Xu Hướng 6/2023 # Bình Đẳng Giới Là Gì Và Vì Sao Chúng Ta Cần Bình Đẳng Giới? # Top 9 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Bình Đẳng Giới Là Gì Và Vì Sao Chúng Ta Cần Bình Đẳng Giới? # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Bình Đẳng Giới Là Gì Và Vì Sao Chúng Ta Cần Bình Đẳng Giới? được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Mất hơn 70 năm từ năm 1848 cho đến năm 1920 để xã hội đấu tranh cho phụ nữ một vài quyền cơ bản như: Quyền được bảo hộ, quyền bình đẳng cho phụ nữ da màu nói riêng và phụ nữ nói chung, cải thiện điều kiện sống, mức lương làm việc và quyền bầu cử tại Mỹ. Một số nhà hoạt động nhân quyền còn hy sinh tính mạng của mình để đấu tranh cho các quyền này. Thế nhưng, ở các nước khác, những điều sau vẫn tiếp diễn:

– Trên thế giới, có 77% đàn ông trong lực lượng lao động chính. Trong khi đó phụ nữ chỉ chiếm khoảng 50% hoặc chưa tới số đó (ở một số nước lạc hậu hơn, số lượng phụ nữ có mặt trong lực lượng lao động chính còn ít hơn rất nhiều).

– Thu nhập mà phụ nữ nhận được trung bình chỉ bằng khoảng 77% nam giới; tức là vẫn thấp hơn 23%.

– Với mỗi 1 đô-la một người đàn ông kiếm ra, phụ nữ tại Mỹ La-tin chỉ kiếm được 56 cents và phụ nữ Mỹ-Phi kiếm được khoảng 64 cents (tức là chỉ hơn một nửa một tẹo).

– 62 triệu bé gái bị từ chối quyền học hành trên toàn thế giới (số liệu của Liên hợp quốc).

– Hàng năm, có tới 15 triệu trẻ em gái dưới 18 tuổi bị ép tảo hôn và hôn nhân sắp đặt sẵn của gia đình.

– Cứ 5 nạn nhân của nạn buôn người thì có tới 4 là nữ (Số liệu của quỹ Malala).

– Có tới 125 triệu phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của tục cắt âm vật (Female genital mutilation) trên toàn thế giới.

– Có ít nhất 1000 vụ giết phụ nữ và bé gái vì danh dự gia đình xảy ra hằng năm ở Ấn Độ và Pakistan.

– Cứ 5 sinh viên nữ thì có 1 người là nạn nhân của tấn công tình dục tại trường học hay giảng đường.

– Tại Mỹ, cứ mỗi 15 giây trôi qua sẽ có một người phụ nữ bị chồng hoặc bạn trai đánh đập (domestic violence)

Còn tại việt Nam, phụ nữ và trẻ em gái vẫn thiệt thòi hơn nam giới và trẻ em trai trong một số lĩnh vực. Tỷ lệ phụ nữ làm công ăn lương chỉ bằng khoảng hơn một nửa so với nam giới. Mức lương của phụ nữ thấp hơn nam giới, ví dụ: mức lương bình quân thực tế theo giờ công lao động của phụ nữ chỉ bằng khoảng 80% so với nam giới. Thời gian phụ nữ dành cho công việc nhà không được thù lao gấp đôi nam giới. Số giờ công lao động hưởng lương của nam giới và phụ nữ là tương đương nhau. Tuy nhiên thời gian phụ nữ dành cho việc nhà lại gấp đôi nam giới, đây là những công việc không được thù lao. Do đó, họ không có thời gian để tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí, văn hoá, xã hội và tiếp tục nâng cao trình độ học vấn. Chưa kể, điều kiện dinh dưỡng của phụ nữ kém hơn so với nam giới. Phụ nữ trưởng thành, đặc biệt là phụ nữ ở các vùng nông thôn, các gia đình nghèo và các dân tộc thiểu số, vẫn có nhiều khả năng bị suy yếu sức khỏe hơn nam giới. Ngoài ra, họ vẫn còn gặp nhiều trở ngại hơn đàn ông trong việc tiếp cận với các nguồn tín dụng, đặc biệt vì phụ nữ thường không có tài sản thế chấp như đất đai. Mặc dù luật đất đai ở Việt Nam không phân biệt đối xử với phụ nữ, song những tập quán phổ biến làm cho họ bị yếu thế hơn, bởi quyền sử dụng đất thường chỉ đứng tên người chồng. Ngoài những những thông tin trong báo cáo trên, rõ ràng trên thực tế người phụ nữ vẫn gặp nhiều trở ngại hơn so với nam giới trong việc tham gia vào các công việc cũng như các hoạt động xã hội. Đặc biệt tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực giới vẫn đang tồn tại ở nhiều nơi (theo báo cáo của UNFP).

Bên cạnh đó, những ảnh hưởng tâm lý và định kiến lên hiệu quả học tập và làm việc với những đối tượng như như phụ nữ, người da màu, hay người thuộc nhóm LGBTQ+… đã gây ra những hệ quả không tốt. Ví dụ như nếu một phụ nữ chọn theo đuổi ngành khoa học, kỹ thuật, hay y dược, việc bị nhìn nhận là nữ thì không thể giỏi logic bằng nam giới sẽ khiến họ tự nghi ngờ bản thân mình và chùn bước; mà từ đó sinh ra tâm lý tự ám thị rằng mình không giỏi cho dù có cố gắng thế nào. Chưa kể, ngay trong chính gia đình và bạn bè, những câu đùa vô ý như “Học cao quá không lấy được chồng” cũng ảnh hưởng ít nhiều lên sự tiến bộ của phụ nữ. Trong khi đó, nghiên cứu chỉ ra rằng, việc là phụ nữ hay nam giới không ảnh hưởng lên việc theo đuổi các ngành mang tính chất học thuật; tương tự, không phải chỉ có nữ giới mới giỏi các ngành nghệ thuật.

Bình đẳng giới không chỉ là để giải phóng phụ nữ, mà còn là giải phóng đàn ông. Khi quá đề cao nam giới và hạ thấp nữ giới thì không chỉ có nữ giới bị ảnh hưởng mà nam giới cũng bị ảnh hưởng theo. Ví dụ: quan niệm nam giới phải mạnh mẽ, không được khóc, không được thể hiện cảm xúc là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tỉ lệ tự tử ở nam cao gấp 3 lần nữ giới, tuổi thọ cũng ngắn hơn. Rất nhiều nam giới bị rối loạn tâm lý nhưng không dám đi khám hay chữa hoặc tìm đến sự giúp đỡ vì họ sợ bị dị nghị là “yếu ớt” hay “thiếu nam tính”. Vai trò người đàn ông ở sự nghiệp được đề cao bao nhiêu thì vai trò của họ trong gia đình, trong mắt con cái bị hạ thấp bấy nhiêu. Chưa kể, nếu họ có theo đuổi các ngành nghệ thuật thì sẽ bị miệt thị và nói là “yếu đuối”, “đàn bà”, “gay”…

Có một quan điểm tương đối phổ biến trong xã hội hiện tại rằng, nhiều nghề và các vị trí quan trọng hoặc những người thành đạt đều là đàn ông, rất hiếm trong số đó là phụ nữ. Từ đó một số người kết luận “xanh rờn” rằng phụ nữ kém hơn hẳn đàn ông và không có năng lực bằng đàn ông cho dù có cố gắng thế nào, nếu có thành công thì cũng chỉ là may mắn. Luận điểm này rất yếu và không có cơ sở vì ngay từ đầu đàn ông và phụ nữ đã không có chung một xuất phát điểm, họ không có cùng một môi trường nuôi dạy hay nói cách khác: Phụ nữ không có nhiều cơ hội học tập và bị cản trở bởi định kiến nhiều hơn. Vả lại, sự tương quan không đồng nghĩa với quan hệ nguyên nhân – kết quả (Correlation does not mean causation). Một số tài liệu cho rằng thời phong kiến phụ nữ nếu bị phát hiện cải trang đi học có thể bị khép vào tội chết. Sự tự do trong các quyền học tập, làm việc mới phổ biến vài chục năm trở lại đây và chủ yếu là ở các nước phát triển. Còn ở các nước khác, đặc biệt là châu Á – thì việc phụ nữ bị trả lương thấp hơn, bị hạn chế khi học cao hơn hoặc bị phân biệt đối xử vẫn còn khá phổ biến. Điều này tương tự với việc một số người phát biểu về người da đen rằng người da đen không có khả năng theo đuổi các ngành học thuật, mà chủ yếu chỉ làm được việc chân tay. Phát ngôn này cũng rất sai lầm vì người da đen vẫn bị phân biệt đối xử và họ phải trải qua những năm dài đau đớn làm nô lệ từ thời xa xưa.

Một số ý kiến sai lầm phổ biến về bình đẳng giới: – Phụ nữ yếu hơn đàn ông, vì vậy làm việc kém hiệu quả hơn đàn ông, cho nên bị trả lương thấp hơn là đúng rồi – Sai. Vì có rất nhiều số liệu cho rằng, nếu cùng giao một việc và nếu phụ nữ hoàn thành công việc với chất lượng tương đương và trong thời gian bằng nhau – thì họ vẫn bị trả thấp hơn. Ví dụ cùng 1 giờ, người đàn ông làm được 10 việc, người phụ nữ cũng làm được 10 việc và kết quả như nhau thì đàn ông vẫn được trả cao hơn phụ nữ. – Những người theo phong trào bình đẳng giới/nữ quyền thì ghét đàn ông – Sai. Trong số những người theo phong trào này, không ít người là nam giới. Chưa kể, những người theo đuổi bình đẳng giới chân chính sẽ hiểu rằng mục tiêu cuối cùng là tốt cho cả hai giới. – Phong trào nữ quyền là đặt phụ nữ cao hơn nam giới, coi thường nam giới – Sai. Nữ quyền ban đầu chỉ đấu tranh cho những quyền và nghĩa vụ phụ nữ chưa có, hay chưa bằng được đàn ông. Ngay cả quyền cơ bản nhất họ còn chưa có thì không thể nói rằng họ muốn hơn được. Những người có quan niệm sai lầm khác thì đó là những biến tướng và như vậy, không hề đại diện cho phong trào đấu tranh cho quyền lợi phụ nữ. – Bình đẳng giới là cào bằng – Sai. Bình đẳng ở đây là bình đẳng về cơ hội. Ví dụ một người nam cũng có thể theo đuổi các ngành nghệ thuật, hay yêu cầu khéo léo hay một người nữ hoàn toàn có thể theo đuổi các ngành khoa học, kỹ thuật.

Hiện tại, trên thế giới có rất nhiều phụ nữ là những nhà nghiên cứu khoa học hàng đầu, có nhiều người thậm chí đã được giải Nobel về Sinh học, Vật lý, Hóa học. Tại các nước phát triển ở Bắc Âu, hay Canada, Singapore… rất nhiều người đứng đầu các phòng nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học chính trị là nữ giới. Trong các ngành STEM (Science, Technology, Engineering and Mathematics), những nhà khoa học nữ có hiệu suất làm việc ngang bằng với các nhà khoa học nam. Một số nghiên cứu còn cho rằng, bình đẳng giới giúp thúc đẩy phát triển kinh tế, vì khi cho phụ nữ cơ hội như nam giới, họ sẽ có khả năng giúp đỡ và san sẻ công việc cho nhau nhiều hơn.

Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng đấu tranh cho quyền phụ nữ (women’s rights) và bình đẳng giới là cần thiết.

Tổng hợp và viết: Khánh Linh

Bình Đẳng Giới Là Gì? Pháp Luật Quy Định Thế Nào Là Bình Đẳng Giới?

Bình đẳng giới là gì? Bình đẳng giới được hiểu trên những phương diện nào? Pháp luật quy định vấn đề bình đẳng giới là như thế nào? Đặc điểm bình đẳng giới? Ý nghĩa của luật bình đẳng giới?

Một cách hiểu khác đầy đủ hơn và tương đối phổ biến thì bình đẳng giới là “sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa nữ giới và nam giới.’ Nam giới và nữ giới đều có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại Điều 5 Luật bình đẳng giới năm 2006:

“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.

Từ các định nghĩa trên có thể thấy đặc điểm của bình đẳng giới như sau:

– Nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau về mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

– Nam và nữ đều được tạo điều kiện và cơ hội để phát huy năng lực của mình cho sự phát triển, tuy nhiên cần tính đến những đặc thù về giới tính giữa nam và nữ.

– Nam nữ đều bình đẳng với nhau trong việc tiếp cận và kiểm soát nguồn lực và các lợi ích.

– Nam, nữ đều bình đẳng với nhau trong việc thụ hưởng thành quả của sự phát triển.

– Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.

– Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.

– Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.

– Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:

+ Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;

+ Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

Để thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, chúng ta phải bắt đầu từ chính sách, pháp luật. Các văn bản luật và văn bản dưới luật hiện nay quy định tương đối đồng bộ giúp hướng tới việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới cho thấy sự quan tâm của Quốc hội, cử tri cả nước tới công tác phụ nữ. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có Chủ tịch Quốc hội và cả 3 ủy viên Bộ chính trị đều là nữ giới, không những vậy trong mọi hoạt động lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội thì phụ nữ Việt Nam có những đóng góp vô cùng quan trọng.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động.

– Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:

+ Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật;

+ Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật.

Việt Nam đã đạt được một số thành tựu to lớn trong công tác bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, tuy vậy rào cản về bất bình đẳng đối với phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế hiện nay vẫn còn rất lớn.

– Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.

– Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.

– Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:

+ Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;

+ Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;

+ Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực lao động việc làm, dù Luật Bình đẳng giới năm 2006 và một số văn bản quy phạm pháp luật đã quy định rõ về bảo đảm việc làm, chống phân biệt đối xử, nhất là quyền được bảo vệ sức khỏe… nhưng trên thực tế, lao động nữ vẫn chưa được đối xử công bằng và chịu nhiều thiệt thòi. Những rào cản tạo ra sự bất bình đẳng giới tính thể hiện rất đa dạng như tỷ lệ lao động nữ thấp hơn lao động nam, nữ thanh niên thất nghiệp nhiều hơn nam, lao động nữ làm các công việc không ổn định dễ bị tổn thương hơn nhiều so với lao động nam, tiền lương bình quân tháng của lao động nữ thấp hơn lao động nam và nhiều sự bất bình đẳng trong lĩnh vực lao động việc làm.

– Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.

– Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.

– Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm:

+ Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo;

+ Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế.

– Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao.

– Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ văn hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin.

– Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.

– Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

– Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.

– Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình.

– Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.

– Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.

– Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.

Bạo lực gia đình là vấn nạn của xã hội, nó gây thiệt hại rất nghiêm trọng về tinh thần và thể chất đối với con người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Ở nước ta trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề phòng chống bạo lực gia đình. Chính vì vậy Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản luật trực tiếp cũng như gián tiếp ví dụ như Hiến pháp, Luật hôn nhân gia đình và đặc biệt là Luật phòng chống bạo lực gia đình và Luật bình đẳng giới.

Việc triển khai các văn bản luật này đã góp phần tích cực trong việc phòng chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên hiện nay có lúc, có nơi hành vi bạo lực gia đình vẫn còn diễn ra thường xuyên là thực trạng của bạo lực gia đình. Gần đây, trên mạng xã hội liên tục xuất hiện những đoạn phim ghi lại những cảnh phụ nữ bị bạo hành một cách thô bạo và tàn nhẫn, điều đáng buồn là người đánh đập phụ nữ lại chính là người chồng cho nên nạn bạo hành gia đình vẫn diễn ra khá phổ biến. Theo thống kê mới đây của Liên hợp quốc công bố giữa tháng 9 năm 2019 thì ở Việt Nam có trên 50% phụ nữ là nạn nhân của một trong các hành vi bạo lực gia đình.

Với quy định như vậy, quyền bình đẳng giới nhằm xóa bỏ phân biệt đối xử về giới; Tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ; đồng thời thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

Pháp luật đã đưa ra những quy định nghiêm cấm những hành vi sau đây:

Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới;

Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức;

Bạo lực trên cơ sở giới;

Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật

Hiểu Đúng Về Bình Đẳng Giới

Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh cũng chỉ rõ, khái niệm “bình đẳng giới” là thành tựu quan trọng của sự nghiệp đấu tranh vì bình đẳng giới toàn cầu, đạt được tại Hội nghị thế giới lần thứ tư về phụ nữ (tổ chức năm 1995). Trong khi đó, việc lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng pháp luật là giải pháp góp phần mang lại sự công nhận địa vị bình đẳng thực sự với phụ nữ và nam giới, đưa các giới được hưởng bình đẳng các quyền con người; cải thiện sự bình đẳng về chất lượng cuộc sống cho nữ giới và nam giới… Do đó, bà Nguyễn Thúy Anh cho rằng, các cơ quan soạn thảo cần tiếp tục đầu tư thêm để thực hiện bài bản việc lồng ghép bình đẳng giới vào nội dung dự án luật, pháp lệnh. Và mỗi thành viên ở Ủy ban cần nghiêm khắc hơn khi tiến hành thẩm tra, để thực hiện tốt trọng trách là cơ quan “gác cổng” cho QH về bảo đảm lồng ghép bình đẳng giới.

Lồng ghép giới vào dự án luật, pháp lệnh là nhiệm vụ không dễ thực hiện, đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, có kiến thức chuyên sâu. Vì thế, các chuyên gia tham dự Hội thảo cho rằng, để thực hiện hiệu quả việc thẩm tra lồng ghép bình đẳng giới cần hiểu đúng khái niệm này, cũng như nắm chắc những khái niệm cơ bản về giới. Tránh chỉ nghĩ đơn giản văn bản không có các quy định phân biệt đối xử giữa nam và nữ, tức là nội dung văn bản đã bảo đảm bình đẳng giới, không cần thiết phải lồng ghép nữa. Hay chỉ cần trong văn bản có cụm từ bình đẳng giới là đã thực hiện lồng ghép giới; bình đẳng giới là phải có sự ưu tiên, có chính sách ưu đãi riêng biệt với phụ nữ.

Cách hiểu đúng, theo Phó Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam Hà Thị Thanh Vân, bình đẳng giới là đưa ra những quy định tạo thế ngang bằng cho nữ giới và nam giới, trên cơ sở tính toán đến sự khác biệt trên những điểm tương đồng và những điểm hoàn toàn khác biệt giữa hai giới. Hiểu đúng khái niệm này, ĐBQH mới có thể đánh giá chính xác trong quá trình thẩm tra, cũng như thuyết phục các đại biểu khác khi kiến nghị đưa lồng ghép bình đẳng giới vào dự án luật, pháp lệnh, hay dự thảo nghị quyết của QH.

Bất Bình Đẳng Giới Trong Giáo Dục

Published on

tài liệu mang tính chất tham khảo, ít tính chất khoa học

1. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 2 NỘI DUNG 3 1. Một số khái niệm 3 1.1. Giới 3 1.2. Bình đẳng xã hội 3 1.3. Bình đẳng giới 3 2. Thực trạng về bất bình đẳng giới trong giáo dục 4 2.1. Trên thế giới 4 2.2. Ở Việt Nam 5 3. Những hệ quả của bất bình đẳng giới trong giáo dục 8 4. Một số nguyên nhân 9 5. Một số giải pháp cho vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam 10 KẾT LUẬN 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 14 1

2. MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Bình đẳng giới là một vấn đề rất quan trọng được cả xã hội quan tâm. Nếu vấn đề giải phóng phụ nữ và vấn đề cơ bản nhất trong các vấn đề đấu tranh của phụ nữ thì quyền bình đẳng giữa nam và nữ lại được xem là nội dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Trong lĩnh vực giáo dục, vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa sâu sắc. Giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội của cn. Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim từng nói: “Giáo dục có chức năng xã hội hóa cá nhân, giáo dục giúp cho các thế hệ trẻ được chuẩn bị để bước vào cuộc sống xã hội, giáo dục có chức năng củng cố sự đoàn kết xã hội và duy trì trật tự xã hội. Nghiên cứu bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục là một việc làm cần thiết trong xã hội hiện nay, nhằm mục đích tìm ra các biện pháp nâng cao bình đẳng giới trong giáo dục và trong xã hội. Với tư cách là một bộ phận của xã hội, sự nghiệp phát triển giáo dục hiện nay không thể không tính đến vấn đề giới. Chính vì những lí do cấp thiết đó mà chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục. 2

3. NỘI DUNG 1. Một số khái niệm 1.1. Giới “Giới (gender): là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định chon am và nữ nhìn từ góc độ xã hội; giới đề cập đến sự phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể”1 Đặc trưng cơ bản nhất của giới là do dạy và học mà có, Vì vậy, những đặc trưng về giới mang tính xã hội, do xã hội quy định. Giới thể hiện các đặc trưng của xã hội của phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, các khu vực, các giai tầng xã hội. Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội về giới hoàn toàn có thể thay đổi được. 1.2. Bình đẳng xã hội “Bình đẳng xã hội: là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các định kiến, các cơ hội và các quyền lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân, các nhóm xã hội”2. Trên lý thuyết, bất bình đẳng xã hội có nghĩa là không bằng nhau, không ngang nhau về các khía cạnh cơ bản của đời sống xã hội giữa các cá nhân, các nhóm người. Trên thực tế, khái niệm bất bình đẳng xã hội được dùng chủ yếu để chỉ mối tương quan xã hội nào không ngang bằng nhau đến mức gây tổn hại đén quyền và lợi ích của bên yếu thế. 1.3. Bình đẳng giới 1 TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”. 2 Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Xã hội học về giới và phát triển, Nxb. ĐHQG HN 3

4. “Là một cách tiếp cận giải quyết các vấn đề đang đối diện với cả nam và nữ theo cách chia sẻ các lợi ích của phát triển một cách bình đẳng, bảo đảm chóng lại gánh nặng thiên lệch của những tác động tiêu cực”3 Trong đó, nam giới và nữ giới được bình đẳng với nhau về: – Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng – Các cơ hội tham gia đóng góp và hưởng lợi từ các nguồn lực xã hội và quá trình phát triển. – Quyền tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng. – Được hưởng thành quả bình đẳng trong mội lĩnh vực của xã hội. 2. Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục 2.1. Trên thế giới Theo một báo cáo của UNICEF, vào tháng 12 năm 2006, nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày thành lập của tổ chức này, việc loại bỏ sự phân biệt đối xử vè giới và nâng cao vị thế của phụ nữ sẽ tạo ra một sự tác động sâu sắc và tích cực đến sự sống còn và phát triển của trẻ em. Bà Ann M. Veneman – Giám đốc điều hành UNICEF phát biểu: “Khi vị thế của người phụ nữ được nâng lên để có một cuộc sống đầy đủ và hữu ích, trẻ em và giáo dục họ sẽ trở nên thịnh vượng”. Theo báo cáo này, mặc dù trong những thập kỉ gần đây đã có một số tiến biij về vị thế của phụ nữ nhưng cuộc sống của hàng triệu “trẻ em gái và phụ nữ vẫn bị đe dọa bởi sự phân biệt đối xử, việc bị tước quyền và nghèo khổ. Hậu quả của sự phân biệt đối xử là trẻ em gái ít có cơ hội được học hơn. Ở các nước đang phát triển, gần như 1/100 trẻ em gái đi học ở trường tiểu học sẽ không theo học được hết cấp. Trình độ học vấn, theo báo cáo, tương quan đến sự cải thiện về các nguồn lực đầu tự cho sự sống còn và phát triển của trẻ em. 3 TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”. 4

5. Sự phân biệt giới trong lĩnh vực giáo dục thường diễn ra gay gắt nhất trong nhóm nước nghèo. Một nghiên cứu gần đây về tỉ lệ đến trường của các bé gái và bé trai ở 41 quốc gia đã cho thấy, trong những nước này, sự pp về giới trong tỉ lệ đến trường giữa nhóm nghèo thường lớn hơn giữa những nhóm không nghèo. Tuy sự bình đẳng trong giáo dục đã có sự cải thiện rõ rệt trong vòng 30 năm qua ở các nước ngày nay còn phụ thuộc diện thu nhập thấp, nhưng sự chênh lệch về số nam và nữ đến trường ở những nước này vẫn lớn hơn ở các nước có thu nhập trung bình và cao. Mặc dù giữa phát triển kinh tế và bình đẳng giới có mqh nhất định, sự hiện diện của phụ nữ trong thu nhập quốc nội vẫn còn khiêm tốn. 2.2. Tại Việt Nam Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam – nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp4. Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015. Có bốn loại hình giáo dục không chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong đó có phụ nữ. Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với trước. Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc biệt là vai trò của giáo dục đối với xã hội, ngành Giáo dục & Đào tạo đã thực hiện tương đối tốt vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã khẳng định vai trò to lớn của giới nữ: “Chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành, giới nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo nước nhà”. Một số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo như Đại học Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu trưởng. Nhiều nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận chức danh Phó Giáo sư. Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh viên nữ tự khẳng định vai trò của giới 4 Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8 – 2005 đã khẳng định điều này. 5

7. Biểu đồ và bảng số liệu: Số lượng học sinh phổ thông tại thời điểm ngày 31 tháng 12 giai đoạn 200 – 2009 phân theo giới tính 6000 5000 4000 Tiểu học 3000 Trung học cơ sở Trung học phổ thông 2000 1000 0 Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ 2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008 2008-2009 Năm: 2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008 2008-2009 Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Tiểu học 5127 4615 4887 4428 4617 4199 4359 3987 4053 3692 3781 3523 3622 3408 3576 3284 3501 3231 THCS 3123 2741 3300 2959 3368 3063 3436 3134 3423 3194 3277 3094 3415 2965 2973 2830 2808 2661 THPT 1156 1016 1366 1089 1286 1169 1331 1258 1421 1349 1507 1468 1560 1515 1465 1557 1385 1543 Số học sinh (Đơn vị: nghìn) 17776,1 17875,6 17699,6 17505,4 17122,6 16650,6 16256,6 15685,2 15127,9 (Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê, chúng tôi Tuy nhiên, nhìn vào biểu dồ, ta cũng có thể nhận thấy, từ năm 2000 đến 2009, số nữ đi học cấp III đã tăng lên đáng kể. Đây là một dấu hiệu tích cực để đánh giá sự bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục. 7

8. 3. Những hệ quả của bất bình đẳng trong giáo dục Khi có những bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận các nguồn lực cuộc sống thì tất yếu dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Thực tế đã cho thấy điều này diễn ra ở cả trên thế giới và ở Việt Nam. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em chịu thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ chúng mù chữ hoặc không được đến trường. Không được đi học dẫn đến chất lượng chăm sóc con cái thấp, điều này lại khiến tỉ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh cao. Những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường có hành vi bảo vệ sức khỏe cho con cái phù hợp hơn, chẳng hạn như cho con cái đi tiêm chủng. Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn đóng vai trò quyết định trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã hội sẽ được nâng lên. Mặt khác, kể cả các nước có nền kinh tế mới phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, khi vấn đề bình đẳng giới không được giáo dục cũng ảnh hưởng rất lớn khi những định kiến “trọng nam” trong xã hội cộng với chính sách chỉ đẻ một con của Trung Quốc đã khiến tỉ lệ tử vong của bé gái cao hơn của bé trai. Theo một số ước tính, số phụ nữ đang sống hiện nay ít hơn từ 60 – 100 triệu người so với con số khi không có sự phân biệt đối xử theo giới6. Bất bình đẳng giới trong giáo dục làm giảm chất lượng nguồn nhân lực trung bình của xã hội. thực vậy, nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng thấp hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế. 6 Tài liệu: “Đưa giới vào phát triển” 8

10. Một nguyên nhân nữa là các chính sách phát triển về giới vẫn có thể tạo ra những kết cục phân biệt về giới. Các chính sách, cùng với các chuẩn mực xã hội hay phân công đồng đều có thể dẫn đến việc tiếp cận các nguồn lực không đồng đều giữa nam và nữ. Việc không nhận thức được hoặc bỏ qua sự khác biệt về giới khi thiết kế các chính sách có thể có hại cho hiệu lực của các chính sách đó, xét cả trên khía cạnh công bằng lẫn hiệu quả. Như vậy, các thể chế xã hội, thể chế kinh tế, hộ gia đình và các chính sách phát triển sẽ cùng nhau quyết định các cơ hội cuộc sống – xét trên khía cạnh giới – của con người. chúng cũng thể hiện những điểm đột phá quan trọng cho chính sách công cộng nhằm giải quyết sự bất bình đẳng giới. 5. Một số giải pháp về bất bình đẳng giới Thứ nhất, thể hiện bình đẳng giới trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo mọi điều kiện cho trẻ em được học hành, phát triển.Ví dụ Nghị quyết số 11 của Bộ chính trị – BCHTW Đảng khoá X Về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe: Đổi mới và phát triển mạng lưới tư vấn sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản; giáo dục giới tính và tình dục an toàn vị thành niên; vận động nam, nữ áp dụng các biện pháp tránh thai; tuyên truyền, hướng dẫn phụ nữ biết cách chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình; phòng trừ bệnh dịch. Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa việc lồng ghép giới vào chương trình dạy học trong các nhà trường. Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới. 10

12. + Sự tham gia của nam giới và trẻ em trai: Giáo dục nam giới và trẻ em trai, cũng như phụ nữ và trẻ em gái, về lợi ích của bình đẳng giới và cùng đưa ra quyết định có thể giúp tạo ra mối quan hệ hợp tác tốt hơn. + Cải thiện nghiên cứu và số liệu: Số liệu và phân tích tốt hơn rất quan trọng, đặc biệt là về tỉ lệ tử vong của các bà mẹ, bạo lực đối với phụ nữ, giáo dục, việc làm, lương bổng, công việc không lương và thời gian sử dụng và sự tham gia vào chính trị. 12

13. KẾT LUẬN Lợi ích của vấn đề bình đẳng giới vượt xa hơn nhiều những tác động trực tiếp của chúng tới trẻ em. Báo cáo Tình hình Trẻ em Thế giới 2007 chỉ ra việc khuyếnh khích bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ – Mục tiêu thiên niên kỉ thứ 3 – sẽ thúc đẩy những mục tiêu khác từ giảm đói nghèo đến cứu vớt sự sống còn của trẻ em, tăng cường sức khỏe, bảo đảm giáo dục phổ cập, phòng chống HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các căn bệnh khác, và bảo đảm sự bền vững về môi trường. 13

14. TÀI LIỆU THAM KHẢO – TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”. – Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Xã hội học về giới và phát triển, Nxb. ĐHQG HN – Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8 – 2005. – Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2000. Tấn công nghèo đói, Hà Nội, 1999. – Tài liệu: “Đưa giới vào phát triển” – Lê Thúy Hằng: “Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc học của con cái” – Tạp chí Xã hội học số 2 – 2006. 14

Cập nhật thông tin chi tiết về Bình Đẳng Giới Là Gì Và Vì Sao Chúng Ta Cần Bình Đẳng Giới? trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!