Xu Hướng 3/2023 # Bàn Về Giá Trị Pháp Lý Của Văn Bản Công Chứng # Top 12 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Bàn Về Giá Trị Pháp Lý Của Văn Bản Công Chứng # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Bàn Về Giá Trị Pháp Lý Của Văn Bản Công Chứng được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

“Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.

Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.

Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch”

Tuy nhiên nếu trong trường hợp một bên vi phạm nghĩa vụ, văn bản công chứng không được thi hành thì các bên có thể khởi kiện ra tòa hoặc có thể tự thỏa thuận. Như vậy bên cạnh việc chỉ định cơ quan phân xử là Tòa Án; thì Luật cũng đã quy định các bên tham gia có thể thỏa thuận cách thức giải quyết. Việc quy định này nhằm tạo ra hành lang pháp lý an toàn; đồng thời giảm thiểu tối đa thời gian, chi phí dành cho việc giải quyết tranh chấp; bên cạnh đó giảm được một phần áp lực công việc lên hệ thống cơ quan Tòa Án.

Giá trị chứng cứ của văn bản công chứng thể hiện ở chỗ các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng thì đương nhiên sẽ được pháp luật thừa nhận; mọi tình tiết sự kiện được ghi nhận trong văn bản công chứng đều không phải chứng minh nếu có xảy ra tranh chấp. Bên cạnh đó trong một số trường hợp, việc thực hiện công chứng được xem là một trong những điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực; điều đó có nghĩa là nếu các bên không thực hiện công chứng theo quy định thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu về mặt hình thức dẫn đến các bên phải chấm dứt hợp đồng và bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho bên còn lại theo quy định của Pháp luật về dân sự. Như vậy có thể thấy rằng dù việc công chứng là theo quy định của Pháp luật hay sự tự nguyện của cá nhân, tổ chức (Khoản 1, điều 2 Luật công chứng 2014) thì văn bản công chứng đều có đầy đủ hai giá trị pháp lý: thi hành và chứng cứ.

Nguyễn Thị Huyền – Phòng công chứng số 2

 

 

Công Văn Là Gì ? Giá Trị Pháp Lý Của Công Văn Trong Hệ Thống Văn Bản Pháp Luật ?

Bị buộc phải thực hiện một số yêu cầu không có trong luật, các doanh nghiệp tại TPHCM đang gặp không ít rắc rối khi tiến hành thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh.

Nhưng đáng lo hơn cả vẫn là về thủ tục đăng ký đầu tư. Giám đốc một doanh nghiệp cho biết công ty của mình có 49% vốn nước ngoài và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh từ năm 2008 với trên chục ngành, nghề. Công ty chỉ đề nghị được thay đổi người đại diện theo pháp luật nhưng vẫn bị bắt buộc phải thực hiện bổ sung thủ tục đăng ký đầu tư, tức phải có giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thì cơ quan đăng ký mới cho phép thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Nếu thực hiện theo yêu cầu trên, toàn bộ ngành, nghề đã đăng ký sẽ phải đăng ký lại và có thể sẽ có những ngành, nghề phải loại bỏ vì có “yếu tố nước ngoài”. Nói chung, thủ tục sẽ vô cùng phức tạp và có thể sẽ phải chờ đợi dài dài. “Hai loại giấy tờ này thực chất đều chỉ có ý nghĩa là tạo cơ sở pháp lý cho một doanh nghiệp hoạt động. Trong khi đó, chúng tôi đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đang hoạt động bình thường, nay lại bắt làm thêm giấy chứng nhận đầu tư nữa, để làm gì, phục vụ cho ai hay chỉ làm khổ doanh nghiệp?”, vị giám đốc bức xúc.

Giải thích về yêu cầu ghi và mã hóa ngành nghề, trong văn bản trả lời doanh nghiệp, Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM cho biết là họ thực hiện theo Công văn 8311/BKH-ĐKKD ngày 19-11-2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Còn về yêu cầu bổ sung thủ tục đăng ký đầu tư, cơ quan đăng ký kinh doanh không viện dẫn cụ thể văn bản pháp luật nào mà chỉ nêu chung chung là “theo quy định của pháp luật”. Ai cũng biết công văn không phải là một văn bản quy phạm pháp luật và do đó không thể có giá trị bắt buộc thực hiện. Hơn thế nữa, hướng dẫn nói trên của Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa phải thật sự phù hợp pháp luật. Cụ thể, theo giải thích tại Công văn 8311/BKH-ĐKKD cơ sở pháp lý của việc phải ghi và mã hóa khi thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh là dựa trên khoản 4, điều 6 Nghị định 43/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên, điều khoản này lại hoàn toàn không đề cập gì đến vấn đề nói trên. Kể cả trong toàn bộ chương V Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định về trình tự, thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cũng không hề có yêu cầu bắt buộc phải ghi và mã hóa ngành, nghề cũng như yêu cầu về bổ sung thủ tục đăng ký đầu tư. Thậm chí, nghị định này còn quy định rằng “các bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp không được ban hành các quy định về đăng ký doanh nghiệp áp dụng riêng cho ngành hoặc địa phương mình”.

Như vậy, những đòi hỏi về thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh nói trên đã không dựa trên chuẩn mực pháp lý. Mặt khác, việc đặt ra những yêu cầu này còn có thể gây tổn hại đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. “Ví dụ như việc yêu cầu ghi và mã hóa ngành, nghề, thực chất chỉ nhằm phục vụ cho công tác thống kê. Vậy thì lẽ ra đây phải là nghĩa vụ của cơ quan quản lý nhà nước để phục vụ cho lợi ích quản lý nhà nước, chứ sao lại bắt doanh nghiệp đi vào đôi giày do cơ quan quản lý tự đo? Trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp các nước tiên tiến, chủ doanh nghiệp có quyền ghi rằng doanh nghiệp sẽ thực hiện mọi hoạt động kinh doanh sinh lời thì sao Việt Nam lại có quy định lạ lùng thế?!”, một luật sư yêu cầu giấu tên phát biểu.

Bộ phận tư vấn pháp luật doanh nghiệp – Công ty luật Minh Khuê (biên tập)

Bàn Về Khái Niệm “Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật”Trong Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật

VBQPPL là một trong những nguồn luật chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên, trong các tài liệu giảng dạy của các cơ sở đào tạo luật và trong các văn bản luật đã ban hành lại có sự không thống nhất trong việc xác định thế nào là VBQPPL. Chẳng hạn, theo Giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: “VBQPPL là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung, do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức luật định, được Nhà nước bảo đảm thực hiện và được sử dụng nhiều lần trong cuộc sống”[1], còn theo Giáo trình của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội thì: “VBQPPL là hình thức thể hiện các quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (hoặc các cá nhân, tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền) ban hành theo những trình tự, thủ tục pháp lý nhất định, trong đó quy định những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung đối với tất cả các chủ thể pháp luật, được áp dụng nhiều lần trong đời sống”[2].

Trong khi đó, Luật Ban hành VBQPPL năm 1996 thì xác định: “VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong Luật Ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2004 thì xác định: “VBQPPL của HĐND, UBND là văn bản do HĐND, UBND ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật này quy định, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực trong phạm vi địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương theo định hướng XHCN”. Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 thì xác định như sau: “VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhànước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”.

Như vậy, đã không có sự thống nhất khi xác định VBQPPL trong các tài liệu giảng dạy và trong các văn bản luật của Nhà nước ta. Tuy vậy, trong tất cả các định nghĩa nói trên về VBQPPL đều có sự thống nhất ở những điểm cơ bản sau: Thứ nhất, VBQPPL do cơ quan nhà nước ban hành; thứ hai, có quy tắc xử sự chung. Còn lại trong mỗi định nghĩa về VBQPPL lại đưa vào những dấu hiệu phụ khác nhau như “có tính bắt buộc chung” hay “có hiệu lực bắt buộc chung”; “theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này…”; “được Nhà nước bảo đảm thực hiện”; “để điều chỉnh quan hệ xã hội”; “theo định hướng XHCN”; “được áp dụng” hay “sử dụng nhiều lần trong đời sống”…

Với việc thêm hoặc không thêm những dấu hiệu phụ như trên, dẫn đến:

Thứ nhất, VBQPPL nếu không có dấu hiệu “được thực hiện nhiều lần trong cuộc sống” thì chưa thật đầy đủ, vì VBQPPL có (chứa) quy phạm pháp luật mà quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, được thực hiện nhiều lần trong cuộc sống. Do vậy, cần phải có dấu hiệu “được thực hiện nhiều lần”, cũng không nên dùng thuật ngữ “áp dụng” hoặc “sử dụng” nhiều lần vì VBQPPL được thực hiện ở nhiều hình thức khác nhau chứ không chỉ là sử dụng hoặc áp dụng.

Thứ hai, dấu hiệu “có tính bắt buộc chung” hay “hiệu lực bắt buộc chung” được quy định như vậy có thể dẫn đến sự hiểu nhầm. Bởi VBQPPL do HĐND và UBND ban hành lại không được Luật quy định “có hiệu lực bắt buộc chung” mà lại quy định là “có hiệu lực trong phạm vi địa phương”. Những quy định trên có thể hiểu là: VBQPPL có hiệu lực bắt buộc chung tức là có hiệu lực trên phạm vi cả nước, còn văn bản của cơ quan địa phương có hiệu lực bắt buộc trong phạm vi địa phương. Cách hiểu về “tính bắt buộc chung” như vậy là không đúng. Chưa kể văn bản của các cơ quan trung ương ban hành nhiều khi cũng chỉ có hiệu lực thực hiện trên phạm vi một phần lãnh thổ của đất nước. Hiệu lực của văn bản đã có những quy định riêng trong từng Luật, do vậy, không nên đưa dấu hiệu này vào định nghĩa văn bản. Hơn nữa, hiệu lực của văn bản đâu chỉ có giới hạn về không gian mà còn cả về thời gian và về đối tượng tác động, do vậy, không nên quy định “có hiệu lực trong phạm vi địa phương”.

Thứ ba, quy định: “nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội theo định hướng XHCN” hay “để điều chỉnh quan hệ xã hội” cũng chưa phù hợp. Bởi việc thêm cụm từ “theo định hướng XHCN” thì quá trừu tượng, rất khó xác định được VBQPPL nào là “theo định hướng XHCN”, văn bản nào là không theo định hướng XHCN. Còn nếu chỉ quy định là “để điều chỉnh quan hệ xã hội” thì chưa thể hiện được mục đích thực sự của VBQPPL. Do vậy, chúng tôi cho rằng, nên quy định: “để điều chỉnh quan hệ xã hội vì lợi ích cộng đồng” thì phù hợp với mọi VBQPPL.

Thứ tư, việc quy định VBQPPL phải được ban hành “theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này…” sẽ dẫn đến tình trạng đối với những VBQPPL không được “Luật này” quy định thì ban hành như thế nào? Bởi cũng trong Luật Ban hành VBQPPL còn thống kê hệ thống các VBQPPL ở Việt Nam. Điều này được hiểu là chỉ những văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành có tên trong Luật Ban hành VBQPPL thì mới là VBQPPL, còn những văn bản khác thì không phải. Với những quy định như vậy về VBQPPL trong Luật Ban hành VBQPPL hiện nay cho thấy còn nhiều văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có chứa quy phạm pháp luật đã không được quy định trong các Luật Ban hành VBQPPL. Chẳng hạn, điều lệ, quy chế làm việc, quy chế tổ chức và hoạt động của một số cơ quan, tổ chức nhà nước… Những văn bản này được ban hành đúng thẩm quyền, có chứa quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự chung, được thực hiện nhiều lần trong cuộc sống), nhưng không có tên và không ban hành đúng “hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật Ban hành VBQPPL hoặc trong Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND” (thực ra thì các Luật trên đã không quy định về chúng) nên Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 cho rằng chúng không phải là VBQPPL, vậy chúng là văn bản gì?

Cũng trong Khoản 2 Điều 1 Luật trên còn quy định: “Văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND thì không phải là VBQPPL”. Với quy định này có thể hiểu rằng, những văn bản do cơ quan nhà nước ban hành không đúng thẩm quyền, không đúng hình thức, không đúng trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND thì không phải là VBQPPL. Đây là một sự phủ định “quá đáng”, bởi trong thực tế có rất nhiều văn bản được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có chứa quy phạm pháp luật, song ở mức độ nào đó chưa đúng về trình tự, thủ tục hay một nội dung nào đấy nhưng vẫn được tôn trọng và thực hiện, song lại bị Luật cho là “không phải là VBQPPL”. Chưa kể là nhiều VBQPPL được ban hành có sai phạm nhưng không phải khi nào cũng phát hiện được ngay mà sau một thời gian khá dài mới phát hiện được. Như vậy, nếu chưa phát hiện ra sai phạm thì nó (văn bản) là VBQPPL, còn kể từ khi phát hiện ra sai phạm thì nó không còn là VBQPPL nữa?

Cũng cần chú ý là, thẩm quyền ban hành VBQPPL của các cơ quan nhà nước còn được quy định bởi Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Do vậy, Luật Ban hành VBQPPL hạn chế thẩm quyền ban hành VBQPPL của một số cơ quan nhà nước là không phù hợp. Luật Ban hành VBQPPL muốn quy định rõ những văn bản được coi là VBQPPL, nhưng cũng chỉ nửa vời, không triệt để. Chẳng hạn, đối với các văn bản của Chính phủ thì chỉ Nghị định mới là VBQPPL, còn Nghị quyết thì không, tương tự như vậy, đối với văn bản của các Bộ thì chỉ có Thông tư của Bộ trưởng mới là VBQPPL còn Quyết định và Chỉ thị thì không, nhưng một số loại văn bản như Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước được Luật quy định là VBQPPL, song các cơ quan này vẫn buộc phải ban hành những văn bản có tên trên vừa dưới dạng VBQPPL, vừa dưới dạng văn bản áp dụng pháp luật, nghĩa là, nếu Nghị quyết hay Lệnh, Quyết định nào có chứa quy phạm pháp luật thì là VBQPPL, còn nếu không thì có thể là văn bản cá biệt, văn bản áp dụng pháp luật…

Luật Ban hành VBQPPL hiện hành đã quy định rất chặt chẽ về khái niệm VBQPPL, hình thức (tên) các VBQPPL và thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành chúng. Những quy định đó đã làm cho việc nhận thức về VBQPPL, thực tiễn ban hành VBQPPL ở Việt Nam chính xác, chặt chẽ và có cơ sở pháp lý hơn. Tuy vậy, chính những quy định quá chặt chẽ và có phần máy móc của Luật Ban hành VBQPPL như hiện nay đã làm cho những người hoạt động lý luận cũng như thực tiễn lúng túng trong việc nhận thức và lý giải về những trường hợp VBQPPL được ban hành không đúng với các quy định của Luật Ban hành VBQPPL.

2. Kiến nghị sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

a) Chúng tôi cho rằng, Luật Ban hành VBQPPL nên có sự xác định thống nhất về VBQPPL. Theo chúng tôi, có thể định nghĩa VBQPPL như sau: VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành và bảo đảm thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hình thức, nội dung phù hợp với thẩm quyền của cơ quan ban hành, được thực hiện nhiều lần để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích cộng đồng.

Chúng tôi đưa ra định nghĩa trên về VBQPPL vì các lý do sau:

Thứ nhất, VBQPPL phải là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành và bảo đảm thực hiện (các cơ quan nhà nước phối hợp với nhau hoặc cơ quan nhà nước phối hợp với cơ quan của tổ chức chính trị – xã hội, thậm chí phối hợp với nhân dân trong trường hợp ban hành Hiến pháp…). Đây là đặc điểm chung của pháp luật thực định (pháp luật do Nhà nước (cơ quan nhà nước) ban hành và bảo đảm thực hiện).

Thứ hai, việc ban hành và bảo đảm thực hiện VBQPPL phải theo trình tự, thủ tục nhất định. Trình tự, thủ tục ban hành và bảo đảm thực hiện VBQPPL do các văn bản pháp luật khác quy định chứ không chỉ do Luật Ban hành VBQPPL quy định. Do vậy, chỉ cần quy định theo trình tự, thủ tục nhất định thì mới bao quát.

Thứ ba, trong VBQPPL phải có quy tắc xử sự chung và được thực hiện nhiều lần. Đây là dấu hiệu bắt buộc của VBQPPL vì nó chứa quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự chung, được thực hiện nhiều lần). Cũng cần chú ý là trong VBQPPL thì không chỉ có quy tắc xử sự chung mà còn có thể có những quy định mà không phải là quy phạm pháp luật.

Thứ tư, VBQPPL có hình thức, nội dung phù hợp với thẩm quyền của cơ quan ban hành. Mỗi cơ quan nhà nước tự mình hoặc phối hợp cũng chỉ được phép ban hành một số VBQPPL và nội dung những văn bản ấy phải phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó đã được Hiến pháp, luật về tổ chức cơ quan quy định. Luật Ban hành VBQPPL không thể xác định thẩm quyền của cơ quan ban hành trái với Hiến pháp và luật tổ chức cơ quan đó.

Thứ năm, mục đích ban hành VBQPPL là để điều chỉnh quan hệ xã hội vì lợi ích cộng đồng ở các phạm vi khác nhau tùy thuộc vào tính chất, nội dung của mỗi văn bản.

Cách xác định VBQPPL như trên sẽ cho phép giải quyết được:

– Tất cả các văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành và bảo đảm thực hiện mà trong đó có quy tắc xử sự chung, được thực hiện nhiều lần thì đều là VBQPPL, không phụ thuộc vào việc có được Luật Ban hành VBQPPL liệt kê hay không.

– Trình tự, thủ tục ban hành và bảo đảm thực hiện của một số VBQPPL có thể được luật ban hành VBQPPL quy định chặt chẽ, chính xác, một số khác thì không. Chẳng hạn, trình tự, thủ tục ban hành Hiến pháp được quy định trong Hiến pháp; trình tự, thủ tục ban hành các văn bản có tính chất nội bộ trong một cơ quan như quy chế, quy định… do chính cơ quan đó quy định.

– Hình thức và nội dung của VBQPPL không thể chỉ do Luật Ban hành VBQPPL quy định mà phải phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan hoặc các cơ quan ban hành (trong trường hợp có sự phối hợp ban hành). Thẩm quyền của cơ quan ban hành VBQPPL được Hiến pháp, luật về tổ chức cơ quan quy định (Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ…).

– Mục đích ban hành VBQPPL không chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh quan hệ xã hội mà phải xét đến cùng là vì lợi ích cộng đồng, đó có thể là một cộng đồng xã hội nhỏ và cũng có thể là toàn xã hội.

b) Không nên và cũng không thể quy định được hết về nội dung, trình tự, thủ tục ban hành các loại VBQPPL trong Luật Ban hành VBQPPL, nghĩa là, trong Luật Ban hành VBQPPL không nên cho rằng chỉ những văn bản được quy định trong Luật và được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự… của Luật Ban hành VBQPPL mới là VBQPPL, còn các văn bản khác không được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự… của Luật Ban hành VBQPPL thì không phải VBQPPL. Bởi thực chất, Luật Ban hành VBQPPL chỉ quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức ban hành của một số VBQPPL chứ không phải là tất cả các VBQPPL. Và như vậy, chỉ khi ban hành những VBQPPL được quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục và nội dung trong Luật ban hành VBQPPL thì mới phải theo các quy định của Luật, còn những văn bản không quy định trong Luật này thì không phải theo.

c) Ngoài quy định về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì nên có quy định chung về việc giải thích các VBQPPL khác để đảm bảo cho công tác này được tiến hành thống nhất và hiệu quả hơn.

Trong Luật hiện hành chỉ quy định về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, thì không thể dùng cụm từ “giải thích pháp luật”, bởi pháp luật thì không chỉ có Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà bao gồm tất cả các VBQPPL và chúng cũng cần phải được giải thích để nhận thức và thực hiện chính xác, thống nhất. Nếu không quy định được việc giải thích đối với các VBQPPL khác, thì nên dùng cụm từ “giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh” để chỉ đúng nội dung của chương, mục.

Cũng do vậy, không nên phân định rạch ròi, cứng nhắc về các văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Bởi trong thực tiễn có một số văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành luôn luôn là VBQPPL như Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư… Một số văn bản khác do các cơ quan nhà nước ban hành trong quá trình áp dụng pháp luật luôn là văn bản áp dụng pháp luật như bản án, quyết định bổ nhiệm…, còn một số văn bản do cùng một cơ quan nhà nước ban hành nhưng khi thì là VBQPPL (nếu có chứa quy phạm), khi thì lại không phải là văn bản quy phạm (nếu không chứa quy phạm).

d) Không nên quá coi trọng về mặt hình thức, trình tự, thủ tục ban hành văn bản, đòi hỏi việc ban hành “tất cả mọi VBQPPL” phải tuân theo đầy đủ các quy định trong Luật Ban hành VBQPPL. Chúng tôi cho rằng, chỉ những VBQPPL nào được nêu tên trong Luật và được quy định trình tự, thủ tục ban hành trong Luật thì mới phải tuân theo các trình tự, thủ tục chặt chẽ như trong Luật Ban hành VBQPPL. Đối với những VBQPPL không thể và không cần quy định trong Luật thì nên có sự hướng dẫn để các chủ thể có thẩm quyền có thể linh hoạt hơn trong quá trình ban hành sao cho hiệu quả nhất. Bởi mục đích cuối cùng, điều quan trọng nhất mà chúng ta quan tâm đến khi ban hành VBQPPL là chúng phải được ban hành hợp hiến và hợp pháp, được ban hành đúng thẩm quyền cả về nội dung của văn bản và hình thức (tên) văn bản, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, điều chỉnh một cách hiệu quả các quan hệ xã hội, nhằm duy trì quản lý xã hội vì lợi ích của nhân dân.

e) Bổ sung trách nhiệm pháp lý vừa theo nghĩa tích cực vừa theo nghĩa tiêu cực của các chủ thể tham gia quá trình ban hành VBQPPL vào Luật Ban hành VBQPPL để nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình tham gia ban hành VBQPPL./.

Định Nghĩa Xử Lý Văn Bản Tổng Giá Trị Của Khái Niệm Này. Đây Là Gì Xử Lý Văn Bản

Trình xử lý văn bản là một ứng dụng máy tính cho phép bạn tạo và chỉnh sửa tài liệu văn bản trên máy tính . Nó là một phần mềm của nhiều chức năng cho văn bản, với các kiểu chữ khác nhau, kích cỡ chữ, màu sắc, loại đoạn văn, hiệu ứng nghệ thuật và các tùy chọn khác.

Bộ xử lý văn bản thực hiện một chức năng tương tự như máy chữ một vài thập kỷ trước, mặc dù đầy đủ và phức tạp hơn nhiều. Ví dụ, trên máy đánh chữ, mỗi chữ cái được người dùng gõ vào được in ngay lập tức trên giấy, khiến nó không thể xóa được.

Tuy nhiên, với trình xử lý văn bản, có thể xóa và chỉnh sửa nội dung bất cứ lúc nào vì chức năng cơ bản của nó được thực hiện trên màn hình. Khi tác vụ viết đã hoàn thành, người dùng có tùy chọn lưu tài liệu trên phương tiện máy tính (trên ổ cứng máy tính của mình, trên Internet hoặc trên CD) hoặc in tài liệu.

Nhưng loại chương trình máy tính này cũng đưa ra một số khả năng quan trọng khác, đó là những gì đã khiến chúng trở thành những phần không thể thiếu cả trong cuộc sống cá nhân và tại nơi làm việc.

Đặc biệt, chúng cho phép chúng tôi chỉnh sửa hoàn toàn một văn bản và làm cho nó hấp dẫn nhất có thể. Điều đó cho rằng, trong số những người khác, sự ban cho một kiểu chữ cụ thể, một kích thước chữ cái nhất định cũng như tiến hành sử dụng các công cụ để làm nổi bật các từ hoặc cụm từ nhất định. Đó là, nó cho chúng ta cơ hội sử dụng các tài nguyên như in đậm, in nghiêng hoặc gạch chân.

Chúng ta cũng không nên quên tập hợp các khả năng mà nó cung cấp cho chúng ta về mặt căn chỉnh của văn bản, khoảng cách giữa các đoạn văn, thụt lề, màu của các chữ cái và thậm chí bao gồm các danh sách được đánh số.

Nhiều công cụ khác được sử dụng cho người dùng bộ xử lý văn bản là việc tạo các bảng hoặc kết hợp các yếu tố như hộp văn bản, siêu liên kết, ngắt trang, đầu trang và chân trang.

Với tất cả điều này, và cũng sử dụng các công cụ thiết kế trang khác nhau, bạn sẽ có được kết quả ngoạn mục và các tài liệu rất hấp dẫn.

Một tùy chọn khác được cung cấp bởi các trình xử lý văn bản là sử dụng trình kiểm tra chính tả (một ứng dụng phát hiện lỗi chính tả và gợi ý các sửa chữa cần thiết) hoặc từ điển đồng nghĩa (khuyến nghị các từ thay thế cho các từ được viết mà không làm thay đổi nghĩa của từ). văn bản ).

Bộ xử lý văn bản cũng cho phép xen kẽ các hình ảnh và các loại đồ họa khác nhau trong văn bản, cho phép tạo các tài liệu nâng cao hơn bằng cách không giới hạn bản thân đối với các từ được viết.

Microsoft Word, Worderinf và OpenOffice.org Writer là một số trình xử lý văn bản phổ biến nhất.

Thật thú vị khi làm nổi bật một thực tế là, ví dụ, Word được bao gồm trong một gói các chương trình có tên Microsoft Office là một phần của thể loại văn phòng. Với chúng, bạn có thể tạo và làm việc với các văn bản, bảng tính, trình chiếu, cơ sở dữ liệu hoặc email. Do đó, các loại bộ này rất quan trọng đối với các nhiệm vụ hành chính của nhiều công ty.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bàn Về Giá Trị Pháp Lý Của Văn Bản Công Chứng trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!