Xu Hướng 3/2023 # Các Cơ Chế Của Liên Hợp Quốc Về Bảo Vệ Và Thúc Đẩy Quyền Con Người # Top 3 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Các Cơ Chế Của Liên Hợp Quốc Về Bảo Vệ Và Thúc Đẩy Quyền Con Người # Top 3 View

Bạn đang xem bài viết Các Cơ Chế Của Liên Hợp Quốc Về Bảo Vệ Và Thúc Đẩy Quyền Con Người được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Ngô Thị Bích Quyên – Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Topcareer

Về cơ bản, cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được thể hiện ở bộ máy các cơ quan và quy tắc, thủ tục về thúc đẩy, bảo vệ quyền con nguởi trong tổ chức Liên hợp quốc. Dựa trên địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy thì các cơ quan về quyền con người của Liên hợp quốc được chia thành hai dạng: Các cơ quan được thành lập (hoặc dựa trên) Hiến chương (charter – based mechanism) và cơ chế qua charter bodies, và các cơ quan được thảnh lập theo hoặc dựa trên một số điều ước quan trọng về quyền con người (treaty bodies). Một số tài liệu gọi hệ thống các cơ quan và thủ tục này là cơ chế dựa trên Hiến chương (charter based mechanism) và cơ chế dựa trên điều ước (treaty based mechanism).

1.  Cơ chế dựa trên Hiến chương (Charter – based mechanism)

Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc nên cả 6 cơ quan chính (Đại hội đồng – General essembly; Hội đồng bảo an – Security council, Hội đồng kinh tế và xã hội – Economic and social council Ecosoc; Hội đồng quản thác – Trusteeship council và Tòa án quốc tế – Intemetional court of justice) đều có trách nhiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, có một số cơ quan giúp việc về quyền con người; xây dựng và thực thi quy chế để huy động sự tham gia, hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (quốc tế, khu vực và quốc gia) vào hoạt động thúc đầy và bảo vệ quyền con người. Cụ thể như sau:

1.1.   Hội đồng quyền con người của Liên hợp quốc

Hội đồng quyền con người của Liên hợp quốc (UN Human Rights Council – HRC) là cơ quan mới được thành lập theo Nghị quyết số 60/251 ngày 03/4/2006 của Đại hội đồng Liên hợp quốc để thay thế cho Ủy ban quyền con người (CHR). Do Ủy ban quyền con người trước đây và Hội đồng quyền con người (HRC) hiện nay, đóng vai trò “đầu tàu” trong bộ máy các cơ quan về quyền con người Liên hợp quốc, nên sự kiện thành lập HRC được nhiều tổ chức và chuyên gia đánh giá là hứa hẹn mở ra “một trang mới” trong hoạt động của Liên hợp quốc trên lĩnh vực này.

Phương thức hoạt động của HRC là đưa ra báo cáo hoạt động hàng năm với Đại hội đồng hay còn gọi là cơ chế “Đánh giá định kỳ chung (phổ quát) – Universal Periodic Review – UPR). Thay thế cho phương thức hoạt động của ủy ban nhân quyền trước đây là: Hàng năm, chọn ra các vụ việc nghiêm trọng nhất về quyền con người xảy ra ở các quốc gia trên thế giới để đưa ra xem xét, đánh giá, thì Hội đồng quyền con ngưòi tiến hành một thủ tục mới là đánh giá định kỳ chung (UPR). UPR sẽ đánh giá định kỳ việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về quyền con người của tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc dựa trên các báo cáo từ các nguồn khác nhau.

Để thực hiện UPR, một Nhóm công tác (working group) về UPR do HRC thành lập sẽ tiến hành ba kỳ họp mỗi năm, mỗi kỳ họp kéo dài 2 tuần để đánh giá 16 quốc gia. Như vậy, mỗi năm UPR sẽ đánh giá đuợc 48 quốc gia và phải mất bốn năm để hoàn tất thủ tục này với toàn bộ 192 quốc gia thành viên của Liên hơp quốc (dự tính đến hết năm 2011, với 12 kỳ họp mới có thể kết thúc vòng đánh giá đầu tiên theo UPR).

Tiến trình UPR về cơ bản bao gồm các bước như sau:

-          Xem xét, đánh giá: Được thực hiện ở Geneva dưới dạng đối thoại trong ba giờ giữa quốc gia được xem xét với các thành viên Nhóm công tác về UPR, các quốc gia thành viên và quan sát viên của HRC.

-          Thực hiện các khuyến nghị: Quốc gia được xem xét sẽ áp dụng các khuyến nghị đã nêu trong báo cáo và thông báo về kết quả của việc áp dụng các khuyến nghị đó trong lần báo cáo định kỳ tiếp theo của nước mình.

1.2.  Ủy ban cố vấn (Advisory Committee)

Tương tự như mô hình tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của CHR trước đây, HRC thành lập một ủy ban cố vấn để hỗ trợ Hội đồng trong các hoạt động chuyên môn. Ủy ban này bao gồm 18 chuyên gia được Hội đồng bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín từ danh sách các ứng cử viên mà các quốc gia thành viên đề cử. Mặc dù vậy, các chuyên gia thành viên của ủy ban hoạt động với tư cách cá nhân. Nhiệm kỳ của mỗi chuyên gia là 3 năm, chỉ được bầu lại một lần.

Cơ cấu của ủy ban cố vấn được cân nhấc để đảm bảo tính cân bằng về giới và về khu vực địa lý. Cụ thể, để đảm bảo sự cân bằng về khu vực địa lý, thành phần của ủy ban được phân bổ như sau: Các quốc gia châu Phi: 5 ghế; các quốc gia Châu Á: 5 ghế; các quốc gia Đông Âu: 2 ghế; các quốc gia Châu Mỹ La tinh và Caribê: 3 ghế; các quốc gia Tây Âu và các quốc gia ở khu vực khác: 3 ghế.

Về hoạt động, ủy ban cố vấn họp tối đa 2 kỳ một năm, mỗi kỳ tối đa 10 ngày, ngoài ra có thể họp các kỳ bổ sung với sự chấp thuận của HRC. Về trách nhiệm, ủy ban cố vấn chịu sự điều phối của HRC. Hội đồng có thể yêu cầu toàn bộ, một nhóm thành viên hoặc một cá nhân thành viên của ủy ban cố vấn thực hiện những nhiệm vụ nhất định.

2. Cơ chế dựa trên công ước (Treaty – based mechanism)

Cơ chế này được dựa trên các ủy ban giám sát việc thực hiện một số công ước quốc tế về quyền con người (treaty-based bodies), được thành lập theo quy định của chính các công ước đó (ngoại trừ Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được thành lập theo một Nghị quyết của ECOSOC).

Hiện tại, có 9 công ước được coi là điều ước quốc tế căn bản về quyền con người (core international human riẹhts treaties) của Liên hợp quốc. Một trong số đó hiện chưa có hiệu lực là Công ước về cưỡng bức đưa đi mất tích. Các công ước còn lại được giám sát bởi các ủy ban giám sát và một cơ quan tương tự là nhóm công tác. Cụ thể, các Ủy ban giám sát công ước đang hoạt động bao gồm: ủy ban về xoá bỏ sự phân biệt chủng tộc (thành lập theo Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965); ủy ban quyền con người (thành lập theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966); ủy ban về xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ (thành lập theo Công ước quốc tế về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979); ủy ban chống tra tấn (thành lập theo Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác năm 1987); ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá (thành lập theo một nghị quyết của ECOSOC); ủy ban về quyền trẻ em (thành lập theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989); Ủy ban bảo vệ quyền của những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ (thành lập theo Công ước về bảo vệ quyền của những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ năm 1990); ủy ban về quyền của người khuyết tật (thành lập theo Công uớc về quyền của người khuyết tật năm 2007).

3. Những điểm khác biệt cơ bản giữa hai cơ chế

Việc áp dụng cơ chế dựa trên Hiến chương là nghĩa vụ phổ quát, có tính chất bắt buộc giữa các quốc gia trên thế giới. Còn cơ chế dựa trên công ước thì phụ thuộc vào việc quốc gia đó tham gia vào điều ước như thế nào.

1.Hiến chương Liên Hiệp Quốc của Liên Hiệp Quốc (Conference on International Organization) ký kết tại San Fransisco, California, Hoa Kỳ, ngày 26/6/1945 bởi 50 nước thành viên đầu tiên, có hiệu lực từ ngày 24/10/1945 sau khi được phê chuẩn bởi 5 nước thành viên sáng lập – Trung Quốc, Liên Xô, Pháp, Anh, Hoa Kỳ và nhiều nước khác.

2. Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, Khoa Luật – ĐHQGHN, 2009.

Thúc Đẩy Không Gian Xã Hội Dân Sự Ở Việt Nam Nhằm Thực Hiện Nghĩa Vụ Quốc Tế Về Quyền Con Người

Thúc đẩy không gian xã hội dân sự ở Việt Nam nhằm thực hiện nghĩa vụ quốc tế về quyền con người

TS. NGUYỄN LINH GIANG

Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

ThS. NGÔ THỊ THU HÀ

Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ

Trong những năm gần đây, sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội dân sự (XHDS) trong tiến trình bảo đảm và thúc đẩy quyền con người (QCN) trên toàn thế giới đã được Liên hợp quốc (LHQ) và các tổ chức quốc tế ghi nhận. Việc mở rộng không gian XHDS nhằm thực hiện nghĩa vụ quốc tế về QCN, vì thế đã trở thành một xu thế chung trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài tiến trình đó. 

1. Thực hiện nghĩa vụ quốc tế về quyền con người

Thực hiện nghĩa vụ quốc tế về QCN, trước tiên là thực hiện nghĩa vụ của một quốc gia thành viên của LHQ và thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên của các Công ước quốc tế về QCN. Nếu xét ở nghĩa rộng, thực hiện nghĩa vụ quốc tế về QCN có rất nhiều việc phải làm, trong đó có những nghĩa vụ khá trừu tượng như tôn trọng Hiến chương LHQ, tôn trọng các nguyên tắc căn bản của pháp luật quốc tế, trong đó có pháp luật quốc tế về QCN. Nhưng cụ thể, để thực hiện nghĩa vụ một quốc gia thành viên của LHQ và thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên của các Công ước quốc tế về QCN bao gồm những công việc sau:

-   Tham gia tích cực vào các hoạt động về QCN của LHQ, trong đó tập trung vào các hoạt động được thực hiện trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ và các cơ quan khác trực thuộc LHQ;

-   Đóng góp tích cực cho việc xây dựng các giá trị về QCN ở tầm khu vực và quốc tế;

-   Thực hiện báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ phổ quát về tình hình thực hiện QCN (UPR) và thực hiện các khuyến nghị được chấp nhận trong quá trình này;

-   Nội luật hóa các quy định trong các Công ước quốc tế về QCN mà quốc gia là thành viên và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định đó;

-   Thực thi đầy đủ và tận tâm các cam kết quốc tế về QCN.

Trong quá trình thực hiện các nghĩa vụ kể trên, ngoài nỗ lực của các quốc gia, còn có nỗ lực của toàn xã hội, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các tổ chức XHDS. Vì thế, việc mở rộng không gian XHDS chính là việc thúc đẩy tiến trình bảo đảm và bảo vệ QCN tại một quốc gia, thông qua thực hiện tốt hơn các nghĩa vụ quốc tế về QCN.

2. Xã hội dân sự và vai trò của xã hội dân sự trong quá trình thực hiện các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người

Các tác nhân XHDS (civil society actors), theo khái niệm của Cao ủy LHQ về QCN, không chỉ là các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội mà còn bao gồm các nhóm và cá nhân, bao gồm những người hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực QCN [2]

Trong quá trình thực hiện các nghĩa vụ quốc tế về QCN, XHDS thường tham gia và đóng góp cho các hoạt động sau:

-       Theo dõi công tác nội luật hóa và thực hiện các quy định về QCN: Các tổ chức XHDS đóng vai trò quan trọng trong việc theo dõi công tác nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế về QCN và việc thực thi các quy định này. Ở đây, các tổ chức XHDS đóng vai trò phản biện xã hội, đảm bảo cho tiến trình này được thực hiện thường xuyên, minh bạch và hiệu quả.

Tham gia chuẩn bị các báo cáo quốc gia: Các báo cáo quốc gia ở đây chính là các báo cáo UPR và các báo cáo gửi đến các Ủy ban Công ước về QCN để báo cáo về tình hình thực hiện QCN ở quốc gia đó trong thời gian báo cáo

Các báo cáo quốc gia ở đây chính là các báo cáo UPR và các báo cáo gửi đến các Ủy ban Công ước về QCN để báo cáo về tình hình thực hiện QCN ở quốc gia đó trong thời gian báo cáo [3]

Trong tiến trình UPR, các tổ chức XHDS có thể tham gia thông qua việc đóng góp ý kiến, cung cấp thông tin cho báo cáo UPR của quốc gia, họ cũng có thể làm các báo cáo bóng (shadow report), đồng thời cũng có thể tham gia vào “Phiên họp trước UPR” (UPR Pre-sessions) do UPR Info tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ vào khoảng hai tháng trước khi UPR quốc gia chính thức diễn ra.

-       Giúp các Uỷ ban Công ước đặt câu hỏi: Các Ủy ban Công ước thường sử dụng thông tin của các tổ chức XHDS để đặt ra các câu hỏi cho quốc gia báo cáo trước hoặc trong quá trình báo cáo.

-       Theo dõi việc thực hiện khuyến nghị: Các tổ chức XHDS đóng một vai trò thiết yếu trong việc theo dõi và thực hiện các khuyến nghị. Đối với UPR đó là việc theo dõi thực hiện các khuyến nghị đã được quốc gia chấp nhận. Đối với các Công ước quốc tế về QCN, các tổ chức XHDS cũng theo dõi việc thực hiện các khuyến nghị được đưa ra trong kết luận của Ủy ban Công ước sau các phiên báo cáo quốc gia.

-       Tuyên truyền, vận động chính sách: Các tổ chức xã hội luôn là các chuyên gia trong việc tuyên truyền và lôi kéo sự chú ý của công chúng, phổ biến các thông tin và đồng thời cả vận động chính sách. Chính vì vậy, họ là những nhân tố quan trọng trong quá trình giáo dục QCN, phổ biến và đưa các thông tin về QCN đến công chúng. Các tổ chức XHDS cũng có thể vận động các chính sách thông qua việc tổ chức các hội nghị, hội thảo, gặp gỡ các quan chức nhà nước để đưa ra các đề nghị, tư vấn.

-       Giúp đỡ các nạn nhân của vi phạm QCN: Đây cũng là một vai trò chính của các tổ chức XHDS. Các cá nhân đơn độc thì thường yếu thế, đôi khi thiếu hiểu biết và thiếu năng lực để tự bảo vệ bản thân. Với sự giúp đỡ của các tổ chức XHDS, các nạn nhân của vi phạm QCN sẽ được bảo vệ tốt hơn.

-       Cung cấp thông tin cho các Ủy ban khi điều tra: Ở các quốc gia chấp nhận thủ tục khiếu kiện cá nhân, khi có khiếu kiện, Hội đồng Nhân quyền hoặc các Ủy ban Công ước sẽ tiến hành điều tra. Trong quá trình đó, thông tin đến từ các tổ chức XHDS luôn được đánh giá cao và có thể là căn cứ cho Hội đồng Nhân quyền hoặc các Ủy ban Công ước quyết định.

-       Theo dõi trong ngày báo cáo: Thông thường ở UPR cũng như ở các buổi báo cáo ở Ủy ban Công ước thì các tổ chức XHDS thường tham gia vào các buổi họp trước (plenary sessions). Tuy nhiên, nếu muốn được tham gia vào các buổi báo cáo chính thức như các quan sát viên (không được tham gia vào các trao đổi) thì các tổ chức XHDS có thể liên lạc trước với Ban thư ký và có thể được phép tham gia.

Như vậy, các tổ chức XHDS đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện và theo dõi thực hiện các nghĩa vụ quốc tế về QCN. Để tiến trình này có giá trị thực tiễn thì việc tăng cường sự tham gia của các tổ chức XHDS là một việc làm cần thiết, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ.

3. Thúc đẩy không gian xã hội dân sự để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam

3.1 Không gian XHDS phải được gắn với quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng

Không gian XHDS là nơi mà bất cứ ai cũng có thể tham gia và trao đổi ý kiến với nhau mà không chịu bất cứ áp lực nào từ bên ngoài. Vì thế, nếu không có tự do ngôn luận và tự do tư tưởng thì không gian XHDS đương nhiên sẽ không hình thành, hoặc là có tự do ngôn luận và tự do tư tưởng một cách hình thức thì không gian XHDS dù có hình thành cũng không được xem là hoàn thiện.

Việt Nam đã có Luật Báo chí, Luật Xuất bản và có rất nhiều cơ quan báo chí, đã góp phần thúc đẩy phát triển không gian XHDS thông qua các diễn đàn, các bài viết và tranh luận hết sức cởi mở, thẳng thắn về các vấn đề như chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, thúc đẩy quan hệ đối ngoại của quốc gia… Nhưng dường như, những điều đó vẫn chưa đủ để làm nên một không gian XHDS đúng nghĩa nếu như Luật Tiếp cận thông tin không được thực thi hiệu quả. Sẽ không thể có tự do ngôn luận nếu tự do thông tin chưa được đảm bảo. Xét cho cùng, việc ban hành và đảm bảo thực thi pháp luật về tiếp cận thông tin, báo chí và xuất bản chính là một trong những cơ sở để thúc đẩy không gian XHDS.

3.2 Không gian XHDS phải gắn với quyền tự do lập hội và tự do hội họp

Đồng thời với tự do hội họp là tự do lập hội. Trong không gian XHDS, ban đầu con người có xu hướng chỉ nói các suy nghĩ cá nhân của mình, nhưng khi không gian này đã phát triển hơn nữa, mỗi người sẽ có xu thế gắn kết bản thân mình với một tổ chức nào đó và vì thế người ta cần có tự do lập hội. Quyền tự do lập hội gắn với tự do dân chủ bởi xã hội càng phát triển, vai trò của các hội đoàn XHDS ngày càng trở nên mạnh mẽ. Chính vì vậy, luật quốc tế quy định quá trình đăng ký thành lập tổ chức XHDS phải rõ ràng, đơn giản, nhanh chóng, và không đòi hỏi chi phí lớn.

Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội và sự mở cửa hợp tác về chính trị, quân sự, ngoại giao… chính sách của Nhà nước đối với các hội nghề nghiệp đã có nhiều cởi mở. Hiện nay, chúng ta có rất nhiều các hội nghề nghiệp cũng như là các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội. Việc ra đời rất nhiều các hội nghề nghiệp trong thời gian qua đã chứng tỏ nhu cầu của người dân về việc thành lập hội cũng như chứng tỏ nghĩa vụ của Nhà nước đối với nhu cầu chính đáng đó.  

Sẽ không thể có những diễn đàn phản biện xã hội đúng nghĩa, cũng như Nhà nước sẽ khó nắm bắt thông tin, nguyện vọng của nhân dân nếu như những nguyện vọng đó lại chỉ được thể hiện thông qua các phát biểu của một số cá nhân riêng lẻ. Tiếng nói của các hội thông qua không gian XHDS phát triển sẽ hơn bao giờ hết luôn là những tiếng nói tiêu biểu cho nhiều tầng lớp công chúng khác nhau. Sẽ chỉ có nhà nước pháp quyền một cách đúng nghĩa nếu như người dân thực sự trở thành một đối tác chính trị của nhà nước. Mà bản thân mỗi người dân không đủ sức để làm việc này, nhưng nếu có các hội đoàn XHDS đại diện cho tiếng nói nhân dân bên cạnh tiếng nói của các cá nhân uy tín, những người hoạt động bảo vệ QCN thì mối quan hệ hai chiều này sẽ được giải quyết hiệu quả. Thực tiễn cuộc sống đang đòi hỏi phải có một Luật về Hội được soạn thảo hoàn chỉnh và thông qua nhanh chóng trên tinh thần đảm bảo quyền tự do lập hội và hội họp.

3.3 Không gian XHDS phải gắn với quyền được tham gia của người dân

Không gian XHDS chính là nơi thể hiện sự tham gia của người dân một cách rõ nét. Nếu người dân thờ ơ với chính trị, với công việc của nhà nước thì đương nhiên họ cũng không quan tâm đến không gian XHDS. Người ta chỉ tham gia vào không gian XHDS và chịu nói lên suy nghĩ của mình chỉ khi họ cảm thấy những điều đó thực sự có ích và có đóng góp cho xã hội. Nếu người dân cảm thấy họ là một phần của quá trình ra quyết định và những ý kiến của họ được quan tâm thì rõ ràng họ sẽ càng tích cực tham gia vào các diễn đàn để góp phần làm phong phú thêm bộ mặt của không gian XHDS.

Ở Việt Nam, khung pháp lý cho sự tham gia của người dân cho tới nay đã có nhiều tiến bộ, nhưng dường như là vẫn chưa đủ. Người dân muốn tham gia ý kiến của mình thì trước hết họ phải được thông tin. Vấn đề này lại quay trở lại với quyền tự do thông tin gắn với Luật Tiếp cận thông tin. Sự tham gia của người dân sẽ bị cản trở nếu không có thông tin hoặc thông tin đến với người dân không đủ, không đúng. Hiện nay, chúng ta đang thiếu khung pháp lý về việc phản hồi của các cơ quan công quyền đối với đóng góp của người dân. Mặc dù Luật Báo chí đã có quy định về phản hồi dành cho các cơ quan báo chí, Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã có quy định về việc tham vấn ý kiến của các nhóm công chúng bị ảnh hưởng bởi luật pháp, chính sách và công bố công khai kết quả khảo sát ý kiến của người dân, nhưng những quy định này dường như vẫn chưa đủ để khuyến khích người dân tham gia đóng góp ý kiến của mình với công việc công. Người dân chỉ muốn tham gia thật sự khi họ nhận ra rằng, ý kiến của mình đang được tôn trọng, đang được lắng nghe và nó thật sự có ích cho quá trình phát triển xã hội.

Trong xã hội hiện đại, sự tham gia của người dân còn được thể hiện thông qua các cuộc trưng cầu ý dân. Thông qua các cuộc trưng cầu ý dân công khai, các ý kiến lựa chọn của người dân được thể hiện rõ nét và dân chủ. Hiện nay, Luật Trưng cầu ý dân của Việt Nam đã có hiệu lực, nhưng hiệu quả của Luật này đến đâu thì vẫn còn là vấn đề đang để ngỏ.

3.4 Không gian XHDS phải gắn với sự phát triển của thông tin truyền thông

Tự do tư tưởng, tự do báo chí và xuất bản, tự do tham gia vào quá trình ra quyết định… chưa đủ để tạo nên một không gian XHDS đúng nghĩa. Trong khi đánh giá về không gian XHDS, cần phải tính đến sự phát triển của thị trường truyền thông. Các phương tiện thông tin đại chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo lập và phát triển một không gian XHDS. Báo chí vừa đóng vai trò là cơ quan thông tin, đồng thời vừa là người dẫn dắt và định hướng tư duy của công chúng. Hơn thế nữa, báo chí cũng là diễn đàn phản ánh các luồng tư tưởng khác nhau, là nơi cả người dân và nhà nước chia sẻ quan điểm của mình một cách công khai và thẳng thắn. Rõ ràng, muốn phát triển không gian XHDS thì đương nhiên không thể không tính đến sự phát triển của thị trường truyền thông.

“Cơ chế bảo vệ QCN, cơ chế bảo hộ quyền cơ bản của công dân theo yêu cầu của Hiến pháp năm 2013” do Viện Nghiên cứu Lập pháp chủ trì.[1] Bài viết là kết quả của Đề tài khoa học cấp Bộ:do Viện Nghiên cứu Lập pháp chủ trì.

Khái Quát Về Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Và Các Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp

1. Khái niệm về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp

 

 Để làm rõ khái niệm bảo vệ QSHCN, trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm về bảo hộ, thực thi QSHCN và mối liên hệ giữa chúng.

Trong Công ước Paris, bảo hộ QSHCN bao gồm các đối tượng là sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn xuất xứ hoặc tên gọi xuất xứ hàng hóa, cũng như việc ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.

Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “bảo hộ” được hiểu theo nghĩa thông thường là “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất”. Việc bảo hộ luôn được gắn với sự quản lý của nhà nước thông qua các giải pháp để bảo vệ, giúp đỡ, hỗ trợ bằng chính sách, pháp luật mà mỗi quốc gia dành cho công dân hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động, cư trú ở nước đó.

        Theo TS. Nguyễn Thanh Tâm: bảo hộ QSHCN được hiểu là việc nhà nước, bằng những quy định của pháp luật, xác lập QSHCN, xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó. Trong Luật SHTT, nội dung nhà nước bảo hộ đối với QSHCN là các quy định về việc bảo hộ QSHCN tại các cơ quan quản lý nhà nước như: các điều kiện bảo hộ, nội dung quyền SHCN, giới hạn QSHCN, thời hạn bảo hộ QSHCN, chuyển giao QSHCN, chứng nhận QSHCN…qua đó nhà nước đảm bảo quyền sở hữu với các đối tượng của QSHCN cho các cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác đã được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ hoặc được thừa nhận. Hoạt động bảo hộ dưới góc độ của quản lý nhà nước đó chính là việc xác lập quyền cho các chủ sở hữu QSHCN theo quy định của pháp luật. QSHCN được nhà nước bảo hộ bằng các chính sách và hệ thống pháp luật về QSHCN. 

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội thì: bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể QSHCN như tác giả, chủ văn bằng bảo hộ và người sử dụng hợp pháp đối tượng QSHCN.

  Do vậy, bảo hộ QSHCN được hiểu là nhà nước, bằng những quy định của pháp luật xác lập QSHCN (cấp văn bằng bảo hộ), xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó.

Thực thi QSHCN là việc thực hiện pháp luật về SHCN, thông qua sự bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ, chấp hành pháp luật dù muốn hay không muốn. Nói tới thực thi QSHCN là nói tới trình tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện pháp xử lý, các chế tài do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành vi vi phạm.

 Xét về bản chất, nội dung quan trọng nhất của QSHCN là độc quyền sử dụng, khai thác đối tượng thuộc quyền. Vì vậy, thực thi QSHCN cũng có nghĩa là đảm bảo quyền khai thác, sử dụng đối tượng QSHCN của chủ thể nắm giữ quyền đó sao cho khi tiến hành việc khai thác sử dụng, người nắm giữ quyền không gặp phải sự cản trở từ phía người thứ ba. Nói cách khác, bản chất của việc bảo đảm điều kiện cần thiết để các chủ thể QSHCN thực hiện các quyền của mình là ngăn chặn mọi hành vi cản trở việc sử dụng, khai thác đối tượng QSHCN của chủ thể quyền.

Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn thi hành, vấn đề thực thi QSHCN được tiếp cận và giải quyết theo hướng bảo đảm các điều kiện ngăn ngừa và ngăn chặn việc người thứ ba (người không nắm giữ quyền) khai thác, sử dụng các đối tượng QSHCN đang trong thời hạn bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh mà không được phép của người nắm giữ quyền và không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép sử dụng. Như vậy, mục đích của thực thi QSHCN là ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN, tạo ra sức sống trên thực tế cho các quy phạm pháp luật về SHCN.

Tóm lại, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là bằng những quy định của pháp luật, Nhà nước xác định những hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và quy định các biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác trong hoạt động sở hữu công nghiệp.

Bảo vệ QSHCN hiện nay là đòi hỏi khách quan, không chỉ nhằm bảo vệ quyền của người sáng tạo, mà còn là cơ chế bảm bảo sự công bằng, thúc đẩy hoạt động sáng tạo tìm tòi của con người, góp phần bảo đảm một nền thương mại bình đẳng, dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh; góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hợp pháp, qua đó nâng cao sự phát triển của toàn xã hội.

        Ý nghĩa của việc bảo vệ QSHCN

        Mục tiêu cuối cùng của hệ thống bảo vệ QSHCN chính là chống lại nguy cơ bị lợi dụng hoặc chiếm đoạt kết quả đầu tư sáng tạo và bảo vệ các cơ hội cho người đã đầu tư để tạo ra các kết quả sáng tạo đó, nhờ vậy mà kích thích, thúc đẩy các nỗ lực sáng tạo trong nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh. Hiển nhiên, mục tiêu nói trên sẽ không đạt được nếu không khắc phục được tệ nạn xâm phạm QSHCN. Hệ thống bảo vệ QSHCN chính là đảm bảo ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN. Vì vậy, bảo vệ QSHCN chính là bảo đảm hiệu lực QSHCN của chủ thể quyền, khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo, phát triển sản xuất, buôn bán trong nước.

       Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc QSHCN không được bảo vệ và thực thi thoả đáng, hiệu quả thì sẽ bị coi là thực tiễn thương mại thiếu lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Vì, khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D), có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều, và vì thế chiếm chỗ và loại các sản phẩm hợp pháp và chính hiệu ra khỏi thị trường đó. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới, làm thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại và đầu tư của họ. Hiện nay, nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, đã coi việc bảo vệ các tài sản trí tuệ của họ như là điều kiện không thể thiếu được trong việc thiết lập các quan hệ thương mại (ví dụ như Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ). Tại Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định rằng, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế – xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Do đó, nếu hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp không hiệu quả thì sẽ làm tổn hại đến chính sách hội nhập quốc tế và đầu tư nước ngoài của quốc gia cho sự phát triển của mình.

Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thương mại toàn cầu, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã kích thích nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng. Điều đó đòi hỏi các nhà sản xuất phải nhanh chóng đưa ra thị trường các sản phẩm mới có sự thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã, cũng như sự hoàn thiện về tính năng, tác dụng. Có thể khẳng định rằng, hiện nay không có hàng hoá có giá trị nào được thị trường chấp nhận mà lại không chứa các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là một điều kiện không thể thiếu để các nhà sản xuất có thể duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, có thể nói, các đối tượng sở hữu công nghiệp được tạo ra để đáp ứng nhu cầu nhất định của người tiêu dùng và việc đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp cũng chính là bảo đảm cho người tiêu dùng được sử dụng sản phẩm chính hiệu, đảm bảo chất lượng đúng bản chất của nó. Và như vậy, hệ thống bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, mà còn là phương tiện để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tức là hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp còn có ý nghĩa nhất định đối với xã hội.

Hiểu rõ vai trò của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong phát triển kinh tế – xã hội, Việt Nam đang chú trọng tạo dựng một hệ thống thực thi có hiệu quả trong hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng để đạt được sự phát triển kinh tế đất nước nhanh chóng trong xu thế hội nhập với chính sách phát huy nội lực và tranh thủ sự đầu tư nước ngoài.

 

2. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp

 

Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, vi phạm hoặc tranh chấp về sở hữu công nghiệp, có thể áp dụng một hoặc một số trong ba loại trình tự pháp luật sau đây với mục đích nhằm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp: bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự (tiến hành các vụ kiện theo thủ tục dân sự); bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính (đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính) và bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hình sự (xét xử tội phạm về sở hữu công nghiệp). Cụ thể từng loại trình tự đó như sau:

 

2.1. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính

 

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự hành chính (bằng biện pháp hành chính) là thủ tục xử lý hành chính các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng việc áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.

Hình thức xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp gồm các hình thức sau:

(i) Hình thức xử phạt chính là: Cảnh cáo hoặc phạt tiền;

(iii) Các biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc tiêu huỷ vật phẩm, hàng hoá vi phạm; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên sản phẩm, hàng hoá, phương tiện kinh doanh…

 

2.2. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự

 

Như phần trên đã đề cập, các đối tượng sở hữu công nghiệp được coi là một loại tài sản và quyền sở hữu công nghiệp có bản chất là một loại quyền sở hữu tài sản. Bởi vậy, quyền sở hữu công nghiệp trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự. Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ quyền sở hữu công nghiệp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền phải tự chấm dứt vi phạm, yêu cấu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi người xâm phạm nhận được yêu cầu xong không chấm dứt hành vi vi phạm. Để nhận được sự bảo vệ như vậy, người nắm giữ quyền phải chỉ ra người xâm phạm, phải chứng minh hành vi xâm phạm và có quyền đưa ra các yêu cầu về hình thức xử lý, nhưng trước hết bản thân người nắm giữ quyền phải chủ động tự mình tiến hành việc theo dõi, giám sát thị trường để phát hiện người và nơi đã thực hiện hành vi xâm phạm để cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý. Cơ quan có thẩm quyền chỉ chấp nhận xử lý theo yêu cầu của người nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp khi hành vi xâm phạm quyền được người đó chứng minh thông qua việc cung cấp chứng cứ. 

Trong các loại tranh chấp dân sự về sở hữu công nghiệp được giải quyết tại Toà án có các tranh chấp về việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, tức là về việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Việc giải quyết tranh chấp có thể được khái quát như sau:

– Quyền khởi kiện dân sự: Theo nguyên tắc thông thường, người nào chứng minh được rằng mình là người có quyền hợp pháp theo quy định của pháp luật đều có quyền khởi kiện với lý do quyền của mình không được tôn trọng hoặc bị xâm phạm. Theo nguyên tắc đó, người có quyền khởi kiện về việc xâm phạm quyền của mình là người được cấp Văn bằng bảo hộ hoặc có căn cứ để chứng minh là người nắm giữ quyền.

Hầu hết quyền sở hữu công nghiệp đều có phạm vi (khối lượng) xác định và có thời hạn. Do vậy, quyền khởi kiện cũng chỉ giới hạn tương ứng với phạm vi và thời hạn đó. Theo quy định về tố tụng dân sự, quyền khởi kiện có đặc tính thời hiệu, nếu quá thời hiệu đó, quyền khởi kiện bị coi như mất.

Khi khởi kiện, người khởi kiện (nguyên đơn) phải chứng minh quyền khởi kiện của mình bằng cách xuất trình các chứng cứ cần thiết như: Văn bằng bảo hộ, các tài liệu chứng minh sự phát sinh quyền…

 Nghĩa vụ chứng minh trong các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: bên khởi kiện (nguyên đơn) có nghĩa vụ phải chỉ ra tên, địa chỉ người bị kiện, mô tả và chứng minh hành vi hoặc sự kiện là đối tượng của vụ kiện. Để làm được điều đó, nguyên đơn phải xuất trình các chứng cứ nhằm chứng minh cho các yêu cầu của mình. Nguyên đơn phải tự tiến hành điều tra, xác minh để phát hiện người xâm phạm quyền, thu thập chứng cứ để chứng minh về hành vi xâm phạm, đánh giá thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền đó gây ra. Nếu không có hoặc không đủ chứng cứ đáng tin cậy để chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, Toà án sẽ bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.

Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự dân sự: Tuỳ theo tính chất, nội dung và mức độ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, người nắm giữ quyền có thể yêu cầu Toà án áp dụng và thực hiện một hoặc một số biện pháp xử lý sau:

(i) Bắt buộc người xâm phạm (bị đơn) chấm dứt hành vi xâm phạm, kể cả các biện pháp ngăn ngừa việc đưa các sản phẩm xâm phạm vào các kênh thương mại, nếu sản phẩm đó đã được nhập khẩu và hoàn tất thủ tục hải quan;

(ii) Bắt buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại, kể cả khoản lợi nhuận đáng lẽ mình thu được khi không xảy ra hành vi xâm phạm của bị đơn;

(iii) Bắt buộc bị đơn phải trả cho mình chi phí tham gia vụ kiện, kể cả chi phí hợp lý để thuê luật sư.

Nhằm đối phó với tình trạng tẩu tán, tiêu huỷ tang vật xâm phạm hoặc tẩu tán tài sản dùng để thi hành lệnh xử lý hoặc bồi thường trong các tình huống đặc biệt, người có quyền sở hữu công nghiệp bị xâm phạm có thể yêu cầu Toà án ra lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nội dung của biện pháp tạm thời có thể là:

(i) Tạm giữ hàng hoá, sản phẩm bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi có căn cứ để nghi ngờ rằng bên xâm phạm có thể tẩu tán hoặc tiêu huỷ các hàng hoá, sản phẩm đó;

(ii) Lục soát nơi tàng trữ hàng hoá bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc nơi mà bị đơn kiểm soát với điều kiện là có cơ sở để tin rằng ở đó có tàng trữ chứng cứ và có nguy cơ chứng cứ đó bị thủ tiêu;

(iii) Tạm thời niêm phong thiết bị, phương tiện được dùng để thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;

(iv) Tạm thời phong toả tài khoản của bị đơn nhằm bảo đảm tài chính để khắc phục hậu quả hoặc đền bù thiệt hại do việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra.

Tuy nhiên, để thuyết phục Toà án thực hiện việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì người yêu cầu phải chứng minh nguy cơ mà nếu không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ đe doạ việc tiến hành xét xử hoặc cản trở việc thi hành các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả thi hành án sau này và phải cam kết đền bù mọi thiệt hại cho bên bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không xác đáng hoặc bị lạm dụng. Thông thường, người yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản tiền bảo chứng đủ để đền bù thiệt hại và bảo vệ lợi ích của bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách thoả đáng khi yêu cầu đó không xác đáng. Và quyền buộc người đã yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải bồi thường thiệt hại do việc áp dụng các biện pháp đó gây ra cho người đã bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu biện pháp đó bị huỷ bỏ hoặc đình chỉ do bất kỳ lý do nào thuộc về người yêu cầu, thuộc về cơ quan tư pháp.

 

2.3. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hình sự

 

Trong trường hợp việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây tác hại nghiêm trọng cho xã hội và việc sử dụng chế tài hành chính không đủ để trừng phạt và răn đe người xâm phạm thì phải áp dụng biện pháp có chế tài mạnh hơn. Biện pháp hình sự, tức là coi người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đó là tội phạm và việc điều tra, xét xử loại tội phạm này phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

Tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của việc phạm tội, mức phạt có thể được áp dụng là phạt tiền hoặc phạt tù tương ứng với hành vi phạm tội quy định tại Bộ luật hình sự.

Đối với bảo vệ quyền SHCN theo thủ tục hình sự, khi xác định chủ thể của hành vi phải là cá nhân cụ thể để truy cứu trách nhiệm hình sự; còn theo thủ tục hành chính thì chủ thể của hành vi có thể là cá nhân hoặc tổ chức.  

Biện pháp hình sự mặc dù có tác dụng ngăn chặn và răn đe lớn đối với các hành vi xâm phạm quyền SHCN vì hình phạt của biện pháp hình sự thường nặng hơn rất nhiều so với hai biện pháp còn lại là dân sự và hành chính song biện pháp này cũng có những khó khăn riêng.

Ví dụ, theo quy định hiện hành thì việc chứng minh “gây hậu quả nghiêm trọng” là dấu hiệu bắt buộc: Tại mục 2.1 của Thông tư liên tịch 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì yếu tố “gây hậu quả nghiêm trọng” dựa trên các trường hợp: đã thu được lợi nhuận từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu nhãn hiệu từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng; hàng hóa vi phạm có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng.

Trong thực tế, việc chứng minh lợi nhuận của người có hành vi xâm phạm quyền SHCN là khó khăn vì những đối tượng này thường ít sử dụng giấy tờ, sổ sách phục vụ thu thập chứng cứ chứng minh lợi nhuận.

 

3. Lựa chọn biện pháp dân sự hay hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp

 

Thông qua việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN, Tòa án sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về SHCN. Thông thường, việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN tại Tòa án là cơ chế bảo hộ hữu hiệu nhất bởi QSHCN với bản chất là quyền dân sự, do vậy tranh chấp phát sinh từ QSHCN là các tranh chấp dân sự. Bảo vệ QSHCN không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền với việc bảo vệ quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHCN. Trong đó quyền nhân thân là quyền thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với các đối tượng của QSHCN, còn quyền tài sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất từ việc cho phép sử dụng các đối tượng QSHCN thuộc sở hữu của mình.

Như trên đã đề cập, nói đến QSHCN là nói đến sự công nhận từ phía nhà nước đối với một quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức. Bởi vậy, QSHCN trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự, pháp luật về bảo vệ QSHCN cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ QSHCN có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi có sự xâm phạm.

        So với bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính, chúng ta thấy: đặc điểm quan trọng của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính chính là ý nghĩa trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền. Mọi hành vi xâm phạm, người thực hiện hành vi xâm phạm mà có gây tổn hại cho xã hội thì đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý hành chính. Bên cạnh đó, biện pháp hành chính có tính tới đến tăng nặng mức phạt đối với các tình tiết tăng nặng như: vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm khi người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó, sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che dấu vi phạm…Tuy nhiên, biện pháp hành chính không thể buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền. Đây là hạn chế của việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính. Trong quá trình thụ lý và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, cơ quan hành chính có thẩm quyền thường chỉ xử phạt hành vi xâm phạm quyền, còn phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của chủ thể quyền đề nghị tách riêng và thực hiện theo trình tự dân sự. 

        Ngược lại, cơ chế dân sự điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu quyền và người xâm phạm quyền. Chẳng hạn, việc đền bù thiệt hại đã khắc phục tác hại của hành vi xâm phạm quyền gây ra cho người nắm giữ quyền, mà không đền bù thiệt hại cho người thứ ba và xã hội. Các biện pháp xử lý do biện pháp dân sự đưa ra về căn bản, giúp lặp lại thế cân bằng lợi ích cho người có quyền bị xâm phạm. Đối với người thực hiện hành vi xâm phạm, sau khi bị xử lý bằng biện pháp dân sự sẽ trở về trạng thái ban đầu trước khi thực hiện hành vi xâm phạm và không phải chịu trách nhiệm nặng hơn khi tiếp tục có hành vi xâm phạm. Chính vì vậy, việc thực hiện bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự sẽ đạt được mục tiêu là ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể quyền.

Tuy nhiên, hiện nay nhiều ý kiến cho rằng: ý nghĩa trừng phạt của biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền thì việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính có tác dụng răn đe và phòng ngừa cao và chính vì vậy nó bảo đảm khắc phục phần nào khiếm khuyết trong việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự. Mặt khác, việc xâm phạm QSHCN nếu muốn xử lý theo thủ tục dân sự, thì bản thân chủ thể quyền hoặc đại diện của chủ thể quyền (nguyên đơn) phải gửi đơn khiếu kiện đến Toà án và phải đáp ứng yêu cầu tự chứng minh (tự cung cấp các chứng cứ để chứng minh hành vi xâm phạm quyền đối với bị đơn). Việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo thủ tục hành chính trong trường hợp là hàng hóa giả mạo thì không bắt buộc chủ sở hữu quyền phải có đơn đề nghị xử lý, nếu được dư luận phát hiện hoặc do chính cơ quan có thẩm quyền biết được, thì đều có thể dẫn tới việc áp dụng các biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm đó. Bên cạnh đó, cơ quan hành chính có thẩm quyền có thể tự thu thập chứng cứ để xác minh làm rõ đối với hành vi xâm phạm quyền cho quyết định xử lý của mình.

Chuẩn Mực Quốc Tế Về Bảo Đảm Quyền Con Người Của Phụ Nữ Trong Tư Pháp Hình Sự

Xét dưới góc độ nhân quyền, thì quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực tư pháp hình sự phải được ghi nhận và bảo vệ đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt hành pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp. Bài viết này khái quát chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền của phụ nữ trong tư pháp hình sự. From the aspect of human rights, human rights of women in the criminal justice area should be fully acknowledged and protected by law and the correct executive implementation and the justice maximum guaranty. This paper generalizes international standard on guaranty of women rights in the criminal justice. 1. Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực tư pháp hình sự là một nội dung quan trọng trong luật nhân quyền quốc tế và được thể hiện trong nhiều văn kiện pháp lý như: Hiến chương Liên Hợp quốc (1945); Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948); Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ (1952); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (1979) (CEDAW); Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT, 1984); Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi…

Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người[1]. Luật Nhân quyền quốc tế khẳng định, các quyền cơ bản của con người là các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Phụ nữ với tư cách là con người có tất cả những quyền được thừa nhận cho mọi cá nhân trên toàn thế giới, đặc thù giới không làm mất đi bất kỳ một quyền con người cơ bản nào của phụ nữ[2]… Trong cuốn Bách khoa toàn thư thế giới về phụ nữ: Những vấn đề và tri thức toàn cầu về phụ nữ[3] được xuất bản năm 2000, tập thể nhóm tác giả Charlotte Bunch và Samantha Frost trong phần viết “Giới thiệu về các quyền con người của phụ nữ” đã chỉ ra: Quyền con người của phụ nữ là một thuật ngữ để chỉ các quyền của phụ nữ với tư cách là một con người và được xem xét thông qua lăng kính giới. Theo đó, quyền con người của phụ nữ được xem là tất cả các quyền con người mà nhân loại tiến bộ thừa nhận và có thêm những quyền mang đặc thù giới nữ[4]. Rõ ràng, khái niệm quyền con người của phụ nữ là một khái niệm vừa tổng hợp lại vừa đặc thù, là một tập hợp quyền thống nhất, không thể chia cắt, không thể chuyển nhượng và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: “Quyền con người của phụ nữ là những đặc quyền vốn có của một con người như nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích, năng lực được thừa nhận bao gồm cả đặc thù giới và được bảo hộ bằng pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế”.

Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự bằng nhiều phương thức và biện pháp khác nhau, trong đó bảo vệ bằng các quy định pháp luật cũng như đảm bảo thực hiện các quy định đó trên thực tế là quan trọng nhất: “Đảm bảo quyền con người trong tư pháp hình sự là sự vận hành của các yếu tố khách quan nhằm mục đích công bố, ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, bảo vệ và thực thi các quyền đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”[9]. Vì lẽ đó, trong thực tiễn pháp lý, “bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự” được hiểu là các hoạt động giữ gìn, bảo vệ cho phụ nữ khỏi những xâm hại tiêu cực gây tổn thương các quyền con người của phụ nữ, giúp họ tránh các nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra trong quá trình tham gia tố tụng; chủ thể được bảo vệ ở đây được hiểu ở cả hai góc độ nạn nhân và không phải là nạn nhân.

Cùng với khái niệm quyền con người của phụ nữ và quyền con người trong tư pháp hình sự đã được xác định ở trên, có thể tổng hợp một cách đầy đủ về nội hàm khái niệm bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự là việc sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp nhằm bảo vệ và chống lại sự xâm hại đối với những đặc quyền vốn có của một người phụ nữ như nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích, năng lực được thừa nhận cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt, được bảo hộ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự (pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự và pháp luật về tổ chức các cơ quan tư pháp hình sự) khi cá nhân đó phải đối mặt với các thủ tục tố tụng hình sự của bộ máy quyền lực nhà nước.

2. Quan điểm và cơ chế đảm bảo quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự theo quy định của pháp luật quốc tế

Về mặt quan điểm, cộng đồng quốc tế luôn coi quyền con người, trong đó có phụ nữ là giá trị chung của toàn nhân loại. Quan điểm này cũng được gián tiếp phản ánh trong hệ thống văn kiện pháp lý về quyền con người do Liên Hợp quốc và các tổ chức liên chính phủ khác thông qua, thể hiện ở việc xác định tính phổ biến của quyền con người, là bẩm sinh, vốn có và được áp dụng bình đẳng không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì như chủng tộc, tôn giáo, giới tính, độ tuổi[10]… Cộng đồng quốc tế kêu gọi hủy bỏ những điều luật phân biệt đối xử và đảm bảo phụ nữ được bình đẳng khi thực hiện các thủ tục tư pháp, chú ý bảo vệ các quyền con người mang đặc thù giới. Điều 1 Hiến chương của Liên Hợp quốc quy định rằng, một trong những mục đích của Liên Hợp quốc là để thúc đẩy tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người “không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Quy định cấm phân biệt đối xử dựa trên giới tính được nhắc lại ở Điều 13 Hiến chương và Điều 55 (thúc đẩy các quyền con người nói chung). Tuyên bố của Liên Hợp quốc về “Xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ” được các chính phủ thông qua trong phiên họp Đại hội đồng năm 1993 đã khẳng định: “Bất kỳ hành vi bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến tổn hại về mặt thể chất, tình dục hoặc tâm lý cho phụ nữ, bao gồm cả những mối đe doạ của các hành vi như vậy, cưỡng chế hoặc tùy tiện tước đoạt tự do, cho dù xảy ra trong đời sống công cộng hay trong đời sống cá nhân”. Pháp luật quốc tế còn đòi hỏi chế độ bảo hộ đặc biệt với thiên chức làm mẹ của phụ nữ thông qua việc yêu cầu loại bỏ thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ trong pháp luật hình sự quốc gia: “Không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai” (khoản 5 Điều 6 ICCPR). Luật Nhân quyền quốc tế đề nghị các quốc gia tôn trọng, bảo vệ, thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn đảm bảo nhân quyền cho công dân của mình và cam kết thực hiện các nguyên tắc được thiết lập ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Trong lịch sử, các quy định cũng đã đề ra những nguyên tắc và sự giám sát hành động của các cơ quan của nhà nước có thẩm quyền phán quyết dựa trên mệnh lệnh và phục tùng như giết, tra tấn và giam giữ. Nghĩa vụ của Nhà nước là tôn trọng các quyền con người, bao gồm cả quyền của phụ nữ, kêu gọi trách nhiệm của các quốc gia kiềm chế không thực hiện bất kỳ hành động nào xâm phạm các quyền đó[11]. Hiện nay, trách nhiệm của các quốc gia đã được nhận thức rõ ràng trong việc bảo vệ và thực hiện đầy đủ các quyền con người, bảo vệ phụ nữ khỏi những đe dọa xâm hại.

Về cơ chế bảo đảm, Điều 3 Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ quy định: “Các quốc gia thành viên Công ước phải thi hành mọi biện pháp thích hợp, kể cả biện pháp pháp lý… để đảm bảo sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, nhằm mục đích bảo đảm cho họ có thể thực hiện và được hưởng các quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng nam nữ”. Bên cạnh đó, Điều 4 Công ước này khẳng định rằng, ngay cả khi phụ nữ đã được ghi nhận sự bình đẳng về mặt pháp lý, điều đó cũng không đủ để đảm bảo họ sẽ được đối xử một cách bình đẳng trong thực tế. Để đảm bảo quyền của phụ nữ, các quốc gia thành viên được cho phép sử dụng những biện pháp xử lý đặc biệt để đảm bảo quyền đặc thù của phụ nữ. Như vậy, cộng đồng quốc tế đã vượt qua quan điểm hẹp về bình đẳng theo nghĩa thông thường và thiết lập những mục tiêu của riêng nó là bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về kết quả. Các biện pháp đặc biệt tạm thời để chống lại sự phân biệt đối xử với phụ nữ được coi là cần thiết và hợp pháp để đạt được các mục tiêu này. Trong Khuyến nghị chung số 5 được thông qua tại Phiên họp lần thứ 7 (1988) của Ủy ban về xóa bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ nêu rõ rằng: “Các quốc gia thành viên cần ban hành nhiều hơn các biện pháp đặc biệt tạm thời như là những hành động tích cực, sự đối xử ưu đãi hoặc hệ thống các chỉ tiêu để tăng cường việc bảo đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ trong các lĩnh vực…”. Đối với việc bảo đảm quyền con người cho phụ nữ thì sử dụng biện pháp đối xử đặc biệt để bảo vệ chức năng làm mẹ là cách thức duy nhất để bảo đảm bình đẳng thực sự cho phụ nữ, luôn luôn là cần thiết và không bị xóa bỏ[12].

Mặc dù, Nhà nước có trách nhiệm trước tiên đối với việc bảo vệ quyền phụ nữ khi họ bị đe dọa hoặc tấn công, nhưng sự hiện diện của cộng đồng quốc tế cũng như Liên Hợp quốc cũng có trách nhiệm để hỗ trợ và bảo vệ họ theo nguyên tắc cơ bản về sự bảo mật, không gây hại và sự đồng ý của con người. Cộng đồng quốc tế đảm bảo thực thi quyền con người của phụ nữ thông qua bộ máy và cơ chế giám sát gồm có Hội đồng quyền con người, các ủy ban và các nhóm công tác chuyên biệt. Các cơ quan theo dõi việc thực thi là Ủy ban về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và Ủy ban về quyền con người xem xét giải quyết theo thẩm quyền đối với các khiếu nại cá nhân về những vi phạm bị cáo buộc, đồng thời giải quyết những vấn đề phân biệt[13]. Ủy ban phòng chống tra tấn là cơ quan giám sát Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục khác cũng thường xuyên xử lý những vấn đề của bạo lực chống lại phụ nữ và trẻ em gái. Các quốc gia tham gia phê chuẩn Công ước phải định kỳ báo cáo gửi tới các cơ quan này trong đó đưa ra những khuyến nghị về những giải pháp cần thiết để thực hiện nghĩa vụ theo quy định.

Như vậy, đảm bảo quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự là việc đảm bảo các điều kiện, yếu tố cần và đủ cho việc thực hiện các đặc quyền vốn có của một con người như nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích, năng lực được thừa nhận và được bảo hộ khi mà người phụ nữ phải đối mặt với những thủ tục tố tụng hình sự của bộ máy quyền lực nhà nước do đã thực hiện một hành vi có dấu hiệu phạm tội được quy định trong pháp luật hình sự quốc gia hay quốc tế. Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt quan trọng. Vì vậy, quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực tư pháp hình sự phải được ghi nhận và bảo vệ đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt hành pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp. Điều đó thể hiện ở các quy định của pháp luật hình sự phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm tương ứng của pháp luật quốc tế, được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, cũng như những người có chức vụ của các cơ quan này trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử, tạo lòng tin của công dân vào sự nghiêm minh của pháp chế, tính minh bạch và sự bình đẳng của pháp luật.

(Theo Tạp chí Dân chủ và Pháp luật)

Cập nhật thông tin chi tiết về Các Cơ Chế Của Liên Hợp Quốc Về Bảo Vệ Và Thúc Đẩy Quyền Con Người trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!