Xu Hướng 6/2023 # Bàn Luận Thêm Về Độ Nhạy Sáng Iso Trong Nhiếp Ảnh # Top 7 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Bàn Luận Thêm Về Độ Nhạy Sáng Iso Trong Nhiếp Ảnh # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Bàn Luận Thêm Về Độ Nhạy Sáng Iso Trong Nhiếp Ảnh được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bàn luận thêm về độ nhạy sáng ISO trong nhiếp ảnh

1. Độ nhạy sáng ISO là gì

Thuật ngữ ISO được dùng khi nói về giá trị nhạy sáng trong nhiếp ảnh. Đây là từ viết tắt của cụm từ International Standards Organization (Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế), một tổ chức chuyên ban hành các thiết lập tiêu chuẩn trên bình diện quốc tế. Cơ quan này ấn định tiêu chuẩn cho tất cả mọi thứ, từ việc giám sát chất lượng không khí phải thực hiện như thế nào cho đến cách đo lường hàm lượng chất béo trong thực phẩm.

ISO thấp thường được dùng trong điều kiện ánh sáng mạnh hoặc dùng để chụp phơi sáng, còn ISO cao dùng khi chụp thiếu sáng hoặc tốc độ cao.

Cũng giống như trường hợp điều chỉnh tốc độ màn trập hay khẩu độ trong khi chụp ảnh, việc điều chỉnh độ nhạy sáng một đơn vị phơi sáng (một stop) sẽ làm tăng gấp đôi hay giảm một nửa thời gian phơi sáng cần thiết để tạo hình ảnh. Điều này giúp chúng ta dễ hiểu hơn về mối quan hệ giữa tốc độ, khẩu độ và độ nhạy sáng. Nếu tốc độ chụp hay khẩu độ thay đổi một stop, độ nhạy sáng có thể thay đổi một stop theo chiều ngược lại để bù trừ. Có nghĩa là, ISO thấp thường được dùng trong điều kiện ánh sáng mạnh hoặc dùng để chụp phơi sáng, còn ISO cao dùng khi chụp thiếu sáng hoặc tốc độ cao.

2. Thiết lập gốc

Một trong những lợi điểm tuyệt vời của nhiếp ảnh kỹ thuật số là độ nhạy sáng có thể thay đổi giữa các ảnh chụp khác nhau. Người chụp ảnh không bị ràng buộc phải quyết định chọn tốc độ phim ngay từ đầu và phải bám vào tốc độ này cho đến khi chụp hết 24 hay 36 “pô” ảnh giống như trong nhiếp ảnh phim.

Ảnh chụp ở ISO cao thường sẽ sáng hơn nhưng bị nhiễu hạt nhiều hơn so với ảnh chụp ở ISO thấp hơn.

Tuy nhiên, dù hầu hết các mẫu máy ảnh kỹ thuật số hiện đại ngày nay có nhiều thiết lập độ nhạy sáng thì thực tế là độ nhạy sáng của bộ cảm biến được ấn định chỉ bằng một giá trị gốc, thường là ISO 100 hay 200. Trong khi đó, các giá trị khác có thể đạt được bằng cách khuếch đại tín hiệu. Vấn đề là khuếch đại tín hiệu có thể làm ảnh bị nhiễu, là những đốm nhỏ thấy được trong ảnh có độ nhạy sáng cao.

3. Thiết lập có sẵn

Các hãng sản xuất máy ảnh thường thiết kế sản phẩm của họ có một phạm vi độ nhạy sáng ISO chuẩn (hay còn gọi là dải ISO “cài đặt sẵn trong máy”), gồm các giá trị từ khoảng 100 hay 200 cho đến 6.400 hay đôi khi cao hơn.Đây là những giá trị mà hãng cho là sẽ tạo được ảnh với chất lượng ưng ý. Ảnh tạo ra ở giá trị độ nhạy sáng cao hơn sẽ bị nhiễu hơn so với ảnh chụp với ISO thấp hơn, nhưng hãng sản xuất xem hiện tượng đó còn nằm trong giới hạn chấp nhận được và họ hài lòng khi các thiết lập này được sử dụng thường xuyên.

4. Thiết lập mở rộng thấp

Ảnh chụp với thiết lập mở rộng thấp như ISO 64 hay ISO 50 không bị mức độ nhiễu quá mức như trường hợp ảnh chụp với giá trị ISO rất cao, từ 51.200 hay cao hơn. Tuy nhiên, những ảnh này thường không sánh được với chất lượng của ảnh chụp với các giá trị độ nhạy sáng chuẩn như ISO 100 hay 200.Mức độ chi tiết trong những ảnh này thường thấp hơn một chút so với ảnh chụp với thiết lập có sẵn thấp nhất và dải tần nhạy sáng (dynamic range) thường hơi bị hạn chế. Cho nên, bạn có thể thấy rằng vùng sáng dễ bị cháy và vùng tối dễ bị che hơn. Trừ khi cần dùng thiết lập nhạy sáng rất thấp để chụp ảnh rộng hay làm mờ chuyển động, trong hầu hết các trường hợp thì bạn nên dùng các thiết lập ISO có sẵn trong máy như đã đề cập trong phần trên để đạt chất lượng hình ảnh tốt nhất.

5. Nhiễu màu và nhiễu độ sáng

Các kết cấu nhỏ tình cờ xuất hiện trong một bức ảnh có thể gọi là nhiễu trong ảnh kỹ thuật số hay các hạt li ti trên ảnh chụp bằng phim. Đối với loại phim nhựa, hạt li ti là kết quả của các phần tử hóa học không nhận đủ ánh sáng. Trong các bộ cảm biến hình ảnh kỹ thuật số, nhiễu là kết quả của các tín hiệu thừa tạo ra bởi hệ mạch kỹ thuật số của máy ảnh. Hiện tượng này xảy ra do lượng nhiệt vượt mức gây ra hay do khả năng xử lý của bộ cảm biến đối với tín hiệu rối loạn trong sóng không khí.

Nhiễu hạt thường là một hiệu ứng nhằm thêm nét đặc sắc trong ảnh đen trắng.

Khi tăng độ nhạy sáng, hiện tượng bị nhiễu ảnh càng thấy rõ nhất là trong các vùng tối hơn. Loại nhiễu ảnh này thấy rõ trong hai dạng: nhiễu màu (hay nhiễu sắc độ) và nhiễu độ sáng. Đó là những biến đổi về màu sắc và độ sáng của điểm ảnh. Nhiễu màu, biểu thị qua hiện tượng bị đốm màu, thường là hiện tượng khó chịu và khó giải quyết nhất vì nó trông không bình thường. Trong khi đó, nhiễu độ sáng thường ít thấy rõ hơn.Trong nhiều trường hợp, không ai muốn xảy ra hiện tượng nhiễu trong ảnh màu. Tuy nhiên, đối với ảnh đen trắng, một số nhiếp ảnh gia cố tình tạo ra hiện tượng bị hạt nhằm thêm nét đặc sắc cho ảnh của họ chứ không phải là một lỗi tiêu cực.

Hệ thống giảm nhiễu trong máy ảnh kỹ thuật số ngày càng tinh vi nhờ áp dụng các giải thuật phức tạp để phân tích hình ảnh, nhận dạng nhiễu và giảm thiểu ảnh hưởng của nhiễu. Tuy nhiên, khi xử lý nhiễu màu, kết quả có thể là độ bão hòa màu sẽ bị giảm toàn bộ. Đồng thời, việc giải quyết nhiễu độ chói có thể làm mờ các chi tiết ảnh.Khi cố điều chỉnh hiện tượng mờ, một số mẫu máy ảnh áp dụng tính năng làm sắc cạnh ở mức độ khá cao. Trong vài trường hợp, phương pháp này đưa đến kết quả là một hiệu ứng màu nước thấy rất rõ khi xem ảnh ở độ phóng đại 100%. Điều đó có nghĩa là nét bên ngoài rất rõ xung quanh các thành phần hình ảnh có sắc độ đều đặn ở bên trong.Nếu có thể, tốt nhất là bạn nên chụp ảnh với độ nhạy sáng cao theo định dạng RAW và JPEG cùng một lúc. Định dạng JPEG cho phép có thể xuất ảnh ngay sau khi chụp, trong khi tập tin RAW chứa tất cả dữ liệu để chỉnh sửa sau khi chụp. Định dạng RAW cho phép tìm được đúng cân bằng giữa độ nét chi tiết, độ giảm thiểu nhiễu và thường được các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp ưa dùng.

Những Điều Cần Biết Về Độ Nhạy Sáng Iso Trong Nhiếp Ảnh

Thuật ngữ ISO được dùng khi nói về giá trị nhạy sáng trong nhiếp ảnh. Đây là từ viết tắt của cụm từ International Standards Organization (Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế), một tổ chức chuyên ban hành các thiết lập tiêu chuẩn trên bình diện quốc tế. Cơ quan này ấn định tiêu chuẩn cho tất cả mọi thứ, từ việc giám sát chất lượng không khí phải thực hiện như thế nào cho đến cách đo lường hàm lượng chất béo trong thực phẩm.

Trong ngành nhiếp ảnh phim, việc sử dụng từ tắt ISO có nghĩa là loại phim được sử dụng có giá trị nhạy sáng phải hợp với giá trị theo chuẩn ISO. Thí dụ, loại phim rất nhạy sáng có giá trị ISO 1.600 hay 3.200 cần ít ánh sáng hơn để tạo ra hình ảnh so với phim có độ nhạy sáng thấp ISO 100 hay 50. Mỗi cuộn phim chỉ có một giá trị ISO cố định duy nhất. Còn đối với máy ảnh kỹ thuật số, tùy mức độ cao cấp của máy mà dải ISO có thể cao hay thấp. Các giá trị ISO ngày nay được dùng để mô tả thiết lập độ nhạy sáng trên máy ảnh kỹ thuật số.

Cũng giống như trường hợp điều chỉnh tốc độ màn trập hay khẩu độ trong khi chụp ảnh, việc điều chỉnh độ nhạy sáng một đơn vị phơi sáng (một stop) sẽ làm tăng gấp đôi hay giảm một nửa thời gian phơi sáng cần thiết để tạo hình ảnh. Điều này giúp chúng ta dễ hiểu hơn về mối quan hệ giữa tốc độ, khẩu độ và độ nhạy sáng. Nếu tốc độ chụp hay khẩu độ thay đổi một stop, độ nhạy sáng có thể thay đổi một stop theo chiều ngược lại để bù trừ. Có nghĩa là, ISO thấp thường được dùng trong điều kiện ánh sáng mạnh hoặc dùng để chụp phơi sáng, còn ISO cao dùng khi chụp thiếu sáng hoặc tốc độ cao.

Một trong những lợi điểm tuyệt vời của nhiếp ảnh kỹ thuật số là độ nhạy sáng có thể thay đổi giữa các ảnh chụp khác nhau. Người chụp ảnh không bị ràng buộc phải quyết định chọn tốc độ phim ngay từ đầu và phải bám vào tốc độ này cho đến khi chụp hết 24 hay 36 “pô” ảnh giống như trong nhiếp ảnh phim.

Tuy nhiên, dù hầu hết các mẫu máy ảnh kỹ thuật số hiện đại ngày nay có nhiều thiết lập độ nhạy sáng thì thực tế là độ nhạy sáng của bộ cảm biến được ấn định chỉ bằng một giá trị gốc, thường là ISO 100 hay 200. Trong khi đó, các giá trị khác có thể đạt được bằng cách khuếch đại tín hiệu. Vấn đề là khuếch đại tín hiệu có thể làm ảnh bị nhiễu, là những đốm nhỏ thấy được trong ảnh có độ nhạy sáng cao.

Các hãng sản xuất máy ảnh thường thiết kế sản phẩm của họ có một phạm vi độ nhạy sáng ISO chuẩn (hay còn gọi là dải ISO “cài đặt sẵn trong máy”), gồm các giá trị từ khoảng 100 hay 200 cho đến 6.400 hay đôi khi cao hơn.

Đây là những giá trị mà hãng cho là sẽ tạo được ảnh với chất lượng ưng ý. Ảnh tạo ra ở giá trị độ nhạy sáng cao hơn sẽ bị nhiễu hơn so với ảnh chụp với ISO thấp hơn, nhưng hãng sản xuất xem hiện tượng đó còn nằm trong giới hạn chấp nhận được và họ hài lòng khi các thiết lập này được sử dụng thường xuyên.

Nhiều hãng sản xuất cũng thiết kế máy ảnh DSLR có các thiết lập “mở rộng” độ nhạy sáng, với những giá trị ISO nằm ngoài phạm vi có sẵn trong máy. Khi các giá trị này được dùng thì ảnh sẽ không có cùng chất lượng như những ảnh được tạo ra trong phạm vi độ nhạy sáng có sẵn. Hãng sản xuất cung cấp các giá trị này chủ yếu để giúp chụp ảnh trong các trường hợp khác thường hơn.

Ảnh chụp với thiết lập mở rộng thấp như ISO 64 hay ISO 50 không bị mức độ nhiễu quá mức như trường hợp ảnh chụp với giá trị ISO rất cao, từ 51.200 hay cao hơn. Tuy nhiên, những ảnh này thường không sánh được với chất lượng của ảnh chụp với các giá trị độ nhạy sáng chuẩn như ISO 100 hay 200.

Mức độ chi tiết trong những ảnh này thường thấp hơn một chút so với ảnh chụp với thiết lập có sẵn thấp nhất và dải tần nhạy sáng (dynamic range) thường hơi bị hạn chế. Cho nên, bạn có thể thấy rằng vùng sáng dễ bị cháy và vùng tối dễ bị che hơn. Trừ khi cần dùng thiết lập nhạy sáng rất thấp để chụp ảnh rộng hay làm mờ chuyển động, trong hầu hết các trường hợp thì bạn nên dùng các thiết lập ISO có sẵn trong máy như đã đề cập trong phần trên để đạt chất lượng hình ảnh tốt nhất.

Các kết cấu nhỏ tình cờ xuất hiện trong một bức ảnh có thể gọi là nhiễu trong ảnh kỹ thuật số hay các hạt li ti trên ảnh chụp bằng phim. Đối với loại phim nhựa, hạt li ti là kết quả của các phần tử hóa học không nhận đủ ánh sáng. Trong các bộ cảm biến hình ảnh kỹ thuật số, nhiễu là kết quả của các tín hiệu thừa tạo ra bởi hệ mạch kỹ thuật số của máy ảnh. Hiện tượng này xảy ra do lượng nhiệt vượt mức gây ra hay do khả năng xử lý của bộ cảm biến đối với tín hiệu rối loạn trong sóng không khí.

Khi tăng độ nhạy sáng, hiện tượng bị nhiễu ảnh càng thấy rõ nhất là trong các vùng tối hơn. Loại nhiễu ảnh này thấy rõ trong hai dạng: nhiễu màu (hay nhiễu sắc độ) và nhiễu độ sáng. Đó là những biến đổi về màu sắc và độ sáng của điểm ảnh. Nhiễu màu, biểu thị qua hiện tượng bị đốm màu, thường là hiện tượng khó chịu và khó giải quyết nhất vì nó trông không bình thường. Trong khi đó, nhiễu độ sáng thường ít thấy rõ hơn.

Trong nhiều trường hợp, không ai muốn xảy ra hiện tượng nhiễu trong ảnh màu. Tuy nhiên, đối với ảnh đen trắng, một số nhiếp ảnh gia cố tình tạo ra hiện tượng bị hạt nhằm thêm nét đặc sắc cho ảnh của họ chứ không phải là một lỗi tiêu cực.

Hệ thống giảm nhiễu trong máy ảnh kỹ thuật số ngày càng tinh vi nhờ áp dụng các giải thuật phức tạp để phân tích hình ảnh, nhận dạng nhiễu và giảm thiểu ảnh hưởng của nhiễu. Tuy nhiên, khi xử lý nhiễu màu, kết quả có thể là độ bão hòa màu sẽ bị giảm toàn bộ. Đồng thời, việc giải quyết nhiễu độ chói có thể làm mờ các chi tiết ảnh.

Khi cố điều chỉnh hiện tượng mờ, một số mẫu máy ảnh áp dụng tính năng làm sắc cạnh ở mức độ khá cao. Trong vài trường hợp, phương pháp này đưa đến kết quả là một hiệu ứng màu nước thấy rất rõ khi xem ảnh ở độ phóng đại 100%. Điều đó có nghĩa là nét bên ngoài rất rõ xung quanh các thành phần hình ảnh có sắc độ đều đặn ở bên trong.

Nếu có thể, tốt nhất là bạn nên chụp ảnh với độ nhạy sáng cao theo định dạng RAW và JPEG cùng một lúc. Định dạng JPEG cho phép có thể xuất ảnh ngay sau khi chụp, trong khi tập tin RAW chứa tất cả dữ liệu để chỉnh sửa sau khi chụp. Định dạng RAW cho phép tìm được đúng cân bằng giữa độ nét chi tiết, độ giảm thiểu nhiễu và thường được các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp ưa dùng.

Nguồn: Huy Thắng – Thế giới vi tính online (http://www.pcworld.com.vn)

Độ Nhạy Sáng Của Máy Ảnh Là Gì ?

Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về độ nhạy sáng của máy ảnh là gì (ISO) và làm sao để có thể tránh được những tác dụng không mong muốn từ noise gây ra bởi ISO cao.

1. Độ nhạy sáng của máy ảnh (ISO) là gì?

ISO là viết tắt của “International Organisation for Standardisation” (Tổ Chức Chuẩn Hóa Quốc Tế – một tổ chức quyết định các tiêu chuẩn quốc tế).

Trong nhiếp ảnh số, độ nhạy sáng ISO được dùng để cho biết độ nhạy của cảm biến đối với ánh sáng.

Giá trị ISO càng lớn thì ảnh càng sáng nghĩa là cảm biến càng nhạy với ánh sáng hơn, trong một khoảng thời gian chụp như nhau thì ISO cao hơn thu được nhiều ánh sáng hơn làm ảnh sáng hơn.

2. Độ nhạy sáng của máy ảnh và hiện tượng nhiễu hạt (NOISE)

Noise là thuật ngữ trong nhiếp ảnh số, tương đương với grain trong ảnh phim, là hiện tượng xảy ra khi chụp ảnh trong môi trường thiếu sáng với ISO cao, làm ảnh xuất hiện các hạt lấm chấm, theo 3 kênh màu: đỏ (red), xanh lá cây (green), xanh dương (blue).

Những hạt lấm chấm này được phân bố trên các bề mặt mịn, đặc biệt là ở các vùng tối và sẫm màu. Một tấm ảnh xuất hiện càng nhiều noise thì chất lượng ảnh càng thấp, vùng cạnh biên của các đối tượng càng bị mờ, ảnh có cảm giác vỡ hạt.

Độ nhạy sáng của máy ảnh sẽ ảnh hưởng đến độ nét và độ chi tiết của bức ảnh. Các chi tiết ở vùng tối bị bết vào khối. Các đường phân cách giữa các chi tiết sẽ không còn được rõ ràng. Các nhiếp ảnh gia thường tìm mọi cách giảm thiểu noise nhằm bảo tồn chất lượng ảnh tốt nhất.

Các máy ảnh kích thước cảm biến sensor càng lớn, ảnh chụp ra càng ít gặp noise hơn. Chẳng hạn như ta sử dụng máy ảnh full-frame như 5D mark III , chắc chắn sẽ chụp được bức ảnh ở ISO cao, có ít noise hơn so với các dòng máy crop như 50D, 60D…

3. Giảm thiểu Noise gây ra di độ nhạy sáng của máy ảnh.

Tổng quan, để giảm thiểu noise từ đó gia tăng chất lượng của bức ảnh chúng ta có các cách sau:

Dùng máy ảnh có kích thước cảm biến lớn hơn (ví dụ full frame thì tốt hơn crop ở cùng khoảng công nghệ)

Lắp thêm đèn, mở cửa sổ, dùng flash… để tăng thêm ánh sáng, hoặc chụp trong môi trường có nhiều ánh sáng hơn.

Cố gắng chụp với ISO thấp nhất có thể.

Sử dụng các plugin trong quá trình hậu kỳ để giảm noise (như Noise Ninja, Topaz Denoise…)

4. Tùy chỉnh độ nhạy sáng của máy ảnh (ISO) trước khi chụp

ISO là một yếu tố ít khi thay đổi trong suốt quá trình chúng ta chụp ảnh. Vì vậy, sau đây chúng ta có một vài thông số ISO cho các trường hợp đặc biệt. Việc tùy chỉnh ISO đúng sẽ giúp chúng ta dễ dàng căn chỉnh 2 yếu tố còn lại là tốc độ và khẩu độ.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng độ nhạy sáng của máy ảnh (ISO) là một trong 03 yếu tố căn bản của nhiếp ảnh mà bất cứ ai cũng cần phải nắm rõ. ISO càng thấp thì chất lượng ảnh càng đẹp, tuy nhiên lại yêu cầu nhiều ánh sáng hơn để có được một bức ảnh đủ sáng, khi ISO lên quá cao thì bắt đầu xuất hiện các nhiễu hạt (noise), việc khắc phục các noise này có thể làm trong quá trình hậu kỳ, tuy nhiên cũng không thể đẹp như ảnh được chụp ở ISO thấp được.

– Bản quyền bài viết thuộc về Học viện Nhiếp ảnh Thương Mại ChimkudoPro – Lighten your valuesMọi trích dẫn đều phải kèm link gốc tới bài viết

Những Điểm Cơ Bản Về Máy Ảnh #5: Độ Nhạy Sáng Iso

Độ nhạy sáng ISO đóng vai trò không kém quan trọng so với khẩu độ và tốc độ cửa trập về tác dụng của nó đối với phơi sáng. Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu thêm về những lợi thế và bất lợi của việc tăng độ nhạy sáng ISO. (Người trình bày: Tomoko Suzuki)

Trong môi trường thiếu sáng, chúng ta có thể tăng tốc độ cửa trập bằng cách tăng độ nhạy sáng ISO

Những điểm cần lưu ý

– Trong dải độ nhạy sáng ISO bình thường, độ nhạy sáng ISO càng thấp, chất lượng hình ảnh càng cao. – Tăng độ nhạy sáng ISO cho phép máy ảnh cài đặt tốc độ cửa trập nhanh hơn. – Nhiễu xuất hiện ở độ nhạy sáng ISO cao hơn.

Nói đơn giản, độ nhạy sáng ISO là khả năng nhạy sáng của cảm biến hình ảnh, được phản ánh như một giá trị chữ số. Người ta nói rằng phơi sáng tạo nên hoặc phá hỏng một tấm ảnh, nhưng độ nhạy sáng ISO cũng là một yếu tố chính trong việc quyết định phơi sáng.

Nếu khẩu độ là độ rộng của tia sáng đi qua và tốc độ cửa trập là thời gian cần để tia sáng đi qua, thì độ nhạy sáng ISO mô tả khả năng nhạy sáng của cảm biến hình ảnh. Giá trị này càng cao, máy ảnh càng nhạy sáng. Ngay cả ở môi trường tối hoặc khi chụp cảnh đêm, chúng ta vẫn có thể chụp được ảnh đẹp, sáng. Nói cách khác, giả định rằng chúng ta không cần ảnh sáng hơn, độ nhạy sáng ISO càng cao sẽ cho phép có tốc độ cửa trập càng cao. Bằng cách điều chỉnh độ nhạy sáng ISO, chúng ta tăng tốc độ cửa trập. Bằng cách đó, chúng ta có thể tránh nhòe do rung máy hoặc nhòe do chuyển động của đối tượng.

Độ nhạy sáng ISO càng cao cũng cho phép chúng ta có được khẩu độ càng hẹp mà không làm giảm độ sáng của ảnh, miễn là chúng ta sử dụng một tốc độ cửa trập cố định (chẳng hạn như bằng cách sử dụng chế độ Shutter-Priority AE).

Độ nhạy sáng ISO là một chức năng hữu ích, nó cũng có những bất lợi. Độ nhạy sáng ISO càng cao, nó sinh ra nhiễu càng nhiều. Ảnh tổng thể sẽ có hạt. Vâng, hiện nay có những máy ảnh có tính năng giảm nhiễu, nhưng hầu hết các nhiếp ảnh gia vẫn sẽ cố gắng hết sức duy trì độ nhạy sáng ISO ở một thiết lập vừa đủ để tránh nhòe do rung máy. Thông thường, thiết lập này gần với độ nhạy sáng ISO cơ sở (độ nhạy sáng ISO bình thường thấp nhất) ở mức có thể, nhưng có thể cao hơn tùy vào ý định nhiếp ảnh và điều kiện chụp.

Ví dụ, bạn có thể cố không sử dụng độ nhạy sáng ISO cơ sở khi chụp ảnh vệt sáng và các tòa nhà vào ban đêm. Tuy nhiên, bạn sẽ cần một độ nhạy sáng ISO cao hơn để tránh rung máy khi chụp ảnh cầm tay vào ban đêm. Và nếu bạn muốn chụp sao, ngay cả khi bạn sử dụng chân máy, chắc chắn bạn sẽ cần cả tốc độ cửa trập thấp và độ nhạy sáng ISO cao.

Từ trái sang: EOS 5D Mark III/ EF50mm f/1.4 USM/ FL: 50mm/ Aperture-priority AE (f/5.6, 2.5 giây, EV-0,7)/ ISO 100/ WB: Auto EOS 5D Mark III/ EF50mm f/1.4 USM/ FL: 50mm/ Aperture-priority AE (f/5.6, 1/6 giây, EV-0,7)/ ISO 1600/ WB: Auto EOS 5D Mark III/ EF50mm f/1.4 USM/ FL: 50mm/ Aperture-priority AE (f/5.6, 1/50 giây, EV-0,7)/ ISO 12800/ WB: Auto

Hãy để ý mức nhiễu tăng như thế nào khi sử dụng độ nhạy sáng ISO cao hơn. Tùy vào tình huống, mọi thứ có thể xuất hiện rất dễ thấy. Đảm bảo bạn không tăng độ nhạy sáng ISO quá cao!

Từ khóa: ISO AUTO

Khi di chuyển từ một môi trường sáng sang một môi trường tối, hãy nhớ tăng độ nhạy sáng ISO, nếu không sẽ có nguy cơ rung máy. Nếu bạn nghĩ rằng mình có thể quên, bạn có thể để máy ảnh ở chế độ ISO AUTO. Đây là một tính năng tiện lợi tự động điều chỉnh độ nhạy sáng ISO trên máy ảnh sao cho thiết lập tốc độ cửa trập sẽ đủ nhanh để tránh rung máy. Nó cũng có thể tránh tình trạng máy ảnh sử dụng cùng độ nhạy sáng ISO cao để chụp ảnh ngay cả sau khi bạn đã chuyển từ môi trường tối sang môi trường sáng.

Màn hình ISO AUTO Khi cài đặt ISO AUTO, hãy chọn [AUTO (Tự Động)] trên màn hình để cài đặt. Khi chọn AUTO, máy ảnh sẽ tự động quyết định độ nhạy sáng ISO tùy theo cảnh và chế độ ảnh. Đây là một tính năng rất tiện lợi, giúp ổn định ảnh khi có rung máy và nhòe chuyển động của đối tượng.

Cài đặt giới hạn trên cho ISO AUTO Khi cài đặt độ nhạy sáng ISO thành AUTO, cũng có thể cài đặt giới hạn trên của độ nhạy sáng mà máy ảnh có thể vận hành ở đó. Nếu giới hạn trên được cài đặt càng cao, mặc dù có thể dễ dàng chụp ảnh ở các cảnh tối hoặc với các đối tượng tối, sẽ có nhiễu nhiều hơn. Cài đặt độ nhạy sáng ISO thành một thiết lập sẽ không ảnh hưởng quá tệ đến chất lượng hình ảnh.

Thủ thuật hữu ích: Sự khác biệt giữa độ nhạy sáng ISO bình thường và độ nhạy sáng ISO mở rộng

Một số máy ảnh phân biệt giữa độ nhạy sáng ISO bình thường và độ nhạy sáng ISO mở rộng. “Độ nhạy sáng ISO bình thường” (cũng được gọi là “độ nhạy sáng ISO cơ bản”) là dải độ nhạy sáng ISO mà hãng sản xuất máy ảnh đã kiểm nghiệm và xem là sẽ mang lại chất lượng hình ảnh tối ưu cho bạn. “Độ nhạy sáng ISO mở rộng” là độ nhạy cao hơn hoặc thấp hơn dải độ nhạy sáng ISO bình thường, và thường sẽ làm giảm chất lượng hình ảnh phần nào khi bạn sử dụng nó. Khi quyết định nên sử dụng thiết lập nào, hãy cân nhắc mục đích và đối tượng chụp. Nếu chất lượng hình ảnh là quan trọng, bạn nên sử dụng dải độ nhạy sáng ISO bình thường.

Để biết thủ thuật về cách sử dụng độ nhạy sáng ISO mở rộng, truy cập:Những CHTG về Máy Ảnh #3: Tôi có thể sử dụng độ nhạy sáng ISO mở rộng trên máy ảnh bằng cách nào?

Màn hình thiết lập độ nhạy sáng ISO mở rộng Trên hầu hết các máy ảnh, độ nhạy sáng ISO mở rộng được tắt theo mặc định. Một số máy ảnh cho phép bạn cài đặt độ nhạy sáng ISO mở rộng thấp hơn bên cạnh độ nhạy sáng ISO mở rộng cao hơn.

Màn hình thiết lập Giảm Nhiễu Chức năng Giảm Nhiễu giúp giảm tác động nhiễu khi chụp ảnh ở độ nhạy sáng ISO cao hoặc phơi sáng lâu. Chọn mức phù hợp tùy theo cảnh.

Nhận thông tin cập nhật mới nhất về tin tức nhiếp ảnh, thủ thuật và mẹo bằng cách đăng ký với chúng tôi!

Cập nhật thông tin chi tiết về Bàn Luận Thêm Về Độ Nhạy Sáng Iso Trong Nhiếp Ảnh trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!