác động tiêu cực do hoạt động của mình gây ra đối với môi trường; có biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội trong hoạt động kinh doanh của mình. (5). Khách du lịch, cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn cảnh quan, môi trường, bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán của dân tộc; có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người và du lịch Việt Nam.

                  – Về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động du lịch (Điều 9)

                  – Luật Du lịch năm 2017 bỏ quy định về áp dụng pháp luật về du lịch quy định tại Điều 3 Luật Du lịch năm 2005 vì nội dung này đã được quy định trong Luật Điều ước quốc tế 2016.

                  Quy định về khách du lịch được chuyển từ Chương V Luật Du lịch năm 2005 lên Chương II Luật Du lịch năm 2017 thể hiện tính nhân văn của hệ thống pháp luật Nhà nước ta đối với hoạt động du lịch – ngành kinh tế phục vụ con người, vì vậy quy định về khách du lịch được đặt ở vị trí quan trọng trong Luật.

                  – Về các loại khách du lịch (Điều 10)

                  Điều này sửa đổi, bổ sung trên cơ sở quy định tại Điều 34 Luật Du lịch năm 2005, tuy nhiên nếu Luật Du lịch năm 2005 chỉ quy định Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế thì Luật Du lịch năm 2017 đã tách khách du lịch quốc tế thành 02 loại là khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài, theo đó, Luật Du lịch năm 2017 quy định 03 loại khách du lịch gồm khách du lịch nội địa, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài. Việc sửa đổi như trên làm cơ sở cho việc đảm bảo sự bình đẳng, không phân biệt đối xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách, đồng thời làm cơ sở phân loại, quản lý hoạt động kinh doanh lữ hành, hành nghề hướng dẫn du lịch và phục vụ công tác thống kê.

                  – Về quyền của khách du lịch (Điều 11), nghĩa vụ của khách du lịch (Điều 12), bảo đảm an toàn cho khách du lịch (Điều 13) về cơ bản giữ nguyên các nội dung được quy định tại các Điều 35, 36, 37 Luật Du lịch năm 2005, tuy nhiên chỉnh lý từ ngữ cho rõ nghĩa và chính xác hơn.

                  – Về giải quyết kiến nghị của khách du lịch (Điều 14)

                  Điều này xây dựng trên cơ sở Điều 86 Luật Du lịch 2005, đưa về cùng nhóm quan hệ xã hội được điều chỉnh trong Luật Du lịch năm 2017. Luật Du lịch năm 2017 sửa đổi bổ sung theo hướng đã phân công trách nhiệm cho cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết kịp thời kiến nghị của khách du lịch cụ thể như sau: (1). Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, quản lý khu du lịch, điểm du lịch tổ chức tiếp nhận và giải quyết kịp thời kiến nghị của khách du lịch trong phạm vi quản lý; (2). Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức tiếp nhận, giải quyết kiến nghị của khách du lịch trên địa bàn. (3). Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tiếp nhận, giải quyết hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kiến nghị của khách du lịch.

                  Tài nguyên du lịch, phát triển sản phẩm du lịch và quy hoạch về du lịch (Chương III)

                  – Về các loại tài nguyên du lịch (Điều 15)

                  Điều này xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định của Điều 13 Luật Du lịch năm 2005, được cơ cấu lại rõ hơn về 02 loại tài nguyên du lịch gồm: Tài nguyên du lịch tự nhiên và Tài nguyên du lịch văn hóa đồng thời bỏ quy định không phù hợp về sở hữu tài nguyên du lịch quy định “Tài nguyên du lịch có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân” tại khoản 2 Điều 13 Luật Du lịch năm 2005.

                  – Về điều tra tài nguyên du lịch (Điều 16)

                  Điều này xây dựng trên cơ sở Điều 14 Du lịch năm 2005, chỉnh lý từ ngữ bảo đảm rõ nghĩa và chính xác hơn đồng thời bổ sung nội dung giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.

                  – Về trách nhiệm quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch (Điều 17).

                  Kế thừa các quy định tại Điều 16 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 bổ sung nội dung khẳng định Nhà nước có chính sách quản lý, bảo vệ, tôn tạo, khai thác hợp lý, phát huy giá trị tài nguyên du lịch trong phạm vi cả nước để phát triển du lịch bền vững, đồng thời sắp xếp lại quy định rõ hơn về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch cho phù hợp.

                  – Luật Du lịch năm 2017 bỏ nội dung quy định về Nguyên tắc bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch tại Điều 15 Luật Du lịch năm 2005 vì đã được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường.

                  3.2. Phát triển sản phẩm du lịch (mục 2)

                  – Về xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch (Điều 18)

                  Đây là quy định mới của Luật Du lịch năm 2017, quy định riêng về việc xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch, cụ thể như sau: (1). Tổ chức, cá nhân có quyền sáng tạo, phát triển, kinh doanh các sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và phù hợp với quy định của pháp luật. (2). Chính phủ có chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm du lịch chủ đạo đối với từng vùng và trong phạm vi toàn quốc theo từng giai đoạn, đáp ứng nhu cầu của thị trường trên cơ sở đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch. (3). Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm an toàn cho khách du lịch đối với những sản phẩm du lịch có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của khách du lịch.

                  – Về phát triển du lịch cộng đồng (Điều 19)

                  Đây là quy định mới của Luật Du lịch 2017, quy định về phát triển du lịch cộng đồng, cụ thể như sau: (1). Cá nhân, hộ gia đình nơi phát triển du lịch cộng đồng được ưu đãi, khuyến khích cung cấp dịch vụ lưu trú, ăn uống; hướng dẫn khách du lịch tham quan, trải nghiệm văn hóa, nếp sống tại cộng đồng; sản xuất hàng hóa, hàng thủ công truyền thống và các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch. (2). Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức nghiên cứu, khảo sát, lựa chọn địa điểm có tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng; có chính sách hỗ trợ về trang thiết bị cần thiết ban đầu và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng phục vụ khách du lịch cho cá nhân, hộ gia đình trong cộng đồng tham gia cung cấp dịch vụ du lịch; hỗ trợ xúc tiến sản phẩm du lịch cộng đồng. (3). Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát triển du lịch cộng đồng tổ chức tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của cộng đồng; chủ trì xây dựng cam kết của cộng đồng nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo vệ môi trường, ứng xử văn minh đối với khách du lịch. (4). Tổ chức, cá nhân khai thác, phát triển du lịch cộng đồng có trách nhiệm tôn trọng văn hóa, nếp sống và chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch với cộng đồng.

                  3.2. Quy hoạch về du lịch (mục 3)

                  Về nguyên tắc lập quy hoạch về du lịch (Điều 20) và nội dung quy hoạch về du lịch (Điều 21) được xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định của Điều 18 và Điều 19 Luật Du lịch năm 2005, tuy nhiên có sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung cho phù hợp với Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch và Luật Bảo vệ môi trường.

                  Chương IV Luật Du lịch năm 2017 được xây dựng trên cơ sở Chương IV Luật Du lịch năm 2005, trong quá trình thực hiện các nội dung này của Luật Du lịch năm 2005 có một số khó khăn, bất cập như sau:

                  Việc xác định các tiêu chí đánh giá, xếp loại các khu, điểm du lịch còn mang tính chủ quan, định tính; thiếu các tiêu chí định lượng, do vậy việc xác định ranh giới giữa khu du lịch quốc gia và khu du lịch địa phương, cũng như giữa điểm du lịch quốc gia và điểm du lịch địa phương còn bất cập. Việc phân loại khu, điểm du lịch quốc gia và địa phương đã tạo ra xu thế nhiều tỉnh, thành phố đề nghị nâng cấp các khu, điểm du lịch của mình trở thành khu, điểm du lịch quốc gia.

                  Tuyến du lịch, thực chất là các tuyến giao thông (đường bộ, đường sắt, đường không, đường thủy) nối liền các khu, điểm du lịch. Trong thực tế, việc tiếp cận các khu, điểm du lịch bằng nhiều cách khác nhau, các doanh nghiệp du lịch tổ chức, xây dựng các tuyến du lịch linh hoạt, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Vì vậy, không cần thiết quy định tuyến du lịch trong Luật Du lịch năm 2017. Về đô thị du lịch, hiện nay chưa có tiêu chí đánh giá để công nhận và xếp loại đô thị du lịch, vì vậy việc công nhận, xếp hạng đô thị du lịch trong thực tiễn chưa mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, đô thị nói chung (bao gồm đô thị du lịch) đã được quy định trong Luật Quy hoạch, Luật Đô thị.

                  Với những bất cập và hạn chế nêu trên, Luật Du lịch năm 2017 đã bỏ một số nội dung không còn phù hợp tại một số điều của Luật Du lịch năm 2005, cụ thể: quy định về Khu du lịch địa phương, Tuyến du lịch và Đô thị du lịch. Ngoài ra, kế thừa các quy định của Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 quy định về điều kiện công nhận điểm du lịch tại Điều 23; hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận điểm du lịch tại Điều 24; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân quản lý điểm du lịch tại Điều 25; điều kiện công nhận khu du lịch tại Điều 26; hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận khu du lịch cấp tỉnh tại Điều 27; hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận khu du lịch quốc gia tại Điều 28; quản lý khu du lịch tại Điều 29.

                  So với Chương VI của Luật Du lịch năm 2005 về kinh doanh du lịch, Chương V của Luật Du lịch năm 2017 đã được thiết kế lại, bỏ mục quy định chung về kinh doanh du lịch, theo đó, bỏ Điều 38, Điều 39, Điều 40, Điều 41 Luật Du lịch năm 2005. Chương V Luật Du lịch năm 2017 quy định như sau:

                  5.1. Dịch vụ lữ hành (mục 1)

                  – Về phạm vi kinh doanh dịch vụ lữ hành (Điều 30)

                  Kế thừa các quy định của Điều 43 và Điều 47 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 quy định phạm vi kinh doanh dịch vụ lữ hành như sau: (1). Kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa phục vụ khách du lịch nội địa. (2). Kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế phục vụ khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài. (3). Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế được kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế và dịch vụ lữ hành nội địa, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 30 Luật Du lịch năm 2017. (4). Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế phục vụ khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

                  – Về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành (Điều 31)

                  Trên cơ sở các quy định của Luật Đầu tư, Điều 43 và Điều 46 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa, điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế, chuyên nghiệp hóa hoạt động kinh doanh lữ hành bằng việc quy định về trình độ chuyên môn của người phụ trách hoạt động kinh doanh lữ hành, bỏ quy định doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành phải có hợp đồng lao động với 03 hướng dẫn viên có thẻ vì quy định này trên thực tế chỉ mang tính hình thức, số lượng hướng dẫn viên phụ thuộc vào thị trường, có tính mùa vụ. Luật Du lịch năm 2017 quy định doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện kinh doanh quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Du lịch năm 2017 được cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa; đáp ứng các điều kiện kinh doanh quy định tại khoản 2 Điều 31 Luật Du lịch năm 2017 được cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế. Phí thẩm định cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế, Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa được thực hiện theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí. Ngoài ra Luật Du lịch năm 2017 cũng giao Chính phủ quy định chi tiết về việc ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành quy định tại điểm b khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 31 Luật Du lịch năm 2017; Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết về người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành; nội dung đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức thi, cấp chứng chỉ nghiệp vụ điều hành du lịch nội địa và nghiệp vụ điều hành du lịch quốc tế.

                  – Về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa (Điều 32)

                  So với Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 đã chú trọng hơn đến việc đảm bảo chất lượng dịch vụ du lịch thông qua việc quy định cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa, cụ thể Luật Du lịch năm 2017 quy định: (1). Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa bao gồm: đơn đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định; bản sao có chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Giấy chứng nhận ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành; bản sao có chứng thực quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng lao động giữa doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành với người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành; bản sao có chứng thực văn bằng, chứng chỉ của người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành quy định tại điểm c khoản 1 Điều 31 của Luật. (2). Trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa được quy định như sau: Doanh nghiệp đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa nộp 01 bộ hồ sơ đến cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh nơi doanh nghiệp có trụ sở; Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh thẩm định và cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa cho doanh nghiệp; trường hợp từ chối, phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. (3). Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa.

                  – Về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế (Điều 33)

                  Kế thừa quy định của Điều 48 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 quy định: (1). Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế bao gồm: đơn đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định; bản sao có chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp; giấy chứng nhận ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành; bản sao có chứng thực văn bằng, chứng chỉ của người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành quy định tại điểm c khoản 2 Điều 31 của Luật này; bản sao có chứng thực quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng lao động giữa doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành với người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành. (2). Trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế được quy định như sau: Doanh nghiệp đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế nộp 01 bộ hồ sơ đến Tổng cục Du lịch; trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Tổng cục Du lịch thẩm định, cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế cho doanh nghiệp và thông báo cho cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh nơi doanh nghiệp có trụ sở; trường hợp từ chối, phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. (3). Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế.

                  – Về cấp lại giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành (Điều 34)

                  Luật Du lịch năm 2005 không có quy định về việc cấp lại giấy phép kinh doanh lữ hành. Việc bổ sung nội dung này vào Luật Du lịch năm 2017 để đảm bảo công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp bị mất hoặc hư hỏng giấy phép. Điều này được thiết kế thành 2 khoản, quy định như sau: (1). Doanh nghiệp đề nghị cấp lại giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành trong trường hợp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành bị mất hoặc bị hư hỏng. (2). Trình tự, thủ tục cấp lại giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành được quy định như sau: Doanh nghiệp gửi đơn đề nghị cấp lại giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép; trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép có trách nhiệm cấp lại giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành cho doanh nghiệp; trường hợp từ chối, phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Tổng cục Du lịch thông báo cho cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh nơi doanh nghiệp có trụ sở khi cấp lại Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế.

                  – Về cấp đổi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành (Điều 35)

                  Điều này được xây dựng trên cơ sở Điều 49 Luật Du lịch năm 2005, trong đó điểm mới đáng chú ý nhất là cắt giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính từ 10 ngày làm việc xuống 5 ngày làm việc, cụ thể điểm b khoản 3 Điều 35 Luật Du lịch năm 2017 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép có trách nhiệm cấp đổi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành cho doanh nghiệp; trường hợp từ chối, phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do”.

                  – Về thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành (Điều 36)

                  Điều này được xây dựng mới trên cơ sở quy định của Điều 12, khoản 3 Điều 47 Luật Du lịch năm 2005, thiết kế thành 3 khoản quy định 08 trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành, cụ thể: “1. Doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành trong các trường hợp sau đây: a) Chấm dứt hoạt động kinh doanh dịch vụ lữ hành, giải thể hoặc phá sản; b) Không đáp ứng một trong các điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 31 của Luật này; c) Không đổi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành theo quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật này; d) Làm phương hại đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, quốc phòng, an ninh; đ) Lợi dụng hoạt động du lịch để đưa người từ Việt Nam ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào Việt Nam trái pháp luật; e) Cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh; g) Không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 37 của Luật này, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của khách du lịch; h) Giả mạo hồ sơ đề nghị cấp, cấp đổi, cấp lại giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành. 2. Doanh nghiệp đã bị thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này chỉ được đề nghị cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành sau 06 tháng kể từ ngày quyết định thu hồi giấy phép có hiệu lực. Doanh nghiệp đã bị thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành theo quy định tại các điểm d, đ, e, g và h khoản 1 Điều này chỉ được đề nghị cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành sau 12 tháng kể từ ngày quyết định thu hồi giấy phép có hiệu lực. 3. Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định trình tự, thủ tục thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành”.

                  – Trên cơ sở các kế thừa các quy định của Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 sửa đổi, bổ sung và quy định các nội dung về Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành tại Điều 37; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ lữ hành tại Điều 38; hợp đồng lữ hành tại Điều 39; kinh doanh đại lý lữ hành tại Điều 40; hợp đồng đại lý lữ hành tại Điều 41; trách nhiệm của đại lý lữ hành tại Điều 43; văn phòng đại diện tại Việt Nam của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài tại Điều 44. Tuy nhiên, nội dung quy định trách nhiệm của bên giao đại lý lữ hành Điều 42 được giữ nguyên theo quy định của Điều 55 của Luật Du lịch năm 2005.

                  5.2. Vận tải khách du lịch (mục 2)

                  – Luật Du lịch năm 2017 đã sửa đổi từ ngữ “kinh doanh vận chuyển khách du lịch” quy định tại Luật Du lịch năm 2005 thành “kinh doanh vận tải khách du lịch” để phù hợp với quy định tại Luật Giao thông đường bộ, đồng thời bỏ 01 điều quy định về điều kiện kinh doanh vận chuyển khách du lịch (Điều 58 Luật Du lịch năm 2005), tuy nhiên trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 57, 58 Luật Du lịch năm 2005, Điều 45 Luật Du lịch năm 2017 quy định: (1). Kinh doanh vận tải khách du lịch là việc cung cấp dịch vụ vận tải đường hàng không, đường biển, đường thủy nội địa, đường sắt, đường bộ chuyên phục vụ khách du lịch theo chương trình du lịch, tại khu du lịch, điểm du lịch. (2). Tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải khách du lịch quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Du lịch năm 2017 phải đáp ứng điều kiện kinh doanh vận tải; quy chuẩn kỹ thuật, bảo vệ môi trường của phương tiện vận tải; điều kiện của người điều khiển phương tiện vận tải, nhân viên phục vụ, trang thiết bị, chất lượng dịch vụ trên từng loại phương tiện vận tải theo quy định của pháp luật. (3). Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định điều kiện của người điều khiển phương tiện, nhân viên phục vụ, trang thiết bị, chất lượng dịch vụ trên phương tiện vận tải khách du lịch sau khi có ý kiến của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

                  – Trên cơ sở kế thừa quy định của Điều 59, Điều 60 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 quy định về cấp biển hiệu phương tiện vận tải khách du lịch tại Điều 46 và Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải khách du lịch tại Điều 47.

                  5.3. Lưu trú du lịch (mục 3)

                  – Về các loại cơ sở lưu trú du lịch (Điều 48)

                  Luật Du lịch năm 2017 đã bỏ quy định về Làng du lịch quy định tại Điều 62 Luật Du lịch năm 2005, vì trên thực tế Làng du lịch chỉ tồn tại theo cách đặt tên mà không đúng bản chất, nhu cầu xây dựng và phát triển ít; bổ sung quy định về Tàu thủy lưu trú du lịch, loại hình lưu trú đang phát triển tại các khu du lịch biển, cần quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh phát triển.

                  – Về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch (Điều 49)

                  Điều này xây dựng trên cơ sở Điều 64 Luật Du lịch năm 2005, được chỉnh lý, sắp xếp lại quy định theo hướng đơn giản hơn, dẫn chiếu đến các quy định khác của pháp luật về điều kiện an ninh, trật tự an toàn, phòng chống cháy nổ, bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; bỏ quy định về các điều kiện cụ thể vì những điều kiện này không còn phù hợp với thực tế phát triển hiện nay, hơn nữa, nhiều điều kiện đã được chi tiết hóa trong tiêu chuẩn thẩm định, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

                  – Về xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch (Điều 50)

                  Điều này xây dựng trên cơ sở Điều 63 Luật Du lịch năm 2005, thiết kế từ 5 khoản thành 8 khoản. Trên tinh thần cải cách, tháo gỡ rào cản, trao quyền chủ động cho cá nhân kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch được tự nguyện đăng ký xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sửa đổi quy định chỉ xếp hạng đối với một số loại hình cơ sở lưu trú du lịch phổ biến, có ảnh hưởng lớn đến chất lượng phục vụ khách du lịch. Theo đó, cơ sở lưu trú du lịch gồm khách sạn, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, tàu thủy lưu trú du lịch được xếp hạng theo tiêu chuẩn quốc gia về xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch. Hạng cơ sở lưu trú du lịch bao gồm 01 sao, 02 sao, 03 sao, 04 sao và 05 sao.

                  + Về thẩm quyền công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch: Từ thực tiễn công tác quản lý cơ sở lưu trú du lịch; theo đề xuất của nhiều địa phương, doanh nghiệp, điều này sửa đổi, mở rộng phân cấp thẩm quyền cho cơ quan quản lý du lịch ở địa phương thẩm định, công nhận cơ sở lưu trú du lịch hạng 1 sao, hạng 2 sao, hạng 3 sao, đây là điểm mới của Luật Du lịch năm 2017, bởi vì Luật Du lịch năm 2005 quy định thẩm định, công nhận hạng 3 sao thuộc thẩm quyền của Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương.

                  + Luật Du lịch năm 2017 cũng bổ sung quy định mới về hồ sơ đăng ký công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch và trình tự, thủ tục công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch được quy định như sau để tạo sự minh bạch, rõ ràng trong thẩm định, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch. Hồ sơ đăng ký công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: Đơn đề nghị công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định; bản tự đánh giá chất lượng của cơ sở lưu trú du lịch theo quy định trong tiêu chuẩn quốc gia về xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch; danh sách người quản lý và nhân viên trong cơ sở lưu trú du lịch; bản sao có chứng thực văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận bồi dưỡng nghiệp vụ và giấy chứng nhận thời gian làm việc trong lĩnh vực du lịch của người quản lý, trưởng bộ phận trong cơ sở lưu trú du lịch. Trình tự, thủ tục công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch được quy định như sau: Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch nộp 01 bộ hồ sơ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 50 Luật Du lịch năm 2017. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ yêu cầu sửa đổi, bổ sung; trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ trì, phối hợp với tổ chức xã hội – nghề nghiệp về du lịch thẩm định và ra quyết định công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch; trường hợp không công nhận, phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

                  Một trong những điểm mới của nội dung này là quy định “Quyết định công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch có thời hạn 05 năm”, trong khi đó khoản 5 Điều 63 Luật Du lịch năm 2005 quy định: “Sau ba năm được xếp hạng, cơ sở lưu trú du lịch được thẩm định để công nhận lại hạng phù hợp với thực trạng cơ sở vật chất và dịch vụ của cơ sở lưu trú du lịch”. Ngoài ra Luật Du lịch năm 2017 cũng quy định biển công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch được gắn ở khu vực cửa chính của cơ sở lưu trú du lịch cho phù hợp với thực tiễn công tác quản lý cơ sở lưu trú du lịch, đồng thời giao Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu biển công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch.

                  – Về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch (Điều 53)

                  – Luật Du lịch năm 2017 bỏ quy định về tổ chức, cá nhân kinh doanh lưu trú du lịch quy định tại Điều 61 Luật Du lịch năm 2005 điều này nhằm tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh lưu trú du lịch; đồng thời, bổ sung nội dung mới về công bố, kiểm tra chất lượng cơ sở lưu trú du lịch tại Điều 51 và thu hồi quyết định công nhận hạng, thay đổi hạng cơ sở lưu trú du lịch tại Điều 52.

                  5.4. Dịch vụ du lịch khác (mục 4)

                  Mục này được xây dựng trên cơ sở quy định của Mục 6 về kinh doanh dịch vụ du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch, Chương VI Luật Du lịch năm 2005, tuy nhiên có sửa đổi, bổ sung về cơ bản, cụ thể như sau:

                  – Điều 56 Luật Du lịch năm 2017 quy định về công nhận cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch như sau: (1). Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch khác được tự nguyện đăng ký công nhận cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. (2). Hồ sơ đăng ký công nhận bao gồm: Đơn đề nghị theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định; bản thuyết minh đáp ứng các tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch. (3). Trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận được quy định như sau: Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch khác nộp 01 bộ hồ sơ đến cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh nơi đặt cơ sở kinh doanh; trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh thẩm định và công nhận; trường hợp không công nhận, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. (4). Phí thẩm định công nhận cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch được thực hiện theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí. (5). Quyết định công nhận cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch có thời hạn 03 năm. Sau khi hết thời hạn, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch khác có nhu cầu đăng ký công nhận lại cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch thực hiện theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 56 Luật Du lịch năm 2017. (6). Cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức thanh tra, kiểm tra chất lượng cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đã được công nhận đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch trên địa bàn; thu hồi quyết định công nhận trong trường hợp cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch không bảo đảm các tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch theo quy định của pháp luật. (7). Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành tiêu chuẩn và mẫu biển hiệu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch cho cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác.

                  – Về Hướng dẫn viên du lịch, thẻ Hướng dẫn viên du lịch (Điều 58)

                  Luật Du lịch năm 2017 quy định Hướng dẫn viên du lịch bao gồm Hướng dẫn viên du lịch quốc tế, Hướng dẫn viên du lịch nội địa và Hướng dẫn viên du lịch tại điểm, như vậy so với Luật Du lịch năm 2005 đã bỏ quy định về thuyết minh viên thay bằng Hướng dẫn viên du lịch tại điểm. Phạm vi hành nghề của Hướng dẫn viên du lịch cũng có những sửa đổi bổ sung so với Luật Du lịch năm 2005 cụ thể quy định như sau: Hướng dẫn viên du lịch quốc tế được hướng dẫn cho khách du lịch nội địa, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong phạm vi toàn quốc và đưa khách du lịch ra nước ngoài; Hướng dẫn viên du lịch nội địa được hướng dẫn cho khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam trong phạm vi toàn quốc; Hướng dẫn viên du lịch tại điểm được hướng dẫn cho khách du lịch trong phạm vi khu du lịch, điểm du lịch. Điều kiện hành nghề của Hướng dẫn viên du lịch được quy định chặt chẽ nhưng vẫn đảm bảo tính linh hoạt nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động hành nghề hướng dẫn.

                  Luật Du lịch năm 2017 quy định về thẻ Hướng dẫn viên du lịch bao gồm thẻ Hướng dẫn viên du lịch quốc tế, thẻ Hướng dẫn viên du lịch nội địa và thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại điểm. Thẻ Hướng dẫn viên du lịch quốc tế và thẻ Hướng dẫn viên du lịch nội địa có thời hạn 05 năm, trong khi đó Luật Du lịch năm 2005 quy định thẻ hướng dẫn viên nội địa, thẻ hướng dẫn viên quốc tế có thời hạn 03 năm. Ngoài ra Luật Du lịch năm 2017 cũng bổ sung quy định người đề nghị cấp thẻ phải nộp phí thẩm định cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.

                  – Về điều kiện cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch (Điều 59)

                  Luật Du lịch năm 2017 quy định cụ thể về điều kiện cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch nội địa, điều kiện cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch quốc tế, điều kiện cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại điểm trong đó điểm mới nổi bật là điều kiện về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Hướng dẫn viên du lịch quốc tế được điều chỉnh từ trình độ cử nhân thành trình độ cao đẳng để phù hợp với nhu cầu thực tiễn.

                  – Về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch quốc tế, thẻ Hướng dẫn viên du lịch nội địa (Điều 60)

                  Kế thừa quy định của Điều 74 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 quy định (1). Hồ sơ đề nghị cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch quốc tế, thẻ Hướng dẫn viên du lịch nội địa bao gồm: Đơn đề nghị cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định; sơ yếu lý lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú; bản sao có chứng thực các văn bằng, chứng chỉ tương ứng với điều kiện quy định tại điểm d khoản 1 hoặc điểm b và điểm c khoản 2 Điều 59 của Luật Du lịch năm 2017; giấy chứng nhận sức khỏe do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền cấp trong thời hạn không quá 06 tháng tính đến thời điểm nộp hồ sơ; 02 ảnh chân dung màu cỡ 3cm x 4cm. (2). Trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch quốc tế, thẻ Hướng dẫn viên du lịch nội địa được quy định như sau: Người đề nghị cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch nộp 01 bộ hồ sơ đến cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh; trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch cho người đề nghị; trường hợp từ chối, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

                  – Về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại điểm (Điều 61)

                  Luật Du lịch năm 2017 quy định: (1). Hồ sơ đề nghị cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại điểm bao gồm: Đơn đề nghị cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định; giấy tờ quy định tại các điểm b, d và đ khoản 1 Điều 60 của Luật Du lịch năm 2017. (2). Trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại điểm được quy định như sau: Cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh định kỳ hằng năm công bố kế hoạch tổ chức kiểm tra nghiệp vụ hướng dẫn du lịch tại điểm; người đề nghị cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại điểm nộp 01 bộ hồ sơ đến cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh; cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh tổ chức kiểm tra và cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại điểm đối với người đã đạt yêu cầu kiểm tra nghiệp vụ trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có kết quả kiểm tra.

                  – Về quyền và nghĩa vụ của Hướng dẫn viên du lịch (Điều 65)

                  Kế thừa các quy đinh của Điều 76 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 quy định: (1). Hướng dẫn viên du lịch có quyền sau đây: Tham gia tổ chức xã hội – nghề nghiệp về hướng dẫn du lịch; nhận tiền lương và khoản thù lao khác theo hợp đồng; tham gia các khóa bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề hướng dẫn du lịch; trong trường hợp khẩn cấp hoặc bất khả kháng, được quyền thay đổi chương trình du lịch, điều chỉnh tiêu chuẩn, dịch vụ của khách du lịch. (2). Hướng dẫn viên du lịch có nghĩa vụ sau đây: Hướng dẫn khách du lịch theo nhiệm vụ được giao hoặc theo hợp đồng hướng dẫn; tuân thủ, hướng dẫn khách du lịch tuân thủ pháp luật Việt Nam, pháp luật nơi đến du lịch, nội quy nơi đến tham quan; tôn trọng phong tục, tập quán của địa phương; thông tin cho khách du lịch về chương trình du lịch, dịch vụ và các quyền, lợi ích hợp pháp của khách du lịch; hướng dẫn khách du lịch theo đúng chương trình du lịch, có thái độ văn minh, tận tình và chu đáo với khách du lịch; báo cáo người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành quyết định thay đổi chương trình du lịch trong trường hợp khách du lịch có yêu cầu; có trách nhiệm hỗ trợ trong việc bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của khách du lịch; tham gia khóa cập nhật kiến thức theo quy định tại khoản 4 Điều 62 của Luật này; đeo thẻ Hướng dẫn viên du lịch trong khi hành nghề hướng dẫn du lịch; Hướng dẫn viên du lịch quốc tế và Hướng dẫn viên du lịch nội địa phải mang theo giấy tờ phân công nhiệm vụ của doanh nghiệp tổ chức chương trình du lịch và chương trình du lịch bằng tiếng Việt trong khi hành nghề. Trường hợp hướng dẫn khách du lịch quốc tế thì Hướng dẫn viên du lịch phải mang theo chương trình du lịch bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài.

                  – Về trách nhiệm quản lý Hướng dẫn viên du lịch (Điều 66)

                  Đây là nội dung mới của Luật Du lịch năm 2017, theo đó Luật quy định: (1). Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra hoạt động cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn du lịch và hoạt động hướng dẫn du lịch trên phạm vi toàn quốc. (2). Cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn du lịch và hoạt động hướng dẫn du lịch trên địa bàn. (3). Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hướng dẫn du lịch có trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động của Hướng dẫn viên du lịch trong việc tuân thủ pháp luật và hợp đồng đã ký với doanh nghiệp và bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề hướng dẫn du lịch.

                  – Kế thừa các quy định của Điều 75 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 quy định về cấp đổi thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại Điều 62, cấp lại thẻ Hướng dẫn viên du lịch Điều 63; thu hồi thẻ Hướng dẫn viên du lịch tại Điều 64. Trong đó có một số điểm mới nổi bật là đã rút ngắn thời gian cấp đổi thẻ và cấp lại thẻ Hướng dẫn viên du lịch khi nhận được hồ sơ hợp lệ từ 15 ngày xuống 10 ngày; bổ sung quy định thu hồi thẻ Hướng dẫn viên du lịch trong trường hợp không bảo đảm điều kiện hành nghề, điều kiện cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch theo quy định của Luật Du lịch năm 2017; tăng thời gian xem xét cấp thẻ mới từ 6 tháng thành 12 tháng kể từ ngày bị thu hồi thẻ.

                  Xúc tiến du lịch, quỹ hỗ trợ phát triển du lịch (Chương VII)

                  7.1. Xúc tiến du lịch (mục 1)

                  – Về Nội dung xúc tiến du lịch (Điều 67), kế thừa các quy định của Điều 79 Luật Du lịch năm 2005, Luật Du lịch năm 2017 bổ sung nội dung xây dựng, phát triển thương hiệu du lịch quốc gia, vùng, địa phương, doanh nghiệp.

                  – Về thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam của cơ quan du lịch nước ngoài, tổ chức du lịch quốc tế và khu vực (Điều 69)

                  Điều này quy định mới trên cơ sở cụ thể hóa quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật Du lịch năm 2005, cụ thể quy định: (1). Cơ quan du lịch nước ngoài, tổ chức du lịch quốc tế và khu vực được thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam. (2). Hồ sơ đề nghị thành lập văn phòng đại diện phải được hợp pháp hóa lãnh sự, bao gồm: Đơn đề nghị thành lập văn phòng đại diện theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định; quyết định thành lập cơ quan du lịch nước ngoài, tổ chức du lịch quốc tế và khu vực; quyết định thành lập văn phòng đại diện của cơ quan du lịch nước ngoài, tổ chức du lịch quốc tế và khu vực; quyết định bổ nhiệm người đứng đầu văn phòng đại diện. (3). Trình tự, thủ tục thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam được quy định như sau: Người đứng đầu văn phòng đại diện nộp 01 bộ hồ sơ đến Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định; trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thông báo bằng văn bản cho người đứng đầu văn phòng đại diện.

                  7.2. Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch (mục 2)

                  Nội dung này được quy định mới trên cơ sở cụ thể hóa quy định tại khoản 6 Điều 6 Luật Du lịch năm 2005, đây là nội dung bổ sung quan trọng, tạo cơ sở pháp lý và đảm bảo tính khả thi trong việc thành lập Quỹ trong thời gian tới. Việc thành lập Quỹ sẽ tạo ra nguồn kinh phí lớn hơn cho các hoạt động xúc tiến du lịch, tạo cơ chế chủ động hơn trong việc quản lý, sử dụng kinh phí này, cụ thể Luật Du lịch năm 2017 quy định như sau:

                  Về mục đích của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, Điều 71 Luật Du lịch năm 2017 quy định: (1). Xúc tiến du lịch trong nước và nước ngoài. (2). Hỗ trợ nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm du lịch. (3). Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch. (4). Hỗ trợ hoạt động truyền thông du lịch trong cộng đồng.

                  – Về nguyên tắc hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, Điều 72 Luật Du lịch năm 2017 quy định: (1). Không vì mục đích lợi nhuận; bảo toàn vốn điều lệ và tự bù đắp chi phí quản lý. (2). Thực hiện thu, chi, quyết toán, công khai tài chính, tài sản và công tác kế toán theo quy định của pháp luật. (3). Chịu sự kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của cơ quan quản lý nhà nước về tài chính và kiểm toán nhà nước về các hoạt động tài chính của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch. (4). Bảo đảm công khai, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật. (5). Số dư kinh phí năm trước của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch được chuyển sang năm sau để tiếp tục sử dụng.

                  Quản lý nhà nước về du lịch (Chương VIII)

                  – Về hiệu lực thi hành: Điều 77 Luật Du lịch năm 2017 quy định Luật Du lịch năm 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018; Luật Du lịch năm 2015 hết hiệu lực kể từ ngày Luật Du lịch năm 2017 có hiệu lực thi hành.

                  – Về quy định chuyển: Điều 78 Luật Du lịch năm 2017 quy định: (1). Doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành không phải làm thủ tục đổi giấy phép, nhưng phải bảo đảm đáp ứng đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định của Luật Du lịch năm 2017 trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Luật Du lịch năm 2017 có hiệu lực thi hành. (2). Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa phải làm thủ tục đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành. Sau thời hạn trên, nếu không có giấy phép thì doanh nghiệp không được kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa. (3). Hướng dẫn viên du lịch quốc tế, Hướng dẫn viên du lịch nội địa đã được cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch trước ngày Luật Du lịch năm 2017 có hiệu lực thi hành được tiếp tục hành nghề cho đến hết thời hạn ghi trên thẻ. (4). Cơ sở lưu trú du lịch đã được công nhận hạng theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Luật Du lịch năm 2017 có hiệu lực được tiếp tục sử dụng hạng đã được công nhận cho đến hết thời hạn theo quyết định./.

                  Tiêu Dao

                  Những Nội Dung Cơ Bản Của Phép Biện Chứng Duy Vật

                  Trong bài viết này cùng với tiểu luận triết học của chúng tôi sẽ là bài nghiên cứu sau đây

                  A1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

                  Khái niệm liên hệ:

                  A2. Nguyên lí về sự phát triển

                  “Phát triển” là quá trình vận động từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Phát triển là vận động nhưng chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển. Vận động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly chúng thì không thể có phát triển. Do vậy, ở phương Tây trước Kant chưa có quan niệm về phát triển, vì trước đó người ta mới chỉ suy tư về không gian mà chưa suy tư gì về thời gian. Còn ở phương Đông với văn hóa coi trọng truyền thống, mà Nho giáo là điển hình, thì quan niệm phát triển không hẳn hướng về tương lai mà thường hướng về quá khứ. Một xã hội lí tưởng không phải là xã hội sẽ có mà là đã có. Như vậy, nếu người phương Tây xem vật chất vận động trong thời gian tuần hoàn. Xét từ cách tiếp cận phương Tây thì phương Đông không có khái niệm “phát triển”, mà chỉ có khái niệm “tăng trưởng”. Bởi lẽ, tăng trưởng là sự mở rộng ngưỡng về số lượng, quy mô theo hướng tích cực, nhưng không đi kèm biến đổi về chất, về cấu trúc. Như đã biết, vận động tuyệt đối và đứng yên tương đối là những thuộc tính cố hữu của các đối tượng vật chất. Vốn là sự thống nhất của bền vững và biến đổi, đối tượng không tồn tại vĩnh hằng. Những biến đổi diễn ra trong nó ở phạm vi một độ bền vững xác định có xu hướng phá vỡ sự bền vững đó và biến nó thành đối tượng khác, rồi đến lượt mình, do những biến đổi diễn ra ở mức độ tích lũy cao hơn, nó lại biến thành đối tượng thứ ba, và cứ thế mãi khiến cho vật chất, trong khi vận động, biến đổi thường xuyên, lại chuyển hóa không ngừng từ trạng thái bền này sang trạng thái bền khác. Nhưng xu hướng của những biến đổi đó là gì, cái gì nảy sinh thay thế các đối tượng đã bị hủy hoại? Một số nhà triết học cho là, vận động diễn ra theo vòng tròn, đời đời lặp lại vẫn những chu kì như cũ; một số khác lại khẳng định rằng, trong tiến trình những biến đổi thường xuyên lại diễn ra sự vận động từ cao xuống thấp, tức là thoái bộ; số thứ ba, ngược lại, giải thích toàn bộ những thay đổi diễn ra trong thế giới bằng sự vận động từ thấp đến cao. Thực tế thì có cả vận động từ thấp đến cao và từ cao xuống thấp, và vận động từ thấp tới cao, đi lên, là xu hướng hàng đầu trong số chúng; chính nó là thuộc tính căn bản cố hữu nội tại của vật chất. Tóm lại, sự vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp, được gọi là phát triển. Ăngghen cho rằng phát triển là “mối liên hệ nhân quả của sự vận động tiến lên từ thấp đến cao thông qua tất cả những sự vận động chữ chi và những bước thụt lùi tạm thời…” Tính khách quan của sự phát triển Trước khi phép biện chứng duy vật ra đời, Hegel (Hêghen) đã không chỉ nêu ra khái niệm phát triển mà còn xây dựng phép biện chứng khá hoàn chỉnh bao gồm các nguyên lí, phạm trù, quy luật về sự phát triển. Sau này, chính Mác, Ăngghen và Lênin đều coi phép biện chứng của Hegel (Hêghen) là học thuyết toàn diện, sâu sắc, phong phú nhất về sự phát triển. Nhưng, vì Hegel (Hêghen) đã xây dựng phép biện chứng trên cơ sở duy tâm nên Mác, Ăngghen đã đặt ra nhiệm vụ đưa phép biện chứng thoát khỏi cái vỏ thần bí duy tâm, biến nó thành phép biện chứng duy vật, xây dựng khoa học chung nhất về sự phát triển của tự nhiên, của xã hội và của tư duy con người. Phát triển là công việc ở “dưới đất” chứ không phải là của “ý niệm tuyệt đối”, càng không phải là công việc của Thượng đế. Những tài liệu khoa học xưa nay đều chứng tỏ đầy thuyết phục về xu hướng vận động phức tạp khách quan (được gọi là phát triển) đó trong hiện thực. Chẳng hạn, ánh sáng phát ra từ các thiên thể biến thành các hạt chất, mà khi tích lũy ở số lượng lớn, đã tạo thành nguyên tử, sau đó thành phân tử của các chất xác định. Do tương tác mà các hạt vật chất này nóng lên, đậm đặc lại và ở thời điểm xác định đã tạo ra các hành tinh. Trong số đó, có những hạt do nảy sinh các điều kiện thuận lợi phù hợp (ví dụ trên Trái đất), mà các hợp chất hữu cơ phức tạp dần được tạo thành, và trong tiến trình tiếp theo (với những điều kiện đặc biệt) có khả năng biến chuyển thành các cơ thể sống. Sau khi xuất hiện, các sinh thể tiếp tục vận động và tương tác với môi trường rồi dần trở nên hoàn thiện, biến chuyển từ những “thể” chất sống giản đơn dưới mức tế bào, đến các cơ thể đơn bào, rồi từ thể đơn bào đơn giản nhất đến các thể đa bào, từ các sinh thể chỉ có thuộc tính phản xạ đến những sinh thể có thần kinh – tâm lí. Sự vận động từ thấp đến cao còn biểu hiện rõ trong lịch sử xã hội. Nhân loại đã bắt đầu tồn tại từ hình thái đơn giản như xã hội nguyên thủy, sau đó chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và cuối cùng là xã hội chủ nghĩa, mỗi lần đều chuyển sang kiểu đời sống xã hội mới cao hơn, hoàn thiện hơn. Trong xã hội con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của phát triển chủ yếu bằng thực tiễn sản xuất. Cho nên kinh tế luôn là cơ sở của phát triển xã hội. Học thuyết duy vật biện chứng về phát triển xã hội có nội dung chủ yếu là sự chuyển hóa từ hình thái kinh tế – xã hội thấp lên cao hơn, tiến bộ hơn; từ nền văn minh trình độ thấp lên nền văn minh trình độ cao hơn. Điều nói trên cũng đồng thời khẳng định phát triển là xu hướng phổ biến trong thế giới, cố hữu của vật chất. Song điều đó không có nghĩa là từng hình thức tồn tại cụ thể của vật chất, mỗi đối tượng riêng rẽ đều luôn phát triển. Bên cạnh những đối tượng phát triển, biến đổi từ thấp đến cao, thì vẫn có những đối tượng vận động vòng tròn, chuyển từ một trạng thái này sang trạng thái khác trong phạm vi của một giai đoạn phát triển, hoặc lại biến đổi từ cao xuống thấp. Vai trò hàng đầu của phát triển, tính phổ biến của nó biểu hiện không phải ở chỗ, tất cả các đối tượng nhất định phải phát triển, mà ở chỗ, chúng có khả năng phức tạp hóa, chuyển từ thấp lên cao khi có điều kiện tương ứng. Nơi nào đã có những điều kiện như thế nhất định sẽ có vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp; nơi nào còn thiếu những điều kiện đó thì sẽ chỉ có hoặc là sự vận động theo vòng tròn (sự thay đổi ở cùng cấp độ), hoặc là những biến đổi thụt lùi. Vả lại, những đối tượng đang vận động theo vòng tròn hay thụt lùi, cũng không mất khả năng chuyển từ thấp đến cao ngay khi điều kiện thuận lợi cho điều đó. Phát triển là quá trình đa dạngxzr Chỉ có thông qua một quá trình nhất định thì tất cả các đối tượng mới có thể thực hiện được sự phát triển. Mọi đối tượng tự nhiên, xã hội và tư duy đều trải qua quá trình phát triển, mà nếu xét từ hình thức thì đó là quá trình thay thế liên tục của đối tượng theo thời gian và tính chất không ngừng mở rộng về không gian; còn xét từ nội dung thì đó là sự đổi mới hình thức vận động, hình thái, kết cấu, chức năng và mối quan hệ của đối tượng. Sự phát triển của xã hội loài người thể hiện rõ nhất tính quá trình đó. Từ xã hội nguyên thủy đến xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến, và xã hội tư sản rồi tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều đó biểu hiện xu thế phát triển chung của xã hội loài người. Như Việt Nam đang ở vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình xây dựng lâu dài để hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Đây là một xu thế lịch sử không thể thay đổi bằng ý chí. Cần phân biệt hai khái niệm gắn với phát triển là tiến hóa và tiến bộ. Tiến hóa là một dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ, và thường là sự biến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Thuyết tiến hóa tập trung giải thích khả năng sống sót và thích ứng của cơ thể xã hội trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Trong khi đó, khái niệm tiến bộ đề cập đến sự phát triển có giá trị tích cực. Tiến bộ là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu. Trong tiến bộ, khái niệm phát triển đã được lượng hóa thành tiêu chí cụ thể đánh giá mức độ trưởng thành của các dân tộc, các lĩnh vực của đời sống con người… Từ quan niệm, phát triển là sự vận động theo chiều hướng đi lên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã vạch rõ, thực chất của phát triển là sự phát sinh đối tượng mới phù hợp với quy luật tiến hóa và sự diệt vong của đối tượng cũ đã trở nên lỗi thời. Đối tượng mới chỉ là cái phù hợp với khuynh hướng tiến bộ của lịch sử, có tiền đồ rộng lớn; đối tượng cũ là cái đã mất vai trò tất yếu lịch sử, ngày càng đi vào xu hướng diệt vong. Không gì có thể chiến thắng được đối tượng mới, bởi vì: Một là, xét từ mối quan hệ giữa đối tượng mới và hoàn cảnh thì, nó sở dĩ là mới vì kết cấu và chức năng của nó thích ứng với điều kiện mới đã biến đổi; đối tượng cũ lại chỉ gồm các loại yếu tố và chức năng không còn phù hợp với hoàn cảnh đã biến đổi, xu thế diệt vong của nó là không thể cứu vãn được. Hai là, xét mối quan hệ giữa đối tượng cũ và đối tượng mới thì đối tượng mới là cái đã manh nha nảy mầm từ trong lòng đối tượng cũ, nó là cái phủ định những tiêu cực mục nát trong đối tượng cũ đồng thời lại bảo lưu được những cái hợp lí, thích hợp với điều kiện mới và bổ sung nội dung mới vốn chưa có ở đối tượng cũ. Hai phương diện đó là nguyên nhân có sức mạnh to lớn làm cho đối tượng mới về bản chất có thể vượt qua đối tượng cũ. Trong lĩnh vực lịch sử xã hội, đối tượng mới là kết quả của hoạt động sáng tạo theo hướng tiên tiến của xã hội; về cơ bản nó phù hợp với lợi ích và nhu cầu của đông đảo nhân dân, có khả năng bảo vệ được họ, do vậy nó tất yếu chiến thắng đối tượng cũ. Đặc biệt là trong thời kì diễn ra những biến động xã hội lớn, sự chiến thắng của đối tượng mới trước đối tượng cũ biểu hiện rất rõ. Nắm vững quy luật này là điều có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự sáng tạo và phát triển của nước ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

                  2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

                  2.1. Quan niệm biện chứng duy vật về phạm trù và sự hình thành phạm trù

                  2.2. Cái chung và cái riêng

                  2.4. Tất nhiên và ngẫu nhiên

                  Quan niệm về tất nhiên được hình thành trên cơ sở làm rõ liên hệ nhân quả. Đầu tiên tất nhiên được xem như một đặc trưng của liên hệ nhân quả. Dần dần con người đã nhận ra, tất nhiên vốn có không chỉ ở liên hệ nhân quả, mà còn ở các mối liên hệ khác (như chức năng, cấu trúc…), và cũng không chỉ ở các mối liên hệ, mà còn ở sự tồn tại của các đối tượng và thuộc tính. Khái niệm tất nhiên tách ra khỏi khái niệm nhân quả, có tính độc lập và được xét không cùng cặp với nhân quả, mà với ngẫu nhiên. Sự xuất hiện và tồn tại của đối tượng cùng với các bộ phận, thuộc tính và những mối liên hệ có nguyên nhân trong chính mình và do bản chất nội tại của chúng quy định, được gọi là tất nhiên. Còn sự xuất hiện và tồn tại có nguyên nhân bên ngoài, ở cái khác, tức do ngoại cảnh quy định,được gọi là ngẫu nhiên. Những thuộc tính và liên hệ tất nhiên ở những điều kiện tương ứng tất yếu phải nảy sinh, còn sự xuất hiện của các thuộc tính và liên hệ ngẫu nhiêu không nhất thiết, chúng có thể có mà cũng có thể không. Trong hiện thực khách quan, không có tất nhiên thuần túy, tồn tại cô lập, mà nó liên hệ hữu cơ với ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên cũng tồn tại khách quan, bên ngoài và không phụ thuộc ý thức cũng như hoạt động nhận thức của con người. Sự tồn tại khách quan của cả tất nhiên lẫn ngẫu nhiên đều có nguồn gốc từ tính nhân quả. Nếu cơ sở của tất nhiên là một mối liên hệ nhân quả tuyến tính duy nhất, thì cơ sở của ngẫu nhiên là sự giao thoa của hai (hay một số) liên hệ nhân quả. Các mắt xích của từng dãy gắn với nhau một cách tất yếu, nhưng sự giao thoa của chúng lại tạo ra những nguyên nhân mới, làm xuất hiện những tương tác không bắt nguồn từ bản chất nội tại của các đối tượng tham gia tương tác khiến sinh ra các đối tượng ngẫu nhiên. Tuy là ngẫu nhiên nhưng những tương tác này cũng tất yếu gây ra những biến đổi. Như vậy, tất nhiên và ngẫu nhiên gắn bó hữu cơ, tương tác với nhau, rồi chuyển hóa vào nhau, quy định sự xuất hiện những đối tượng và trạng thái chất mới. Tính quy luật của mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên Từng đối tượng trong cùng thời gian vừa là tất nhiên, vừa là ngẫu nhiên. Một số thuộc tính và mối liên hệ của nó do những nguyên nhân bên trong quy định, thể hiện bản chất, một số thuộc tính và mối liên hệ khác của do các nguyên nhân bên ngoài, do sự tương tác của nó với môi trường xung quanh. Các số khác này ngẫu nhiên có mặt, do vậy chỉ là hình thức thể hiện của các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên. Tất nhiên mở đường đi cho mình thông qua vô vàn những ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên thường biểu hiện như là các xu hướng của tất nhiên, chúng mang vào quá trình cụ thể những phương án mới không là tất nhiên, mà do những hoàn cảnh bên ngoài quy định. Do vậy, hoạt động thực tiễn không thể hướng vào ngẫu nhiên, mà phải dựa vào cái tất nhiên. Còn trong nhận thức, việc nắm bắt cái tất nhiên là nhiệm vụ cơ bản của khoa học, nhưng vì cái tất nhiên thường biểu hiện thông qua nhiều cái ngẫu nhiên, khiến cho ngẫu nhiên trở thành hình thức của tất nhiên, nên nhận thức nó cần thông qua nghiên cứu cái ngẫu nhiên, vạch ra trong ngẫu nhiên những xu hướng tất nhiên. Là hình thức biểu hiện của tất nhiên, ngẫu nhiên còn là sự bổ sung cho cái tất nhiên, bởi lẽ nội dung của cái tất nhiên không chỉ gồm bản chất đặc thù của đối tượng, mà còn có những điểm đặc thù của đối tượng khác tương tác với nó. Không chỉ lệ thuộc và liên hệ với nhau, trong tiến trình vận động của đối tượng, mà chúng luôn chuyển hóa, thay đổi vị trí cho nhau, ngẫu nhiên trở thành tất nhiên, và ngược lại. Sự chuyển hóa này thể hiện rõ qua ví dụ về sự phát triển các loài sinh vật, và phần nào trong xã hội loài người.

                  Việc nhận thức những mối liên hệ nhân quả tất nhiên mới buộc phải làm sáng tỏ tổ chức của những mối liên hệ đó. Cùng với việc tích lũy tri thức về đối tượng như là chỉnh thể các bộ phận tương tác liên hệ với nhau, con người cần xây dựng các phạm trù tương ứng là nội dung và hình thức. Nội dung của đối tượng là tổng thể các bộ phận, yếu tố hợp thành nó, những tương tác và biến đổi trong nó. Nội dung không chỉ bao gồm các bộ phận và sự tương tác của chúng với nhau, tức là những tương tác bên trong, mà còn quy định cả những tương tác với những đối tượng bên ngoài khác. Chẳng hạn, nội dung của phương thức sản xuất gồm hai bộ phận là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mà trong sự thống nhất với nhau chúng cùng quy định đời sống xã hội, chính trị và tinh thần của con người – là những yếu tố nằm ngoài phương thức sản xuất. Hình thức của đối tượng là cách thức tổ chức, sắp xếp, liên hệ các bộ phận của nó. Hình thức của phương thức sản xuất là mối liên hệ được thể hiện trong quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Hình thức của tác phẩm nghệ thuật – trước hết là sự phối cảnh, tình tiết và ngôn ngữ… Mọi đối tượng đều luôn có cả nội dung lẫn hình thức. Không ở đâu và không khí nào lại có nội dung thiếu hình thức và hình thức phi nội dung. Trong khi liên hệ hữu cơ với nhau nội dung và hình thức là những mặt đối lập của đối tượng. Biến đổi là xu hướng chủ đạo của nội dung. Còn bền vững lại là xu hướng chủ đạo của hình thức.Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức Vì mỗi bộ phận, thuộc tính của đối tượng tất yếu phải có những mối liên hệ với nhau, cho nên, nội dung đã bao chứa cả hình thức. Mặt khác, sự tổ chức các mối liên hệ bền vững đồng thời là sự tổ chức các bộ phận. Do vậy, có thể nói, cả hình thức cũng chứa nội dung, và ngay cả trong tư duy, trong sự trừu tượng cũng không thể tách biệt hoàn toàn hình thức khỏi nội dung và ngược lại. Nội dung và hình thức thống nhất với nhau, nhưng chúng có ý nghĩa không như nhau. Nội dung giữ vai trò quyết định, còn hình thức – bị quyết định. Bản thân sự xuất hiện của hình thức và nhiều đặc điểm của nó bị quy định bởi nội dung. Nhưng hình thức có tính tự trị nhất định, tính độc lập tương đối so với nội dung, và cũng tác động lên nó. Sự tác động thường theo hai kiểu. Thứ nhất, hình thức có thể đẩy nội dung phát triển nhanh, khi nó về cơ bản phù hợp với nội dung. Thứ hai, hình thức có thể làm chậm tốc độ phát triển của nội dung, nếu không còn phù hợp với nó. Ở thời kì đầu tồn tại, hình thức của đối tượng phù hợp với nội dung và do vậy giữ vai trò tích cực trong sự phát triển của nó. Với sự hỗ trợ tích cực của hình thức, nội dung phát triển càng ngày càng xa, còn hình thức về cơ bản vẫn giữ nguyên không đổi. Thời gian qua đi và khuôn khổ chật hẹp của hình thức cũ bắt đầu cản trở nội dung đang biến đổi. Hình thức không còn phù hợp với nội dung nữa, trở nên kìm hãm sự phát triển của nội dung. Sự không tương thích ngày càng lớn dần, giữa chúng xảy ra xung đột. Và cuối cùng nội dung đã đi xa về phía trước vứt bỏ hình thức quá cũ kĩ, thủ tiêu nó. Nhưng thời điểm thủ tiêu hình thức đồng thời cũng là thời điểm biến đổi của nội dung. Sự thủ tiêu những mối liên hệ bền vững đòi hỏi sự biến đổi mạnh các bộ phận của nó và chấm dứt những tương tác lẫn nhau đã tồn tại trước đó. Như vậy, sự phù hợp hình thức và nội dung, sự thống nhất của chúng, cũng như thống nhất chất và lượng, là ranh giới tồn tại của đối tượng. Từ mối quan hệ giữa nội dung và hình thức có thể rút ra kết luận cho thực tiễn. Vì nội dung quyết định hình thức, nên để làm đối tượng biến đổi theo mục đích thì cần gây ra những biến đổi chủ yếu trong nội dung của nó. Vì hình thức chỉ thúc đẩy sự phát triển của nội dung khi phù hợp với nó nên nếu muốn tác động đẩy nhanh sự phát triển của đối tượng, tất yếu phải thường xuyên theo dõi nội dung đang phát triển trong một hình thức tụt hậu, thấy được mức độ xuất hiện sự không tương thích giữa chúng để can thiệp vào tiến trình khách quan, tạo ra những thay đổi tất yếu trong hình thức, làm cho nó trở lại tương thích với nội dung đang phát triển và đảm bảo không cản trở sự phát triển tiếp theo. Việc bỏ qua quy luật đó dẫn đến những hậu quả xấu trong thực tiễn. Thói trì trệ, chậm đổi mới các hình thức và phương pháp quản lí, sự gia tăng tệ quan liệu, tuyệt đối hóa những hình thức tổ chức xã hội được hình thành trước đây trong thực tiễn là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng khủng hoảng xã hội và của những xu hướng bất lợi đã bộc lộ ở nước ta những năm gần đây. Xã hội có đạt tới sự phát triển mới về chất hay không phần nhiều phụ thuộc vào việc đổi mới đến đâu những hình thức xã hội già cõi, phong cách và phương pháp làm việc cũ, đưa chúng vào phù hợp đến mức độ nào với những điều kiện đang thay đổi.

                  2.7. Bản chất và hiện tượng

                  Khi đã tích lũy các tri thức về thuộc tính và liên hệ tất nhiên riêng rẽ của đối tượng, khám phá những quy luật vận hành và phát triển của nó, thì cũng sẽ xuất hiện nhu cầu kết hợp các tri thức, đưa chúng về một mối. Giai đoạn phát triển này của nhận thức ứng với sự tái tạo lại bản chất như là tổng thể các thuộc tính và các mối liên hệ (quy luật) tất nhiên của đối tượng. Vì bản chất là chỉnh thể được phân tách ra thành tập hợp các mặt liên hệ lẫn nhau, các quan hệ phản ánh cái tất nhiên ở dạng thuần túy, nên nhận thức chỉ có thể tái tạo lại nó thông qua các mô hình tư tưởng, các khái niệm, qua việc xây dựng lí luận. Như vậy, phạm trù bản chất phản ánh cái bên trong, cái tất nhiên của đối tượng. Bản chất là tổng thể tất cả các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên được xét trong sự phụ thuộc lẫn nhau tự nhiên của chúng, các quy luật vận hành và phát triển của đối tượng. Bản chất xuất hiện, định hình và phát triển cùng với hiện tượng là phạm trù chỉ sự bộc lộ cái bên trong của đối tượng ra mặt ngoài, thông qua vô vàn các thuộc tính và mối liên hệ ngẫu nhiêu được vạch ra do kết quả tương tác của nó với các đối tượng khác. Hiện tượng là những biểu hiện bề ngoài của các mặt và mối liên hệ. Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất của đối tượng mang tính khách quan, tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người. Trong khi tồn tại thực, nó gắn bó hữu cơ với hiện tượng, chỉ lộ rõ mình trong và thông qua hiện tượng. Hiện tượng cũng gắn liền với bản chất, không thể tồn tại thiếu nó. Lênin nhấn mạnh mối liên hệ đó như sau: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”. Là hình thức biểu hiện của bản chất, hiện tượng khác với nó: nhiều khi bản chất hiện ra dưới dạng xuyên tạc như trường hợp giá trị của hàng hóa chẳng hạn. Hiện tượng luôn phong phú hơn bản chất. Điều này thể hiện rõ qua ví dụ về tương quan giữa giá trị và giá cả của hàng hóa. Giá cả của hàng hóa luôn đa dạng (phong phú) hơn giá trị của nó, bởi lẽ trong chúng không chỉ biểu hiện sự phụ thuộc vào lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất một đơn vị hàng hóa, mà còn vào nhiều yếu tố bên ngoài, như tương quan cung cầu, yếu tố đầu cơ hàng hóa đó trên thị trường. Ngược với hiện tượng thường đa dạng và hay biến đổi, thì bản chất lại là cái bền vững, tự bảo toàn trong phần lớn các biến đổi đó. Chẳng hạn, giá cả hàng hóa thường xuyên biến động, nhưng giá trị của nó ở khoảng thời gian nhất định thường không đổi. Thể hiện tính quy luật đó của mối tương quan bản chất và hiện tượng, Lênin viết: “… cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng “bản chất”. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất hoàn toàn không đổi. Sự thay đổi của nó chậm hơn ở hiện tượng. Nó biến đổi do, trong quá trình phát triển của đối tượng một số mặt và mối liên hệ tất nhiên bắt đầu tăng cường, giữ vai trò lớn hơn, những số khác lại bị đẩy xuống hàng dưới hoặc biến mất hẳn. Lênin viết: “Không phải chỉ riêng hiện tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn chỉ có tính chất ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế. Tính quy luật của nhận thức bản chất Vì bản chất chỉ thể hiện thông qua hiện tượng và hiện tượng biểu thị nó dưới dạng cải biến, và thường là bị xuyên tạc, cho nên, thứ nhất, trong nhận thức không chỉ tự giới hạn ở việc ghi nhận cái nằm trên bề mặt đối tượng, mà cần phải thâm nhập vào bên trong đối tượng và phải nhìn ra bản chất thực khuất sau hiện tượng; thứ hai, hoạt động thực tiễn cũng không thể xuất phát từ những hiện tượng riêng, mà trước hết cần phải làm theo tri thức về bản chất, các quy luật vận hành và phát triển của đối tượng.

                  3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

                  3.1. Quan niệm biện chứng duy vật về quy luật

                  3.2. Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại

                  3.3. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

                  Cập nhật thông tin chi tiết về Các Nội Dung Cơ Bản Của Hợp Đồng trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!