Xu Hướng 3/2023 # Các Cách Thực Hiện Phép Liên Kết Cho Văn Bản # Top 8 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Các Cách Thực Hiện Phép Liên Kết Cho Văn Bản # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Các Cách Thực Hiện Phép Liên Kết Cho Văn Bản được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

MỌI NGƯỜI CŨNG ĐỌC

Bạn có từng bị sếp hay ai đó nhận xét “sao em viết rời rạc quá vậy”, hoặc chính bản thân bạn cũng nhận thấy bài mình viết ra bị rời rạc không? Mỗi câu đều có nghĩa rất rõ ràng, đầy đủ, nhưng hình như, các câu nó cứ xa xa nhau thế nào ấy? Làm thế nào để các câu văn nó xích lại gần nhau hơn chút nữa, để cho văn bản chặt chẽ hơn nhỉ?

Có một “phép thuật” rất hiệu quả để tránh lời phê “viết rời rạc”, gọi là “phép liên kết”.

Nhận diện văn bản thiếu liên kết

Bảng 1

(1)

(2)

Năm 1938, Đào Duy Anh xuất bản quyển Việt Nam văn hoá sử cương, là “bản tổng kết đầu tiên về văn hoá Việt Nam” (4, tr.169), trình bày theo quan điểm duy vật, đi từ sinh hoạt vật chất, kinh tế để tiến đến tổ chức xã hội và sau cùng là phong tục văn hoá tinh thần.

Năm 1955, Đào Duy Anh in quyển Cổ sử Việt Nam. Theo Phan Ngọc, Đào Duy Anh tuy không phải là nhà khảo cổ học trên thực địa, không có dịp khai quật, khảo sát di vật, nhưng “cụ là người mở đầu cho ngành khảo cổ học Việt Nam”. “Trước Đào Duy Anh các di chỉ được xét như những hiện tượng rời rạc của cả vùng, không ai nhắc tới vai trò của Việt Nam. Cụ Đào là người đầu tiên hệ thống hoá các tài liệu, rồi dựa trên thư tịch cổ xây dựng các khái niệm làm thành nền tảng cho khảo cổ học Việt Nam: nước Lạc Việt, con rồng tô tem của người Việt, văn hoá Đông Sơn là một giai đoạn của văn hoá Việt cổ…”, (4, tr.171).

Sau bộ

Hán – Việt từ điển

, Đào Duy Anh biên soạn

Pháp – Việt từ điển

, đồ sộ hơn và còn được hoan nghênh nhiều hơn.

Mặc dù

trước Đào Duy Anh đã có nhiều bộ từ điển Pháp – Việt, nhưng chủ yếu chỉ tập trung dịch những từ tiếng Pháp thông thường ra tiếng Việt.

Đến lượt mình

,

Đào Duy Anh đã làm được một việc rất khó khăn là dịch đối ứng khái niệm thành khái niệm. “Tất cả các từ Pháp được dịch hết, dù có khó, có chuyên môn đến đâu” để “tạo cho tiếng Việt những khái niệm mới, ngay dù như hiện nay chưa ai nói như vậy” (4, tr.168).

Để làm được bộ từ điển này

,

Đào Duy Anh phải tìm mua dần dần đến mấy chục bộ từ điển và tự điển để làm tài liệu tham khảo,

bao gồm

Đại Nam quốc âm tự vị

của Huỳnh Tịnh Của,

Hán – Anh – Pháp – Ý – Đức từ điển

gửi mua về từ bên Thượng Hải và nhiều từ điển có tiếng Pháp của Trung Quốc. “Trong khi biên soạn

Pháp Việt từ điển

, tôi có ý nhấn mạnh các từ ngữ về chính trị và các khoa học xã hội khác. Ý đồ cũng có tham lam, nhưng kết quả cũng tốt, đáp ứng được nhu cầu thiết tha của nhiều người. Tôi đưa được vào sách những từ chính trị mà thời đó nếu viết ra và giải thích trên trên sách có thể bị nhà chức trách làm lôi thôi”, (3. tr.44).

Năm 1938, Đào Duy Anh xuất bản quyển Việt Nam văn hoá sử cương, là “bản tổng kết đầu tiên về văn hoá Việt Nam” (4, tr.169). Điểm ấn tượng của công trình này là nó trình bày theo quan điểm duy vật, đi từ sinh hoạt vật chất, kinh tế để tiến đến tổ chức xã hội và sau cùng là phong tục văn hoá tinh thần.

Năm 1955, Đào Duy Anh in quyển Cổ sử Việt Nam. Với công trình này, theo Phan Ngọc, Đào Duy Anh tuy không phải là nhà khảo cổ học trên thực địa, không có dịp khai quật, khảo sát di vật, nhưng “cụ là người mở đầu cho ngành khảo cổ học Việt Nam”. “Trước Đào Duy Anh các di chỉ được xét như những hiện tượng rời rạc của cả vùng, không ai nhắc tới vai trò của Việt Nam. Cụ Đào là người đầu tiên hệ thống hoá các tài liệu, rồi dựa trên thư tịch cổ xây dựng các khái niệm làm thành nền tảng cho khảo cổ học Việt Nam: nước Lạc Việt, con rồng tô tem của người Việt, văn hoá Đông Sơn là một giai đoạn của văn hoá Việt cổ…”, (4, tr.171).

Mặc dù đoạn văn bản trên có thể chưa bao quát được hết các trường hợp, nhưng cũng phần nào giúp bạn hiểu thế nào là văn bản thiếu liên kết và có liên kết. Nghiền ngẫm đoạn văn bản được trình bày theo hai cách trên, chúng ta có thể thấy rằng, một văn bản rời rạc là một văn bản mà các câu trong nó, các đoạn trong nó chỉ được đặt cạnh nhau, không có từ, hoặc ngữ nào làm nhiệm vụ “móc nối” các câu, đoạn đó với nhau.

Hãy hình dung một văn bản là một đội bóng đá đang thi đấu trên sân:

– Văn bản thiếu liên kết chính là một đội bóng mà 11 người mạnh ai nấy chơi. Đó thật sự là một lối đá rời rạc!

– Văn bản có liên kết chính là một một đội bóng mà 11 người chuyền bóng cho nhau, cùng nhau phòng thủ, tấn công,… Đó là một lối đá kết hợp nhuần nhuyễn thành một hệ thống.

Nói chung, với một đội bóng, chỉ khi các cầu thủ phối hợp với nhau, kết nối với nhau thì mới thật sự là một đội bóng, còn không thì chỉ là 11 người chơi bóng. Văn bản cũng vậy, có liên kết mới thực sự là một văn bản chỉnh thể, còn không thì cũng chỉ là những câu, những đoạn rời rạc nằm cạnh nhau mà thôi.

Muốn liên kết… thì phải làm phép liên kết

Ở trên, chúng ta đã hiểu khái lược rằng: một văn bản muốn chặt chẽ thì các câu văn phải “móc nối” với nhau. Tiếp theo, chúng ta phải nhìn sâu hơn vào vấn đề, tại sao phải làm cho một văn bản có liên kết. Phải nói ngay rằng, việc văn bản có liên kết hay không góp phần rất lớn giúp chúng ta hiểu đúng và hiểu dễ dàng ý nghĩa tổng thể của văn bản đó. Muốn văn bản có liên kết, chúng ta phải thực hiện phép liên kết. Chẳng hạn sử dụng các từ ngữ giống như các từ ngữ được in đậm, in nghiêng, gạch chân trong bảng 1.

(1) Dùng từ/ngữ liên kết

Chính là dùng những từ/ngữ như in đậm, in nghiêng, gạch chân trong bảng trên. Trong sách Lược sử Việt ngữ học (Nguyễn Thiện Giáp chủ biên, Nxb Tri Thức, 2017, tr.50) có trình bày khá đầy đủ các cách dùng từ/ngữ liên kết, ở đây dẫn lại, chia thành bảng cho các bạn tiện theo dõi.

Bảng 2

(Các ví dụ trong bảng này đều trích từ tác phẩm Đờn ca tài tử Nam Bộ của Nguyễn Phúc An.)

Từ ngữ diễn đạt quan hệ đồng hướng

Ví dụ: Ngoài ra, để góp phần hình thành nên nhạc tài tử, còn có một thành tố nữa…

và, hơn nữa, còn, với, cùng, lại, thêm nữa, với lại, ngoài ra, thêm vào đó

tức là, có nghĩa là, rằng, tức, ý là

chẳng hạn, nói cách khác, nói khác đi

như thế, như vậy, cũng vậy

Từ ngữ diễn đạt quan hệ ngược hướng

Ví dụ: Nhưng nếu so với sự lý luận âm nhạc với dịch lý, ngũ hành âm dương của Trung Hoa,…

nhưng, ngoại trừ, nhưng mà, mặc dù, dẫu cho, dẫu, dù, tuy, tuy rằng, tuy là, bất chấp, bất kể

cứ cho rằng… thì; dù… nhưng, dẫu mà… thì

tuy nhiên, vậy mà, thế mà, ngược lại, đằng khác, mặt khác

nếu không, bằng không, nếu có

Từ ngữ diễn đạt quan hệ nhân quả

Ví dụ: Do đó, ngày xưa chúng ta được biết có những thầy đờn danh tiếng, có ngón đờn hay,…

vì lý do, vì rằng, vì lẽ, vì cớ gì, do đó, vì một lý do nào đó, xuất phát từ, có trời biết vì sao

nên, nên chi, cho nên, bởi vì… mà, do, tại, tại vì, giá như, ngộ nhỡ, vì thế, thế nên, do vậy mà

thế là, kết cuộc là, vậy thì, hậu quả là, kết quả là, thành thử

Từ ngữ diễn đạt quan hệ thời gian

Ví dụ: Kể từ sau khi sân khấu cải lương ra đời, và cải lương dần phát triển, lớn lên, định hình, phân tược chia ngôi…

trước khi, sau khi, trong khi mà, một khi đã, cho tới nay, chẳng bao lâu, bao giờ cũng, thỉnh thoảng, từ đó, ngay sau đó, tiếp đó, rồi, rồi sau đó, rồi thì, và rồi, về sau, thế rồi, đoạn

Từ ngữ diễn đạt quan hệ trình tự

Ví dụ: Nói về người ca, trước hết tôi xin nhường lời lại cho ông Bảy Nhiêu viết về ông Ba Lễ là một tài tử ca mà ông cho là sành điệu…

một, một là, thứ nhất là, trước tiên, trước hết, đầu tiên, thoạt tiên, thứ nhất… thứ hai… thứ ba, một là… hai là… cuối cùng là, trước hết… thêm vào đó… cuối cùng là

cuối cùng, sau hết, nói chung, xét cho cùng, kết quả là, tóm lại là, nói gọn lại, chốt lại là

(2) Trình bày theo trật tự tuyến tính thời gian, không gian

Xét các đoạn sau trong Bảng 1:

Năm 1938, Đào Duy Anh xuất bản quyển Việt Nam văn hoá sử cương, là “bản tổng kết đầu tiên về văn hoá Việt Nam” (4, tr.169). Điểm ấn tượng của công trình này là nó trình bày theo quan điểm duy vật, đi từ sinh hoạt vật chất, kinh tế để tiến đến tổ chức xã hội và sau cùng là phong tục văn hoá tinh thần.

Năm 1955, Đào Duy Anh in quyển Cổ sử Việt Nam. Với công trình này, theo Phan Ngọc, Đào Duy Anh tuy không phải là nhà khảo cổ học trên thực địa, không có dịp khai quật, khảo sát di vật, nhưng “cụ là người mở đầu cho ngành khảo cổ học Việt Nam”. 

Ngoài các “từ ngữ diễn đạt quan hệ thời gian” trong Bảng 2, thì cách trình bày theo tuyến tính với mốc thời gian cụ thể cũng là cách để liên kết cho văn bản.

Với không gian cũng vậy. Ví dụ, trong nhiếp ảnh, khi chụp ảnh sự kiện, người ta thường chụp tổng thể, từ ngoài cổng vào, đến sân khấu chính, không gian bên cánh trái, cánh phải, rồi vào hậu trường, v.v.. Tương tự, đối với văn bản, khi cần miêu tả một không gian nào đó, ta cũng đi từ ngoài vào, có trình tự như người thợ chụp ảnh.

Bằng cách trình bày theo tuyến tính như thế, người đọc sẽ dễ hình dung văn bản hơn vì các sự kiện được xâu chuỗi theo một trật tự nhất định. Tất nhiên, đối với những bậc thầy chữ nghĩa, họ hoàn toàn có thể xáo trộn các trật tự trên. Điều đó không hề gì, bởi bản chất của việc liên kết văn bản là làm cho văn bản mạch lạc, logic. Chỉ cần có thể khiến cho văn bản mạch lạc, logic, có lớp lang hẳn hòi thì việc đổi trật tự hay diễn đạt thế nào cũng không phải là vấn đề, tùy vào năng lực của người viết mà thôi.

(3) Dùng phép thế, phép lặp, phép liên tưởng và phép nối

Bảng 3

(Các ví dụ trong bảng này đều trích từ tác phẩm Người đan chữ xếp thuyền của Miura Shion.)

Phép liên kết

Ví dụ

Phép thế:

câu sau sử dụng các từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu trước.

1. Sau đợt đó,

Nishioka

phải khổ sở vì bị đau hông nhức eo mấy ngày trời. Nội chuyện hắt xì thôi

y

cũng không dám.

2. Sau khi nghe người bên trong trả lời, y mở cửa ra. Đúng lúc vị giảng viên y tìm kiếm đang ăn trưa.

Phép lặp:

câu sau lặp lại các từ ngữ đã có ở câu trước.

1. Trong mắt Nishioka chỉ phản chiếu hình ảnh của

một thế giới

bị bóp méo.

Một thế giới

mà bất kỳ tia sáng nào cũng khiến y trở nên đau khổ.

2. Majime ngoan ngoãn nghe theo lời Kishibe trở về bàn tiếp tục công việc của mình. Còn công việc ấy là công việc gì gì thì cô không rõ.

Phép liên tưởng:

câu sau sử dụng các từ ngữ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa (trong cùng trường liên tưởng) với từ ngữ đã có ở câu trước.

– Sử dụng các từ ngữ đồng nghĩa gọi là liên tưởng đồng chất.

– Sử dụng các từ ngữ trái nghĩa gọi là liên tưởng khác chất.

1.

Kỳ vọng quá lớn

vào đối phương là điều không thể tránh khỏi, nhất là khi mình đối với họ toàn tâm toàn ý. Cũng giống như việc trên đời có mấy ai chẳng

thiết tha trông đợi

bất kỳ lời hồi đáp nào từ người thương của mình? (Liên tưởng cùng chất)

2. Không giống như tay giảng viên hám danh hám lợi kia, dẫu cho y có bị thuyên chuyển đến bộ phận nào đi chăng nữa, y vẫn sẽ cố gắng làm chút gì đó cho việc biên soạn “Daitokai”. Nishioka không màng đến chuyện tên tuổi mình có được ghi lên sách hay không, cũng không ngại chuyện sự tồn tại của mình sẽ nhanh chóng bị xóa nhòa khỏi lịch sử Phòng biên tập từ điển. Kể cả khi Majime không còn nhớ đến y nữa, Nishioka cũng vui vẻ bằng lòng. (Liên tưởng khác chất)

Phép nối:

câu sau sử dụng các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước.

1. Mấy tay giảng viên đại học rốt cuộc

là thế nào

đây?

một đám khờ khạo cái gì cũng mù tịt,

hay là

mấy kẻ nhiều chuyện thích hóng hớt?

2. Majime của chúng tôi nhất định sẽ làm nên một quyển từ điển được người người yêu mến tín nhiệm. Tên thầy sẽ được in trong đó với tư cách là cộng tác viên, nhưng mong thầy nhớ cho, nhờ có Majime nên bản thảo của thầy mới được chất lượng như vậy.

Chú thích:

(*) Đoạn văn bản trong Bảng 1 trích từ bài viết Đào Duy Anh – Cuộc đời, sự nghiệp, quan điểm và phương pháp nghiên cứu, Nguyễn Thùy Dung, 2020. Các chú thích trong đoạn văn bản này hiểu như sau:

– (3, tr.44) ứng với quyển hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm của Đào Duy Anh, Nxb Hà Nội, tái bản 2020, trang 44.

– (4, tr.168) ứng với quyển Học giả Đào Duy Anh của nhiều tác giả, Nxb Tri thức, 2020, trang 168. Các chú thích khác có dạng (4, chúng tôi cũng được hiểu là thuộc sách này ứng với số trang như thế.

Một Số Phương Tiện Và Phép Liên Kết Trong Văn Bản

Phép lặp là cách dùng đi dùng lại một yếu tố ngôn ngữ, ở những bộ phận khác nhau (trước hết ở đây là những câu khác nhau) của văn bản nhằm liên kết chúng lại với nhau.

Phép lặp, ngoài khả năng kết nối các bộ phận hữu quan của văn bản lại với nhau, còn có thể đem lại những ý nghĩa tu từ như nhấn mạnh gây cảm xúc, gây ấn tượng…

Các phương tiện dùng trong phép lặp là:

– Các yếu tố ngữ âm (vần, nhịp), gọi là lặp ngữ âm

– Các từ ngữ, gọi là lặp từ ngữ

– Các cấu tạo cú pháp, gọi là lặp cú pháp

1.1 Lặp ngữ âm:

Lặp ngữ âm là hiện tượng hiệp vần và cắt nhịp đều đặn các câu trong văn bản. Vai trò của lặp ngữ âm rất hiển nhiên trong thơ. Có trường hợp văn bản tồn tại chủ yếu bằng liên kết vần nhịp, không có liên kết ở mặt ý nghĩa. (vần được in thẳng)

Ví dụ:

(Ngoài lặp vần nhịp, ở đây cũng còn có hiện tượng lặp cú pháp “a có b”. Sự liên kết giữa những câu cụ thể với nhau thường được thực hiện cùng một lúc bằng nhiều phương tiện liên kết, và những phương tiện liên kết này có thể thuộc về những phép liên kết khác nhau. Khi chúng ta xem xét một phương tiện liên kết nào đó, hoặc một phép liên kết nào đó, là chúng ta tạm thời bỏ qua những phương tiện liên kết khác có thể đang có mặt).

1.2 Lặp từ ngữ

Lặp từ ngữ nhắc lại những từ ngữ nhất định ở những phần không quá xa nhau trong văn bản nhằm tạo ra tính liên kết giữa những phần ấy với nhau.

Ví dụ:

Buổi sáng, Bé dậy sớm ngồi học bài. Dậy sớm học bài là một thói quen tốt. Nhưng phải cố gắng lắm mới có được thói quen ấy. Rét ghê. Thế mà Bé vùng dậy, chui ra được khỏi cái chăn ấm. Bé ngồi học bài. 1.3 Lặp cú pháp:

Lặp cú pháp là dùng nhiều lần một kiểu cấu tạo cú pháp nào đó (có thể nguyên vẹn hoặc biến đổi chút ít) nhằm tạo ra tính liên kết ở những phần văn bản chứa chúng. Lặp những cấu tạo cú pháp đơn giản và ngắn gọn để gây hiệu quả và nhịp điệu, nhờ đó gia tăng được tính liên kết (X. ví dụ về bài đồng dao trên kia)

Ví dụ 1:

Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!

Cấu tạo ngữ pháp ở 2 câu này là:

“Ðề ngữ – dạng câu đặc biệt ” (tạo sắc thái cảm thán)

Ví dụ 2:

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

[4 đoạn văn tiếp theo minh họa ý này]

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho nhân dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.

[4 đoạn văn tiếp theo minh họa ý này]

(Hồ Chí Minh)

2. Phép thế:

Phép thế là cách thay những từ ngữ nhất định bằng những từ ngữ có ý nghĩa tương đương (cùng chỉ sự vật ban đầu, còn gọi là có tính chất đồng chiếu) nhằm tạo tính liên kết giữa các phần văn bản chứa chúng. Có 2 loại phương tiện dùng trong phép thế là thay thế bằng từ ngữ đồng nghĩa và thế bằng đại từ.

Dùng phép thế không chỉ có tác dụng tránh lặp đơn điệu, mà còn có tác dụng tu từ nếu chọn được những từ ngữ thích hợp cho từng trường hợp dùng.

2.1 Thế đồng nghĩa:

Thế đồng nghĩa bao gồm việc dùng từ đồng nghĩa, cách nói vòng (nói khác đi), cách miêu tả thích hợp với từ ngữ được thay thế.

Ví dụ:

Nghe chuyện Phù Ðổng Thiên Vương, tôi tưởng tượng đến một trang nam nhi, sức vóc khác người, nhưng tâm hồn còn thô sơ giản dị, như tâm hồn tất cả mọi người thời xưa. Tráng sĩ ấy gặp lúc quốc gia lâm nguy đã xông pha ra trận đem sức khỏe mà đánh tan giặc, nhưng bị thương nặng. Tuy thế người trai làng Phù Ðổng vẫn còn ăn một bữa cơm… (Nguyễn Ðình Thi)

2.2 Thế đại từ:

Thế đại từ là dùng những đại từ (nhân xưng, phiếm định, chỉ định) để thay cho một từ ngữ, một câu, hay một ý gồm nhiều câu v. v… nhằm tạo ra tính liên kết giữa các phần văn bản chứa chúng.

Ví dụ 1:

Ví dụ 2:

3. Phép liên tưởng:

Phép liên tưởng là cách sử dụng những từ ngữ chỉ những sự vật có thể nghĩ đến theo một định hướng nào đó, xuất phát từ những từ ngữ ban đầu, nhằm tạo ra mối liên kết giữa các phần chứa chúng trong văn bản.

Sự liên tưởng có thể diễn ra giữa những sự vật cùng chất cũng như giữa những sự vật khác chất.

3.1 Liên tưởng cùng chất:

Ví dụ 1 (liên tưởng theo quan hệ bao hàm):

Chim chóc cũng đua nhau đến bên hồ làm tổ. Những con sít lông tím, mỏ hồng kêu vang như tiếng kèn đồng. Những con bói cá mỏ dài lông sặc sỡ. Những con cuốc đen trùi trũi len lủi giữa các bụi ven bờ.

Quan hệ bao hàm còn thể hiện rõ trong quan hệ chỉnh thể – bộ phận (cây: lá, cành, quả, rễ…) hoặc trong quan hệ tập hợp – thành viên của tập hợp (quân đội: sĩ quan, binh lính……)

Ví dụ 2 (liên tưởng đồng loại):

Cóc chết bỏ nhái mồ côi, Chẫu ngồi chẫu khóc: Chàng ôi là chàng! Ễnh ương đánh lệnh đã vang! Tiền đâu mà trả nợ làng ngóe ơi!

Ví dụ 3 (liên tưởng về số lượng):

Năm hôm, mười hôm… Rồi nửa tháng, lại một tháng. (Nguyễn Công Hoan)

3.2 Liên tưởng khác chất:

Ví dụ 1 (liên tưởng theo quan hệ định vị giữa các sự vật):

Nhân dân là bể Văn nghệ là thuyền

(Tố Hữu)

Ví dụ 2 (liên tưởng theo công dụng – chức năng của vật):

Hà Nội có Hồ Gươm Nước xanh như pha mực Bên hồ ngọn Tháp Bút Viết thơ lên trời cao

(Trần Ðăng Khoa)

Ví dụ 3 (liên tưởng theo đặc trưng sự vật):

Mặt trời lên bằng hai con sào thì ông về đến con đường nhỏ rẽ về làng. Không cần phải hỏi thăm nữa cũng nhận ra rặng tre ở trước mặt kia là làng mình rồi. Cái chấm xanh sẫm nhô lên đó là cây đa đầu làng. Càng về đến gần càng trông rõ những quán chợ khẳng khiu nấp dưới bóng đa. (Nguyễn Ðịch Dũng)

Ví dụ 4 (liên tưởng theo quan hệ nhân – quả, hoặc nói rộng ra: theo phép kéo theo như tuy… nhưng (nghịch nhân quả), nếu… thì (điều kiện/giả thiết – hệ quả).

Ðồn địch dưới thấp còn cách xa gần bốn trăm thước đang cháy thật, tre nứa nổ lốp bốp như cả cái thung lũng đang nổ cháy. Khói lửa dày đặc không động đậy bên dưới, mà bốc ngọn mỗi lúc một cao, ngùn ngụt, gió tạt về phía đồi chỉ huy vàng rực, chói lòe trong nắng, hơi nóng bốc lên tận những đỉnh núi bố trí. (Trần Ðăng)

– Từ trái nghĩa

– Từ ngữ phủ định (đi với từ ngữ không bị phủ định)

– Từ ngữ miêu tả (có hình ảnh và ý nghĩa nghịch đối)

– Từ ngữ dùng ước lệ

Ví dụ 1 (dùng từ trái nghĩa):

Gia đình mất hẳn vui. Bà khổ, Liên khổ, mà ngay chính cả y cũng khổ. (Nam Cao)

Ví dụ 2 (dùng từ ngữ phủ định):

Những vấn đề vật chất giải quyết không khó đâu. Bây giờ các đồng chí gặp khó khăn, theo tôi nghĩ, một phần lớn là do không có người quản lí. Có người quản lí rất tận tụy, đồng thời rất kiên trì, thì giải quyết được rất nhiều việc. (Phạm Văn Ðồng)

Ví dụ 3 (dùng từ ngữ miêu tả):

… Dẫu sao thì tôi vẫn mắc nợ anh ấy một chút lòng tử tế. Gặp lúc cần đến tôi, tôi phải lấy sự tử tế ra mà đối lại. Không lẽ tôi ghẻ lạnh? Tôi đành xếp tập giấy đang viết dở lại, đi theo anh ấy vậy… (Nam Cao)

Ví dụ 4 (dùng từ ngữ ước lệ):

Biết rất rõ về tôi, địch quyết bắt tôi khuất phục. Nhưng tôi quyết giữ vững lập trường chiến đấu của mình. ( Nguyễn Ðức Thuận)

5. Phép nối:

Phép nối là cách dùng những từ ngữ sẵn mang ý nghĩa chỉ quan hệ (kể cả những từ ngữ chỉ quan hệ cú pháp bên trong câu), và chỉ các quan hệ cú pháp khác trong câu, vào mục đích liên kết các phần trong văn bản (từ câu trở lên) lại với nhau.

Phép nối có thể dùng các phương tiện sau đây:

– kết từ,

– kết ngữ,

– trợ từ, phụ từ, tính từ,

– quan hệ về chức năng cú pháp (tức quan hệ thành phần câu hiểu rộng; có sách xếp phương tiện này riêng ra thành phép tỉnh lược)

5.1: Nối bằng kết từ:

Kết từ (quan hệ từ, từ nối) là những hư từ quen thuộc dùng để chỉ quan hệ giữa các từ ngữ trong ngữ pháp câu, như và, với, thì, mà, còn, nhưng, vì, nếu, tuy, cho nên… Kết từ cũng được dùng để liên kết trong những cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn câu.

Ví dụ 1:

Nguyễn Trãi sẽ sống mãi trong trí nhớ và tình cảm của người Việt Nam ta. Và chúng ta phải làm cho tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Trãi rạng rỡ ra ngoài bờ cõi nước ta. (Phạm Văn Ðồng)

Ví dụ 2:

Ví dụ 1:

Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác, đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. (Hồ Chí Minh)

Ví dụ 2:

Một hồi còi khàn khàn vang lên. Tiếp theo là những tiếng bước chân bình bịch, những tiếng khua rộn rã: phu nhà máy rượu bia chạy vào làm. (Nam Cao)

5.3 Nối bằng trợ từ, phụ từ, tính từ:

Một số trợ từ, phụ từ, tính từ tự thân mang ý nghĩa quan hệ được dùng làm phương tiện liên kết nối các bộ phận trong văn bản, chẳng hạn như cũng, cả, lại, khác…

Ví dụ 1:

Gà lên chuồng từ lúc nãy. Hai bác ngan cũng đã ì ạch về chuồng rồi. Chỉ duy có hai chú ngỗng vẫn tha thẩn đứng giữa sân. (Tô Hoài)

Ví dụ 2:

Tiếng hát ngừng. Cả tiếng cười. (Nam Cao)

Ví dụ 3:

Tôi biết trong vụ này anh không phải là thủ phạm. Thủ phạm là người khác cơ. 5.4 Nối theo quan hệ chức năng cú pháp (thành phần câu hiểu rộng):

Trong nhiều văn bản, nhất là văn bản nghệ thuật, có những câu chỉ tương đương một bộ phận nào đó (một chức năng cú pháp nào đó) của câu lân cận hữu quan. Ðó là những câu dưới bậc, hoặc ngữ trực thuộc.

Ví dụ 1 (câu dưới bậc tương đương bổ ngữ của động từ):

Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng và vinh dự của thơ. (Phạm Hổ)

Ví dụ 2 (câu dưới bậc tương đương trạng ngữ của câu):

Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. (Nam Cao)

chúng tôi

Rails: Cách Tốt Để Xác Thực Các Liên Kết (Url) Là Gì?

Xác thực một URL là một công việc khó khăn. Đó cũng là một yêu cầu rất rộng.

Chính xác thì bạn muốn làm gì? Bạn có muốn xác thực định dạng của URL, sự tồn tại hoặc những gì? Có một số khả năng, tùy thuộc vào những gì bạn muốn làm.

Biểu thức chính quy có thể xác thực định dạng của URL. Nhưng ngay cả một biểu thức chính quy phức tạp cũng không thể đảm bảo bạn đang xử lý một URL hợp lệ.

Chẳng hạn, nếu bạn lấy một biểu thức chính quy đơn giản, nó có thể sẽ từ chối máy chủ sau

nhưng nó sẽ cho phép

đó là một máy chủ hợp lệ, nhưng không phải là một miền hợp lệ nếu bạn xem xét các TLD hiện có. Thật vậy, giải pháp sẽ hoạt động nếu bạn muốn xác thực tên máy chủ, không phải tên miền vì tên sau là tên máy chủ hợp lệ

cũng như sau đây

Bây giờ, hãy để tôi cung cấp cho bạn một số giải pháp.

Nếu bạn muốn xác thực một tên miền, thì bạn cần quên đi các biểu thức thông thường. Giải pháp tốt nhất hiện có là Danh sách Suffix công khai, một danh sách được duy trì bởi Mozilla. Tôi đã tạo một thư viện Ruby để phân tích và xác thực các tên miền theo Danh sách Suffix công khai và nó được gọi là PublicSuffix .

Nếu bạn muốn xác thực định dạng của URI / URL, thì bạn có thể muốn sử dụng các biểu thức thông thường. Thay vì tìm kiếm một cái, hãy sử dụng URI.parse phương thức Ruby tích hợp .

Bạn thậm chí có thể quyết định làm cho nó hạn chế hơn. Ví dụ: nếu bạn muốn URL là URL HTTP / HTTPS, thì bạn có thể xác thực chính xác hơn.

Tất nhiên, có rất nhiều cải tiến bạn có thể áp dụng cho phương pháp này, bao gồm kiểm tra đường dẫn hoặc sơ đồ.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, bạn cũng có thể đóng gói mã này vào trình xác nhận:

Soạn Bài Thực Hành Các Phép Tu Từ: Phép Điệp Và Phép Đối (Chi Tiết)

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Phần I I – LUYỆN TẬP VỀ PHÉP ĐIỆP (ĐIỆP NGỮ) 1. Đọc những ngữ liệu trong SGK và trả lời câu hỏi a. * Ngữ liệu 1

– Về ý: Trong ngữ liệu, “nụ tầm xuân” khiến ta liên tưởng tới người con gái. “Nụ tầm xuân” nở cũng như “em có chồng rồi”. Nếu thay như trên thì cơ sở để liên tưởng sẽ bị mờ nhạt, ý câu thơ sẽ chỉ như tả một loài vậy. Sự lặp lại nguyên vẹn ở câu thứ hai và câu thứ ba có tác dụng vừa nhấn mạnh, vừa làm cho ý thơ, nhịp thơ dường như chững lại, nó góp phần diễn tả sự hụt hẫng, sự thảng thốt trong tâm trạng của chàng trai khi được tin người con gái mình yêu đi lấy chồng.

– Về nhạc điệu: Thực chất ba câu đầu không có vần nhưng đọc lên ta không cảm giác thấy điều đó là vì phép điệp ngữ đã tạo nên một thứ nhạc riêng mà nếu thay như trên thì thứ âm nhạc này sẽ bị phá vỡ.

Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng, như cá mắc câu. Cá mắc câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thuở nào ra

– Sự lặp lại này nhằm nhấn mạnh tình cảnh “cá chậu, chim lồng”, nỗi chua xót, sự lệ thuộc, bê tắc về bi kịch hôn nhân tình yêu của người phụ nữ thời phong kiến. Nếu không lặp lại như thế thì sự so sánh cũng đã rõ ý. Nhưng việc lặp lại đã tô đậm thêm một lần nữa ý so sánh. Qua đó, cô gái muốn khẳng định với chàng trai về tình cảnh không thay đổi của mình.

b. Trong các câu ở ngữ liệu (2), việc lặp từ không phải là phép điệp tu từ mà chỉ đơn thuần là nhằm tạo nên tính đối xứng và tính nhịp điệu, diễn đạt rõ ý cho câu nói mà thôi.

c. Định nghĩa về phép điệp: Phép điệp là biện pháp tu từ được xây dựng bằng cách lặp lại một, một số yếu tố diễn đạt (vần, nhịp, cụm từ, câu từ) nhằm nhấn mạnh, diễn tả cảm xúc, ý nghĩa, có khả năng gợi hình tượng 2. Bài tập ở nhà

a. Tìm ba ví dụ có điệp từ, điệp câu nhưng không có giá trị tu từ:

– Anh ấy uống nhiều, nói nhiều và hát nhiều nữa.

– Văn học giúp ta nhận thức cuộc sống, văn học còn chắp cánh ước mơ.

– Tôi yêu thương con người phương Nam, yêu cái nắng gió phương Nam.

b. Tìm ba ví dụ trong những bài văn đã học có phép điệp.

Phép điệp được dùng khá phổ biến trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong thơ (các bài ca dao; đoạn trích truyện thơ Tiễn dặn người yêu; Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi; các đoạn trích Truyện Kiểu của Nguyễn Du…).

Ví dụ 1 – Điệp từ:

Người ta đi cấy lấy công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề Trông trời, trồng đất, trông mây Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm Trông cho chân cứng đá mềm Trời yên bể lặng, mới yên tấm lòng

(Ca dao)

Ví dụ 2 – Điệp ngữ:

Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt

Đàn em ta đây xương sắt da đồng Đảng ta muôn vạn công nông Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin.

(Tố Hữu)

Ví dụ 3 – Điệp cấu trúc:

Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!

c. Viết một đoạn văn có phép điệp theo nội dung tự chọn.

Quê hương trong tôi, không chỉ là đàn cò trắng bay thẳng cánh đồng, không chỉ là cây đa, giếng nước, sân đình. Quê hương trong tôi, bao trùm tất cả, là tuổi thơ, là gia đình, là bạn bè đồng trang lứa, là những trưa trốn mẹ đi chơi, là những đêm trăng tỏ chị Hằng. Quê hương trong tôi, là quá khứ, hiện tại và cả tương lai.

PHẦN II II – LUYỆN TẬP VÊ PHÉP ĐỐI 1. Đọc những ngữ liệu II. (SGK trang 125,126) và trả lời câu hỏi:

a. Ngữ liệu (1) và (2) đều có cách sắp xếp từ ngữ cân đối giữa hai vế trong một câu. Mỗi câu đều có hai vế, mỗi vế đều có ba từ. Hai vế cân đối được gắn kết với nhau nhờ phép đối.

Vị trí của các danh từ (chim, người/tổ, tông…) các tính từ (đói, rách, sạch, thơm…), các động từ (có, diệt, trừ…) tạo thế cân đối là nhờ chúng đứng ở những vị trí giống nhau xét về cấu tạo ngữ pháp của mỗi vế (ví dụ hai danh từ “chim” và “người” đều đứng ở vị trí đầu mỗi vế; hai tính từ “sạch” và “thơm” đều đứng ở vị trí cuối mỗi vế;…).

b. Trong ngữ liệu (3) và (4) có những cách đối khác nhau:

– Ngữ liệu (3) sử dụng cách tiểu đối trong một câu (Khuôn trăng đầy đặn / nét ngài nở nang, Mây thua nước tóc / tuyết nhường màu da).

– Ngữ liệu (4) sử dụng cách đối giữa hai câu (Rắp mượn điền viên vui tế nguyệt / Trót đem thân thế hẹn tang bồng) – Đối theo kiểu câu đối.

c. Ta có thể tìm thấy trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi; Truyện Kiều của Nguyễn Du rất nhiều câu văn sử đụng phép đối. Ví dụ:

– Hịch tướng sĩ:

+ Trăm thân này phơi ngoài nội cỏ / nghìn xác này gói trong da ngựa;

+ Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa / hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển / hoặc vui thú ruộng vườn / hoặc quyến luyêh vợ con;…

– Bình Ngô đại cáo:

+ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân / Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

+ Gươm mài đá, đá núi phải mòn / Voi uống nước, nước sông phải cạn;…

– Truyện Kiều: Gươm đàn nửa gánh / non sông một chèo; Người lên ngựa / kẻ chia bào…

– Thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

(Qua đèo Ngang)

– Câu đối:

Một người thợ nhuộm chết. Vợ ông ta đến nhờ cụ Tam nguyên Yên Đổ làm cho một đôi câu đối. Nguyễn Khuyến viết như sau:

Thiếp kể từ khi lá thắm se duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại, điều khôn nhờ bố đỏ/ Chàng dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh.

d. Phát biểu định nghĩa về phép đối: Phép đối là cách sắp xếp từ ngữ, cụm từ, câu ở vị trí cân xứng nhau, tạo nên hiệu quả giống nhau trái ngược nhau nhằm gợi ra một vẻ đẹp hoàn chỉnh, hài hòa, diễn đạt nội dung nào đó.

2. Phân tích các ngữ liệu ở mục 2 (SGK trang 126) và trả lời câu hỏi:

a.

– Phép đối trong tục ngữ có tác dụng làm cho người đọc, người nghe dễ nhớ, dễ thuộc.

– Từ ngữ sử dụng trong tục ngữ hầu như không thể thay được vì mỗi câu tục ngữ đều mang tính cố định giống như các thành ngữ, quán ngữ. Hơn nữa, tục ngữ sử dụng phép đối rất cân chỉnh, không thể có một từ khác thay vào mà tính cân chỉnh của phép đối tốt hơn.

– Phép đối trong tục ngữ thường đi kèm với các biện pháp ngôn ngữ như: thường gieo vần lưng (tật/ thật)-, từ ngữ dùng mang giá trị tu từ (ẩn dụ, so sánh, nhân hoá…); câu ngắn và thường tỉnh lược các bộ phận…

b. Tục ngữ là những câu rất ngắn nhưng vẫn khái quát được hiện tượng rộng, người không học mà cũng nhớ, không cố ý ghi lại mà vẫn được lưu truyền. Sở đĩ có được điều đó là vì cách diễn đạt của tục ngữ được chọn lọc, gọt giũa, có vần, có đối, nghe một lần là nhớ và rất khó quên.

3. Bài tập ở nhà

a. Tìm mỗi kiểu đối một ví dụ.

Ví dụ:

– Kiểu đối thanh: Chim có tổ / Người có tông: (“tổ” – thanh trắc / “tông”, thanh bằng).

– Kiểu đối chọi về nghĩa: Gần mực thì đen / gần đèn thì sáng: (mực – xấu / đèn – tốt).

– Kiểu đối từ loại: Đói cho sạch /rách cho thơm: (các từ có cùng từ loại đối với nhau: đối – rách; sạch – thơm).

chúng tôi

Cập nhật thông tin chi tiết về Các Cách Thực Hiện Phép Liên Kết Cho Văn Bản trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!