Xu Hướng 6/2023 # Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam, Thành Tựu Và Thách Thức Trong Giai Đoạn Hiện Nay # Top 14 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam, Thành Tựu Và Thách Thức Trong Giai Đoạn Hiện Nay # Top 14 View

Bạn đang xem bài viết Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam, Thành Tựu Và Thách Thức Trong Giai Đoạn Hiện Nay được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bình đẳng giới là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật và trong các Công ước Quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

Theo Khoản 3, Điều 5 Luật Bình đẳng giới thì: ” Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.”

Có thể nói, mục tiêu bình đẳng giới hiện là mối lưu tâm hàng đầu của các quốc gia nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung. Ngay từ thời điểm năm 1955, Liên hợp quốc đã thống nhất quan điểm và thông qua Chương trình hành động giới, lồng ghép giới tại Hội nghị quốc tế về phụ nữ, lần thứ tư tại Bắc Kinh (Trung Quốc); vào năm 1979 tiếp tục thông qua Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ và mục tiêu thiên niên kỷ thứ ba cũng nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng đã quyết định đặt ra nhiều ngày lễ quốc tế, nhiều sự kiện trọng đại vì mục tiêu bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Điều này cho thấy sự ưu tiên đặc biệt của cộng đồng quốc tế về vấn đề bình đẳng giới.

Việt Nam là một trong những quốc gia sớm dành cho công tác bình đẳng giới những ưu tiên nhất định. Cụ thể, trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Hiến pháp năm 1946, tại Điều 9 đã đề cập thẳng đến quyền bình đẳng nam nữ: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện”. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong di chúc, Người cũng trăn trở về vai trò và vị trí của người phụ nữ: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng có thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ”. Và vấn đề này đã được thể chế hóa thành các văn bản Luật như Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 hay ban hành các chương trình hành động như: Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 – 2020, Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020… để đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục, y tế và ngay chính trong gia đình của họ.

2. Bình đẳng giới ở Việt Nam, thành tựu và thách thức

2.1. Bức tranh có nhiều “gam màu” sáng

Để hiện thực hoá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiều dự án đã triển khai thiết lập các mô hình góp phần thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới như: phòng chống bạo lực gia đình tại cộng đồng rất thành công ở Huế, Hải Phòng, Ninh Bình… Điển hình như ở Đà Nẵng, việc ra đời và duy trì các câu lạc bộ “cha mẹ học sinh phòng, chống bạo lực gia đình” tại phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu và “nam giới tiên phong trong phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em” tại xã Hòa Phong, Hòa Khương thuộc huyện Hòa Vang đã thu hút được sự tham gia của đông đảo người dân.Trên cơ sở đó, phải nói rằng không có nhiều quốc gia mà hoạt động, biện pháp thực hiện bình đẳng giới được đưa thành chương trình hoạt động cụ thể ở từng tỉnh, thành, địa phương và đạt được nhiều thành tựu như ở Việt Nam.

Về chính trị, nữ giới Việt Nam có tổ chức chính trị riêng, đó là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Và tỷ lệ nữ giới đại diện trong cơ quan lập pháp của Việt Nam luôn thuộc nhóm có thứ hạng cao nhất trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung và tỷ lệ này ngày càng tăng. Điển hình, quán triệt tinh thần Đại hội XII của Đảng: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng”[1] thì tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội luôn duy trì ở mức cao và có xu hướng ngày càng tăng lên. Cụ thể: từ 3% ở Quốc hội khóa I tăng lên 24,4% ở khóa VIII (2011 – 2016) và tỷ lệ này là 26,72% với 133 nữ đại biểu Quốc hội trên tổng số 496 đại biểu ở khóa XIV(2016 – 2021). Hay trong bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ở nhiều địa phương tỷ lệ phụ nữ trúng cử vượt dự kiến như: Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ phụ nữ trúng cử đạt 43%; Đại biểu Hội đồng nhân dân quận Cầu Giấy – thành phố Hà Nội, tỷ lệ phụ nữ trúng cử đạt gần 45%.[2]

Bên cạnh thực hiện bình đẳng giới trên lĩnh vực chính trị thì bình đẳng giới trong lao động cũng đạt được nhiều kết quả khả quan. Cụ thể, năm 2017, tỷ lệ nữ giới tham gia lao động chiếm 48,4% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên. Và với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động lên đến 73% trong tổng số phụ nữ trong độ tuổi lao động, tỷ lệ phụ nữ Việt Nam hiện đang đi làm nhiều hơn hẳn so với phần lớn các quốc gia khác trên thế giới. Tỷ lệ này cũng cao hơn mức trung bình thế giới (49%), cao hơn mức trung bình của khu vực Đông Á – Thái Bình Dương (59%) và nhóm các nước thu nhập trung bình thấp (39%).[3]

Thêm vào đó, tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh ở nước ta đạt trên 31,6%, thuộc nhóm cao nhất của khu vực Đông Nam Á cũng là thành quả rất đáng ghi nhận. Những con số này có thể nói lên nhiều điều nhưng sẽ trở nên sinh động hơn, ý nghĩa hơn nếu nhìn ra thế giới xung quanh. Tại 100 quốc gia, pháp luật công khai loại trừ phụ nữ ra khỏi một số công việc vì lí do giới tính, và tại 18 quốc gia, phụ nữ phải có sự chấp thuận của chồng mới có thể đi làm.

2.2. Những thách thức trong giai đoạn hiện nay

Trong Báo cáo phát triển con người 2016, với tiêu đề “phát triển con người cho tất cả mọi người “, được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc công bố tại Hà Nội sáng ngày 26/4/2017, Việt Nam với chỉ số bất bình đẳng giới là 0.337, xếp thứ 71/195 quốc gia, vùng lãnh thổ, tiếp tục nằm trong ba nước có thứ hạng tốt nhất tương ứng với chỉ số bất bình đẳng thấp nhất trong các nước ASEAN. Với thành tựu này, Liên hợp quốc đánh giá Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, một trong những nước có thành tựu về bình đẳng giới cao và được xếp vào nhóm nước có thành tựu bình đẳng giới tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Điều này thể hiện bước tiến vượt bậc của Việt Nam trong việc thực hiện bình đẳng giới.

Bình đẳng giới phải được hiểu là sự đối xử công bằng về mặt luật pháp, cũng như vị thế xã hội giữa nam và nữ giới. Những thành tựu đã đạt được trong công tác bình đẳng giới của Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề đã và đang tồn tại là trở lực rất lớn cho công tác bình đẳng giới. Cụ thể như sau:

Về kinh tế: Chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ cùng một vị trí công việc vẫn tồn tại, cơ hội để phụ nữ tiếp cận những việc làm có thu nhập cao vẫn thấp hơn so với nam giới, lao động nữ chưa được đánh giá cao như lao động nam, là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn khi doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm nhân lực. Đặc biệt là hiện nay, thu nhập bình quân của lao động nữ luôn thấp hơn nam giới.

Về chính trị – xã hội: Tỷ lệ nữ giới làm công tác quản lý, lãnh đạo tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung, so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ nói riêng.

Trước hết phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới

Trong gia đình: Phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là chủ yếu; vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch hóa gia đình. Ngoài ra, phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như bạo lực gia đình, nạn nhân của buôn bán người, bóc lột lao động, xâm hại tình dục.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, đẩy mạnh thực hiện các quy định của pháp luật, các chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới

Nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế; phá vỡ rào cản trong công tác bình đẳng giới và “Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái” qua 08 mục tiêu cụ thể được ghi nhận tại Tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững như: Giảm thiểu, tiến tới chấm dứt các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái trong mọi lĩnh vực và ở mọi nơi; Giảm đáng kể mọi hình thức bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái nơi công cộng hoặc nơi riêng tư, bao gồm cả hình thức bóc lột tình dục và các hình thức bóc lột khác; Đảm bảo sự tham gia đầy đủ, hiệu quả và cơ hội bình đẳng tham gia lãnh đạo của phụ nữ ở tất cả các cấp hoạch định chính sách trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội;… cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Hiện nay, tình trạng “trọng nam, khinh nữ” vẫn đang là một hệ luỵ tư tưởng lớn, không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của nữ giới mà còn hạn chế sự phát triển của xã hội. Chỉ khi thay đổi được nhận thức, xoá bỏ định kiến về giới thì mới thay đổi được cách hành xử. Chính vì vậy, cả nam và nữ đều phải thay đổi nhận thức, xoá bỏ định kiến phân biệt giới và để nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cần thực hiện các biện pháp cụ thể như: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bình đẳng giới; Tiến đến xoá bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời có mang định kiến về giới; Thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm, sinh hoạt, nói chuyện về bình đẳng giới trong các cơ quan, đơn vị, trong các khu dân cư.

Thứ ba, tích cực thu hẹp khoảng cách về giới tại nơi làm việc.

Cần thay đổi các quy định hiện hành còn chưa phù hợp, hạn chế bình đẳng giới. Cụ thể Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, tại Khoản1, Điều 71 quy định rõ là: “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên”. Nhưng Khoản 4 Điều 2 về nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiện chế độ hôn nhân gia đình vẫn tiếp tục duy trì khuôn mẫu giới bởi quy định: “giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình”. Quy định này không khác nào khẳng định trách nhiệm nuôi dạy con cái vẫn thuộc về người mẹ, kế hoạch hoá gia đình chủ yếu vẫn là trách nhiệm của người vợ. Nói như vậy để thấy rằng cần điều chỉnh những quy định chưa phù hợp và cần xoá bỏ khuôn mẫu giới ngay tại các văn bản quy phạm pháp luật.

Lồng ghép công tác bình đẳng giới vào nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị và chương trình phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương. Xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, phân biệt giới để răn đe trong xã hội. Các trường hợp này cần phổ biến rộng rãi bằng nhiều hình thức như: tổ chức các phiên toà lưu động; tuyên truyền miệng tại tổ dân phố, các khu dân cư; lồng ghép vào các chương trình phát thanh, truyền hình địa phương để tạo hiệu ứng lan toả tốt nhất đủ sức cảnh báo, răn đe để người dân biết và không vi phạm.

Thứ tư, tập trung nhân rộng các mô hình tốt thực hiện bình đẳng giới

Tuy pháp luật đã có quy định cụ thể về nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử dựa trên giới tính, nhưng trên thực tế cần bảo đảm cơ chế triển khai thực hiện các quy định này trên thực tế. Cần nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về lợi ích kinh tế và xã hội của bình đẳng giới và nhất là thay đổi tư duy của người sử dụng lao động nhằm xoá bỏ những định kiến và rào cản đối với cả nam và nữ.

Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có cơ chế giám sát các cơ sở lao động trong việc thực hiện chế độ thai sản, cung cấp và xã hội hóa các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc trẻ em để tạo điều kiện tốt nhất cho cả lao động nam và nữ; đảm bảo phụ nữ và nam giới được tạo cơ hội bình đẳng trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao tay nghề; trong lương hay thậm chí là trong thi đua, khen thưởng…

Các địa phương đã triển khai mô hình tuyên truyền về bình đẳng giới như “Câu lạc bộ bình đẳng giới”, tổ công tác “tư vấn, hỗ trợ bạo lực giới”, xây dựng “Nhà tạm lánh” hỗ trợ người bị bạo hành về giới… đã phát huy tác dụng trên thực tế. Tuỳ vào điều kiện từng địa phương mà cần duy trì, nhân rộng các mô hình này.

Như vậy, có thể thấy rằng bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước dành sự ưu tiên đặc biệt. Và những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng về giới đã mang lại nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá rất cao. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được rõ ràng, không thể phủ nhận vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Nhưng cần khẳng định một lần nữa: Bình đẳng giới, bình đẳng các dân tộc trở thành mục tiêu phát triển của Việt Nam nói riêng, của cộng đồng quốc tế nói chung; và để đạt được mục tiêu này không phải một sớm một chiều mà là cả một quá trình lâu dài và cần sự vào cuộc của chính quyền, sự tham gia của toàn dân.

[1] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn khiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr. 163

[2] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn khiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr. 163

[3] Báo cáo tổng quan về lao động nữ tại Việt Nam: Phụ nữ, việc làm và tiền lương do Mạng lưới Hành động vì lao động di cư (Mnet) thực hiện

Chủ Nghĩa Yêu Nước Việt Nam Trong Giai Đoạn Hiện Nay

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là tổng hòa các yếu tố tri thức, tình cảm, ý chí của con người Việt Nam, tạo thành động lực tinh thần to lớn thúc đẩy họ sẵn sàng cống hiến sức lực, trí tuệ, xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là giá trị cao đẹp, bền vững của dân tộc được hình thành, phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, trở thành chuẩn mực cao nhất định hướng suy nghĩ, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân và toàn thể cộng đồng, cùng hướng tới mục tiêu chung vì sự trường tồn và phát triển của đất nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là nguồn sức mạnh thường trực trong lòng dân tộc ta. Nhưng sức mạnh ấy phụ thuộc rất lớn vào khả năng đánh thức, hiện thực hóa nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đảo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” [1]. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội. Thực tiễn cũng cho thấy, bất cứ tiềm năng tinh thần dù to lớn bao nhiêu nếu muốn biến thành sức mạnh vật, chất đều cẩn phải được thường xuyên khơi dậy, bồi đắp chuyển hóa thành các hành động cụ thể, thành các phong trào xã hội thiết thực; nếu không nó sẽ bị xói mòn, tàn lụi, phai mờ, mất đi giá trị. Vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất quan trọng là tùy thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta quên lãng và chôn vùi món vũ khí tinh thẩn ấy. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại hiện nay không đối lập mà kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên tầm cao mới, chất lượng mới. Đó là chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, “Đòi hỏi phải gắn liền một lòng yêu Tổ quốc với yêu chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa” [2]. Trong mỗi thời đại, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có những đặc trưng khác nhau. Trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau đây: Lòng yêu nước thiết tha trên cơ sở lập trường chính trị của giai cấp công nhân. Khi giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng, một giai cấp có khả năng nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, đưa dân tộc tiến lên thì cũng đồng thời làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mang hệ tư tưởng mới, tiên tiến nhất của thời đại, hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Giai cấp công nhân trở thành đại biểu chân chính cho dân tộc, đại biểu quyền lợi cho dân tộc và cho nhân dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân gắn chặt và thống nhất với lợi ích nhân dân lao động, lợi ích của dân tộc. Tinh thần vươn lên rửa cái nhục nghèo nàn, lạc hậu, thua kém nước khác. Yêu nước gắn với yêu đồng bào là phấn đấu phát triển kinh tế vì lợi ích cộng đồng, quốc gia. Nếu như độc lập tự do là khát vọng cháy bỏng mà các thế hệ cha anh đã từng xả thân phấn đấu thực hiện, thì khát vọng đưa nước ta phát triển và vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, cần được thổi bùng trong các thế hệ hôm nay. Cần nhận thức sâu sắc rằng, dân tộc ta một dân tộc cần cù, thông minh, dũng cảm, đã từng đánh thắng những tên đế quốc sừng sỏ nhất thế giới, nhất định không cam chịu là một nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Những gì mà các nước tiên tiến trên thế giới đã làm được trong lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ… nhất định chúng ta cũng sẽ làm được. Đây không chỉ là niềm tin, lòng tự tôn dân tộc mà còn là lương tâm, trách nhiệm của thế hệ đi sau đối với các thế hệ đi trước.  Yêu nước trong điều kiện hiện nay chính là sự cố gắng phấn đấu học tập, tu dưỡng và rèn luyện; là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo và tiết kiệm của mỗi người dân để làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Đó là tham gia tích cực và có hiệu quả vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, làm giàu một cách chính đáng cho bản thân, gia đình, qua đó góp phần phát triển kinh tế đất nước. Mỗi cá nhân, dù ở cương vị nào cũng phải nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đối với doanh nghiệp đó không chỉ là những hành động như nộp nghĩa vụ thuế, làm công tác từ thiện… mà còn phải là đặt lợi ích của người tiêu dùng làm mục tiêu phát triển; đồng thời, đặt mình trong guồng máy chung của nền kinh tế đất nước, tạo thương hiệu quốc gia, sẵn sàng chia sẻ những khó khăn, thử thách, vận hội với đất nước. Đối với nhân dân, đó là tình làng, nghĩa xóm, lối sống nhân nghĩa, ưu tiên sử dụng các sản phẩm trong nước… Đối với đội ngũ cán bộ, công chức đó là ý thức trách nhiệm với công việc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc… Yêu nước là thực hiện tốt mọi nghĩa vụ và trách nhiệm công dân, phấn đấu từng bước vươn lên theo kịp các nước trong khu vực và thế giới. Noi theo những cá nhân, tập thể “anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”, những biểu hiện tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện nay.  Trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ (cách mạng công nghiệp 4.0) hiện nay, mỗi người dân đất Việt cần thể hiện lòng yêu nước của mình bằng hành động mạnh dạn trên trận tuyến kinh tế và tri thức, khoa học và công nghệ; phát huy tính năng động, nhạy bén và sáng tạo, đi tắt đón đầu trong nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất, đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; hạ giá thành sản phẩm, xây dựng nên những thương hiệu Việt có sức cạnh tranh cao trên trường quốc tế; biến Việt Nam thành “quốc gia khởi nghiệp” và sáng tạo. Thực hiện hội nhập với khu vực và thế giới, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các nước phải luôn giữ vững sự độc lập tự chủ, khắc phục thái độ thụ động, ỷ lại. Yêu nước trong điều kiện hiện nay phải gắn liền với việc nêu cao ý thức độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường; tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, rất cần nguồn lực trong nước, sức mạnh nội lực bên trong… Hội nhập với thế giới để tiến lên nhưng không hòa tan, không đánh mất bản sắc của dân tộc mình. Nếu như chủ nghĩa yêu nước đã giúp dân tộc ta đứng vững, vươn lên qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, hơn 100 năm thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, thì hiện tại cũng chính chủ nghĩa yêu nước ở một tầm cao mới là nền tảng để dân tộc ta vững bước trên con đường hội nhập. Yêu nước là giữ gìn hình ảnh đất nước trong con mắt bạn bè quốc tế; xây dựng và phát huy lòng tự hào dân tộc; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tham gia các hoạt động bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường.  Chủ nghĩa yêu nước hiện nay là tinh thần đoàn kết, đấu tranh chống lại những thói hư, tật xấu, cái bảo thủ trì trệ trong tư duy suy nghĩ và cách làm. Đặc biệt, yêu nước hiện nay phải là dũng cảm đấu tranh chống các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và xã hội, bảo vệ sự trong sạch của bộ máy Đảng Nhà Nước.  Chủ nghĩa yêu nước ngày nay là nêu cao ý thức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhận thức sâu sắc về “đối tác” và “đối tượng”, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến” , “tự chuyển hóa”, đòi “phi chính trị hóa ” lực lượng vũ trang; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ bản sắc văn hóa, nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược – xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.  Đứng trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, trong đó có tình hình tranh chấp trên Biển Đông, yêu cầu chung là phải thể hiện chủ nghĩa yêu nước bằng những hành động cụ thể, thiết thực. Kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, bảo vệ môi trường hòa bình và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.  Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại hiện nay là sự hoà quyện, giải quyết hài hoà các mối quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giải quyết hài hoà giữa lợi ích cá nhân – gia đình – tập thể – xã hội. Sự kết hợp này được biểu hiện thông qua từng con người, từng tổ chức và cả cộng đồng dân tộc.  Ngay từ khi mới bước chân ra nước ngoài, hòa mình vào phong trào công nhân và phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao tinh thần quốc tế chân chính:                                        “Rằng đây bốn biển một nhà,                                    Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em”  (Nhật ký chìm tàu). Dù thế giới ngày nay đã có nhiều thay đổi, chủ nghĩa xã hội không còn tồn tại như một hệ thống thế giới, song đặc trưng này vẫn không thay đổi, bởi nếu đã từ bỏ chủ nghĩa quốc tế cao cả và trong sáng, thì chẳng những không còn là người cách mạng chân chính mà cũng không xứng đáng được coi là một dân tộc văn minh trong thế giới hội nhập, cùng phát triển hiện nay. Như vậy, trong giai đoạn mới của cách mạng, trực tiếp là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã mang nhiều đặc trưng, nội dung và hình thức thể hiện đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, cho dù ở góc độ và phương thức thể hiện như thế nào thì cái cốt lõi của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam vẫn không thay đổi, đó là: làm tất cả những gì có thể để đem lại những điều tốt đẹp nhất cho quê huơng, đất nước trong đó có bản thân và gia đình của mỗi người.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2011. t.7, tr. 38-39.

[2] [Trần Xuân Trường (1981), Mấy vấn đề về chủ nghĩa yêu nước XHCN ở Việt Nam, Nxb. QĐND, Hà Nội, 1981, tr. 60.

Bình Đẳng Giới Trong Lĩnh Vực Chính Trị Ở Việt Nam

Ngày đăng: 16/01/2020 04:43

1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị

Quan điểm “nam – nữ bình quyền” đã được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Quan điểm của Đảng ta về phụ nữ tham chính cũng được thể hiện rõ qua các văn bản quy phạm pháp luật về công tác cán bộ nữ của qua các thời kỳ. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh: xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng.

Việt Nam đã cam kết thúc đẩy sự tham gia và đại diện của phụ nữ trong lĩnh vực tham chính thông qua việc phê chuẩn các công ước quốc tế quan trọng, như: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá; Công ước về quyền chính trị và dân sự năm 1982; Công ước cơ bản của ILO về bình đẳng; Tuyên bố Cương lĩnh hành động Bắc Kinh (1995)… là sự khẳng định nâng cao quyền năng cho phụ nữ, thúc đẩy sự tham gia đầy đủ của phụ nữ trên cơ sở bình đẳng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả tham gia vào quá trình ra quyết định và tiếp cận quyền lực.

Quán triệt quan điểm của Đảng, nguyên tắc bình đẳng nam nữ được thể chế hóa trong Hiến pháp và hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho phụ nữ tham gia chính trị. Hiến pháp năm 2013 đã có quy định về bình đẳng giới và không phân biệt đối xử trong lĩnh vực chính trị. Luật Bình đẳng giới và Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020 đã được ban hành. Các cơ quan, tổ chức hoạt động về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của nữ giới đang từng bước được hoàn thiện.

Các chỉ tiêu về sự tham gia của phụ nữ được đặt ra khá chi tiết ở các cấp khác nhau trong Đảng, trong các tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị hành chính. Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị nêu rõ: “Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm; phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ”(1). Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 cũng chỉ ra mục tiêu cần đạt được: “Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 – 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 – 2020 trên 35%; phấn đấu đến năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động”(2).

Về cơ chế bầu cử, cơ chế giám sát để đảm bảo cơ hội tham chính của phụ nữ, so với quy định tại Điều 9 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 và Điều 14 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 thì Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định số lượng đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải bảo đảm có ít nhất là 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử là phụ nữ(3). Đây là điểm mới và lần đầu tiên được triển khai thực hiện tại cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Như vậy, sau hiệp thương lần thứ ba, Hội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban bầu cử các cấp chỉ cần lập danh sách chính thức những người ứng cử đảm bảo đủ số phiếu tối thiểu 35% trong tổng số người ứng cử là phụ nữ là đáp ứng yêu cầu và không trái với quy định của pháp luật, còn tỷ lệ thực tế số lượng số lượng phụ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là bao nhiêu thì Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân không điều chỉnh mà phụ thuộc vào quyền lựa chọn của cử tri, chất lượng người ứng cử và một số yếu tố khác.

Mặt khác, để đảm bảo sự đa dạng về tính đại diện, Việt Nam đang thực hiện cơ chế “cơ cấu” với các tiêu chí về dân tộc thiểu số, người trẻ tuổi, các ứng viên ngoài Đảng, người tự ứng cử và phụ nữ. Trên thực tế, các tiêu chí này thường được áp dụng cùng lúc và phụ nữ thường là người được lựa chọn để đáp ứng 2-3 chỉ tiêu (ví dụ như các yếu tố dân tộc, phụ nữ, trẻ tuổi).

2. Thực tiễn tham gia lĩnh vực chính trị của phụ nữ Việt Nam

Báo cáo sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đến năm 2020 đã cho thấy, các chức danh lãnh đạo chủ chốt trong Đảng, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân từ cấp trung ương đến địa phương chủ yếu do nam giới đảm nhiệm. Trong đội ngũ lãnh đạo, phụ nữ thường chỉ giữ vai trò cấp phó. Điều đó dẫn đến hạn chế quyền quyết định của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.

Trong hệ thống tổ chức đảng: trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011-2016), Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới cho thấy: ở cấp đảng bộ, chi bộ cơ sở, tỷ lệ nữ cấp ủy viên chiếm 19,69%; ở đảng bộ cấp huyện và tương đương, tỷ lệ cấp ủy viên là nữ chiếm 14,3%; tỷ lệ nữ là đảng ủy viên ở cấp đảng bộ trực thuộc Trung ương chiếm 13,3%. Trong 03 nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng vừa qua, tỷ lệ nữ giới tham gia ban chấp hành các cấp tuy có tăng nhưng chưa đạt tỷ lệ 25% đề ra trong Nghị quyết số 11-NQ/TW và Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020(4).

Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị đã đề ra mục tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ không dưới 15% và cần có cán bộ nữ trong ban thường vụ cấp ủy. Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ tham gia cấp ủy ở một số đảng bộ nhiệm kỳ 2016-2020 vẫn chưa đạt yêu cầu. Chỉ có 21 đảng bộ trong số 63 đảng bộ có tỷ lệ cấp ủy viên nữ đạt trên 15%(5).

Tỷ lệ nữ giới tham gia ban chấp hành ở cả ba cấp tỉnh, huyện, xã thấp. Tỷ lệ nữ trong ban thường vụ và tỷ lệ nữ giữ chức vụ bí thư còn thấp hơn rất nhiều. Trong các nhiệm kỳ vừa qua, tỷ lệ nữ tham gia ban thường vụ chỉ khoảng 7-8% ở cấp tỉnh, cấp huyện và khoảng 6% ở cấp xã. Nhiệm kỳ 2015-2020, tỷ lệ nữ giữ vị trí Bí thư Tỉnh ủy khoảng 5%. Chỉ có 03 tỉnh có Bí thư Tỉnh ủy là nữ gồm: Ninh Bình, An Giang, Vĩnh Phúc. Nhìn chung, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy ở các cấp chưa tương xứng với tỷ lệ nữ đảng viên hiện nay(6).

Trong các cơ quan dân cử: Nghị quyết số 11-NQ/TW đưa ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và nữ đại biểu Quốc hội đạt 35-40%. Tuy nhiên trên thực tế, tỷ lệ đó còn rất hạn chế: tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 26,72%; tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 26,54%; tỷ lệ nữ chủ tịch Hội đồng nhân dân ở mỗi cấp dao động trong khoảng 6%. Tỷ lệ nữ giới giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh, huyện khoảng 20%. Tỷ lệ này ở cấp xã thấp hơn (khoảng 14%). Mặc dù tỷ lệ phụ nữ là chủ tịch/phó chủ tịch các cơ quan dân cử có xu hướng tăng lên nhưng không mang tính ổn định và chưa tương xứng với tỷ lệ nữ giới.

Trong bộ máy hành chính nhà nước: tính đến tháng 8/2017, có 12/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nữ cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt, đạt tỷ lệ 40% (giảm 7% so với năm 2015).

Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nhiệm kỳ 2011-2016 chỉ có 01/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nữ Chủ tịch Ủy ban nhân dân (chiếm 1,59%), 31/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nữ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Lãnh đạo nữ trưởng ngành cấp tỉnh cũng chỉ đạt 10,5%. Ở cấp huyện, nữ chủ tịch Ủy ban nhân dân là 3,02%; phó chủ tịch Ủy ban nhân dân là 14,48%; lãnh đạo nữ là trưởng ngành đạt 13,9%. Ở cấp xã, tỷ lệ nữ chủ tịch Ủy ban nhân dân là 3,42%, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân là 8,84%(7). Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến tháng 12/2016, tỷ lệ nữ chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh là 1,6%, cấp huyện là 3,6% và cấp xã là 5,1%(8). Với tỷ lệ phụ nữ tham gia các cơ quan quản lý nhà nước chưa đạt chỉ tiêu đề ra cho thấy vai trò ra quyết định và chỉ đạo thực hiện của phụ nữ ở các cơ quan hành pháp các cấp còn hạn chế.

Bên cạnh những ưu điểm, thuận lợi nêu trên, vẫn còn một số hạn chế, như: các chính sách còn mang tính trung lập về giới, chưa tính đến sự khác biệt giới; thiếu các chế tài giám sát, quy trách nhiệm cho việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra; thiếu cơ chế quy trách nhiệm, khen thưởng và kỷ luật trong việc thực hiện chính sách đối với các cơ quan cũng như trách nhiệm của người đứng đầu; chưa có biện pháp hành chính hiệu quả để khuyến khích và hỗ trợ việc thực hiện các chỉ tiêu về đại diện nữ.

Một số mục tiêu còn mang tính chung chung, chưa cụ thể khiến cho việc triển khai thực hiện không đồng nhất. Ví dụ: chưa làm rõ khái niệm lãnh đạo chủ chốt là gì. Còn thiếu thống nhất giữa các văn bản được ban hành. Quy định về tuổi quy hoạch, bổ nhiệm, đề cử lần đầu ít nhất phải đủ thực hiện 01 nhiệm kỳ, trong khi Luật bình đẳng giới năm 2007 lại quy định không có sự phân biệt tuổi giữa nam và nữ khi đề bạt, bổ nhiệm cho cùng một vị trí quản lý, lãnh đạo.

Về nguyên tắc luân chuyển cán bộ, không có sự phân biệt giữa cán bộ nam và cán bộ nữ khi thực hiện luân chuyển, nhưng còn chưa tính đến sự khác biệt giới; chưa đề cập tới chính sách cho cán bộ nữ khi được luân chuyển; không có quy định về tỷ lệ cán bộ nữ được luân chuyển.

Vẫn còn một số hạn chế trong các văn bản hướng dẫn về bổ nhiệm cán bộ: chưa đưa ra các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới khi không quy định lựa chọn ứng cử viên nữ trong trường hợp cả nam và nữ có điều kiện, tiêu chuẩn như nhau; chưa xác định các giải pháp cụ thể để có thể đạt chỉ tiêu tỷ lệ cán bộ nữ đã đề ra.

3. Một số giải pháp tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Để tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, bổ sung chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý trong các bộ, ngành, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, cơ quan Đảng, tổ chức chính trị – xã hội. Đảm bảo sự thông nhất, liên thông trong chính sách, pháp luật, sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ; bãi bỏ những quy định hạn chế sự tham gia, tiếp cận cơ hội làm lãnh đạo, quản lý đối với phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.

Hai là, cần đẩy mạnh tuyên truyền chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, đặc biệt cho cán bộ và lãnh đạo các cấp nhằm xoá bỏ định kiến giới và phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.

Ba là, ban hành các văn bản quy định cụ thể về chỉ tiêu phụ nữ tham chính, kể cả trong cơ quan dân cử và cơ quan quản lý nhà nước, chú ý tới những ngành, lĩnh vực đang có rất ít phụ nữ tham gia lãnh đạo.

Bốn là, cần quy định trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, các cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ nữ của ngành mình, cấp mình và trong thực hiện chỉ tiêu phụ nữ tham chính; cần thay đổi công tác bầu cử, tạo thuận lợi cho phụ nữ tham gia ứng cử và trúng cử.

Năm là, đảm bảo việc thực thi pháp luật về bình đẳng giới thông qua công tác thanh tra, kiểm tra chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; bổ sung và tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát cụ thể, các hình thức khen thưởng và xử lý nghiêm các vi phạm chính sách, pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và công tác tổ chức, cán bộ./.

Ghi chú:

(1) Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

(2) Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020.

(3) Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.

(4),(5),(6) Chính phủ, Báo cáo số 454/BC-CP ngày 17/10/2017 của Chính phủ về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

(7),(8) Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật bình đẳng giới, năm 2018.

ThS Lê Thị Hồng Hải – Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

tcnn.vn

#1 Giai Cấp Công Nhân Ở Việt Nam Hiện Nay

Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh, ngang tầm với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động vững bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị cũng như mỗi người công nhân.

Nhưng thực trạng của giai cấp công nhân hiện nay cho thấy rằng nếu ko có sự cải cách, thúc đẩy để phát triển thì giai cấp công nhân Việt Nam vẫn chỉ là những con người nghèo khổ về kinh tế cũng như nghèo nàng về kiến thức và Chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ trở thành một điều quá xa xôi. Sẽ không có xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ở nơi nào nếu dân trí bị coi thường, sẽ không có dân giàu nước mạnh nếu nhà quản lý và những người trực tiếp xây dựng đất nước lại thiếu tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt huyết cách mạng và sự đoàn kết giữa những người cộng sản. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và phương hướng phát triển. “

giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin

Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lenin về giai cấp công nhân và một số nét mới của giai cấp công nhân thế giới hiện nay.

Lý luận của chủ nghĩa Mác- lenin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Khái niệm giai cấp công nhân và đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân.

Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,… Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.

Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:

Giai cấp công nhân thực trạng phương hướng và phát triển

Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân.

Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình độ xã hội hóa cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong công trường thủ công. Giai cấp công nhân có một quá trình phát triển từ những người thợ thủ công thời kỳ trung cổ đến những người thợ trong công trường thủ công và cuối cùng đến những nguời công nhân trong công nghiệp hiện đại. “Trong công trường thủ công và trong nghề nghiệp thủ công,người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục vụ máy móc”.

Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công nhân không có tư liệu sản xuất, họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là đặc trưng khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ ngườii bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu; xây dựng xã hội mới thực sự tốt đẹp chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất “… giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị” và “Giai cấp vô sán Chiếm lạy chinh quyền nhà nước”. Bước thứ hai: “… giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước” tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Hai nhân tố chủ quan đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu; xây dựng xã hội mới thực sự tốt đẹp-Chủ nghĩa Xã Hội và Chủ nghĩa Cộng Sản.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định hoàn toàn khách quan bởi những điều kiện khách quan. Song để sứ mệnh lịch sử đó thành hiện thực thì cần có những nhân tố chủ quan đảm bảo. Trong hai nhân tố chủ quan là nhân tố “bản thân giai cấp công nhân” và “Đảng cộng sản”, Đảng cộng sản chính là nhân tố chủ quan hàng đầu đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.

Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị, là hình thức tổ chức cao nhất, bộ phận tiên tiến nhất của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lấy Chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung-dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đảng cộng sản ra đời là một tất yếu lịch sử của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Lý luận khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác (Chủ nghĩa xã hội khoa học) thâm nhập vào thực tiễn phong trào công nhân dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản trở thành quy luật chung cho sự ra đời của các Đảng cộng sản ở nhiều nước trên thế giới.

Đảng cộng sản là người chuẩn bị cho hai trong số những yếu tố quyết định cho thắng lợi của cuộc cách mạng của giai cấp công nhân, bao gồm: yếu tố đường lối, tư tưởng và yếu tố lực lượng của cách mạng.

Một là: Đảng cộng sản là tập hợp đội ngũ những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân và các quần chúng lao động khác. Đó là tập hợp đội ngũ những người có trình độ nhận thức chính trị, học vấn, chuyên môn cao; lập trường giai cấp vững vàng… Do đó, Đảng cộng sản trở thành bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân; là người hoạch định cương lĩnh, chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược, chương trình, kế hoạch… cho cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đi đến thắng lợi cuối cùng.

Một số nét mới của giai cấp công nhân thế giới hiện nay

Sự lớn mạnh về cả số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề.

Sự phát triển của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động mạnh mẽ đến giai cấp công nhân các nước. Đối với giai cấp công nhân ở các nước đang phát triển, sự tác động này tạo ra những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu của nó cả về số lượng và chất lượng, đồng thời cũng làm xuất hiện nhiều biểu hiện mới. Nhìn tổng quát, có thể thấy rõ một số điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu dân cư của từng nước (khoảng 15 – 30%), song lại có chiều hướng gia tăng tỷ trọng trong tổng số giai cấp công nhân trên thế giới. Bởi lẽ đa phần dân số thế giới là dân cư các nước đang phát triển (trong tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới hiện nay, chỉ có gần 2 tỷ người sống ở các nước công nghiệp phát triển – các nước OECD, còn lại sống ở các nước đang phát triển). Ở các nước này, trong thế kỷ XX, giai cấp nông dân chiếm số đông, nhưng hiện nay do diễn ra quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá nên giai cấp công nhân có sự gia tăng nhanh chóng.

Thứ hai, là lực lượng lao động có trình độ học vấn ngày càng được nâng cao, được đào tạo nghề nghiệp nhất định trong cơ cấu lao động chung. So với giai cấp nông dân và những người làm dịch vụ giản đơn, giai cấp công nhân được đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp tốt hơn.

Thứ ba, là nhóm người lao động đang từng bước được tiếp xúc với khoa học – công nghệ tiên tiến, được rèn luyện tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp.

Thứ tư, giai cấp công nhân khá đa dạng, phức tạp về thành phần xã hội, về nghề nghiệp chuyên môn. Khác với các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân ở các nước đang phát triển đang gia tăng về số lượng, cả ở bộ phận công nhân công nghiệp truyền thống, cả ở bộ phận công nhân làm việc trong các lĩnh vực sản xuất mới, lĩnh vực công nghệ cao. Điều này được các nhà nghiên cứu xã hội học lý giải là do các nước đang phát triển đang trong quá trình công nghiệp hoá (còn các nước phát triển đã hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, chuyển các ngành công nghiệp truyền thống, sử dụng nhiều lao động sang khu vực các nước đang phát triển), đang thu hút đầu tư nước ngoài mà chủ yếu là của các nước phát triển. Mặt khác, trong khi ở các nước công nghiệp phát triển, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp đang dần thu hẹp lại, lĩnh vực dịch vụ mở rộng, thì ở các nước đang phát triển, lĩnh vực công nghiệp có xu hướng ngày càng mở rộng.

Sự thay đổi về chất lượng cuộc sống

Hiện nay, cũng với sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, chất lượng cuộc sống của giai cấp công nhân đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển, một số đã có tư liệu sản xuất cho riêng mình (tuy nhiên những tư liệu sản xuất thiết yếu, quy định sự tồn tại của chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản). Bên cạnh đó, học vẫn phải chịu sự áp bức, bóc lột sức lao động bởi giai cấp tư sản nên phần lớn vẫn có cuộc sống khó khăn, nhưng không thể phủ nhận việc đã có cái thiện hơn trước.

Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và phương hướng phát triển.

Cùng với sự tăng trưởng nhanh của dòng vốn đầu tư nước ngoài và xu thế phát triển của các doanh nghiệp trong nước, đội ngũ công nhân nước ta đang bộc lộ dấu hiệu hụt hẫng và bất cập. Tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề cao và các chức danh quản lý có trình độ đang là hiện thực. Số liệu khảo sát tại tỉnh Đồng Nai cho thấy, 72,55% công nhân lao động trong các doanh nghiệp có độ tuổi từ 18 – 35. Tuyệt đại bộ phận đều là học sinh phổ thông và xuất thân từ nông thôn, trong đó lao động phổ thông chiếm đến 43%; 27% có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của công việc đang đảm nhận nhưng đại đa số chưa qua đào tạo và không có bằng cấp. Số đã qua đào tạo có bằng cấp chỉ chiếm 30%, trong số đã được đào tạo, tỷ lệ có tay nghề cao cũng rất ít. Bậc 1- 3 chiếm tỷ lệ 66,51%, bậc 4 – 5 chiếm tỷ lệ 25,01%, bậc 6 và 7 chiếm chỉ có 6,88%. Không cần phải cảnh báo, với tốc độ thu hút FDI và xu thế phát triển như 2 năm gần đây (2006 – 2007), vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề sẽ càng trở nên trầm trọng. Giai cấp công nhân nước ta không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu phát triển của bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Chúng ta không phủ định mặt tích cực và những đóng góp chung to lớn của đội ngũ giai cấp công nhân nước ta, bởi họ là lực lượng đang vận hành những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế, nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, nhiều công nhân lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, một bộ phận chỉ lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò vị trí của giai cấp công nhân…phương hướng phát triển:

Một là: Cần định hướng lại mục tiêu của giáo dục cho sát với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với mục tiêu phát triển cụ thể của từng giai đoạn. Thực hiện nhất quán chủ trương xã hội hóa giáo dục, trong đó Nhà nước và các tổ chức xã hội có nhiệm vụ đào tạo cơ bản ban đầu, các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng công nhân phải có trách nhiệm đào tạo nâng cao tay nghề, cập nhật kiến thức chuyên môn, tiêu chuẩn hóa chức danh nghề nghiệp trong mỗi doanh nghiệp.

Quan tâm đến đội ngũ giai cấp công nhân hiện nay là phải quan tâm đến trình độ văn hóa, năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp và ý thức chính trị của họ. Xây dựng giai cấp công nhân phải thể hiện trước hết ở việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng cao tay nghề và trình độ chuyên môn. Cần xem việc đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn là một trong những chỉ tiêu pháp lệnh như mọi chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội khác. Một thế hệ công nhân mới giỏi về chuyên môn, vững vàng về ý thức chính trị, tự họ sẽ vươn lên làm chủ và đủ sức đối đầu với mọi thách thức. Nâng tầm trí tuệ, năng lực chuyên môn và ý thức chính trị cho đội ngũ giai cấp công nhân, chính là nhân tố góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, củng cố vững chắc cơ sở chính trị – xã hội của Đảng trong thời kỳ mới.

Ba là: Phải thực sự chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của công nhân. Ký các hợp đồng lao động với công nhân phải được xem là tiêu chuẩn bắt buộc đối với các chủ doanh nghiệp. Ngoài hợp đồng lao động cần chú trọng thanh kiểm tra điều kiện làm việc và cường độ lao động, không để và không cho phép chủ lao động ép công nhân làm việc vượt quá mức về cường độ, thời gian làm việc. Vấn đề này cần phải sớm được pháp luật quy định cụ thể. Quan tâm thích đáng đến đời sống tinh thần, hình thành những tiêu chí có tính pháp quy về ăn ở, nơi vui chơi giải trí, các tiện ích văn hóa công, chế độ nghỉ dưỡng, thưởng thức các chương trình văn hóa nghệ thuật ở trong từng doanh nghiệp, ở mỗi cụm dân cư và các khu công nghiệp tập trung. Khuyến khích động viên và khen thưởng, cổ vũ mạnh mẽ các doanh nghiệp làm tốt, phê bình và xử lý thích đáng các đơn vị cố tình không làm tốt, hoặc làm có tính chất đối phó, chiếu lệ… Sự thiếu thốn và nghèo nàn về đời sống văn hóa tinh thần sẽ làm cho đại bộ phận lao động trẻ sống và làm việc trong môi trường không có cảm hứng sáng tạo, tính tích cực xã hội không có điều kiện phát huy, lao động chắc chắn sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn, thiệt thòi trước hết cho chính các doanh nghiệp.

Trân trọng./.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam, Thành Tựu Và Thách Thức Trong Giai Đoạn Hiện Nay trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!