Xu Hướng 3/2023 # 5 Qui Luật Cơ Bản Của Sinh Thái Học # Top 10 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # 5 Qui Luật Cơ Bản Của Sinh Thái Học # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết 5 Qui Luật Cơ Bản Của Sinh Thái Học được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1. Quy luật tác động tổng hợp.

Môi trường bao gồm nhiều yếu tố có tác động qua lại, sự biến đổi các nhân tố này có thể dẫn đến sự thay đổi về lượng, có khi về chất của các yếu tố khác và sinh vật  chịu ảnh hưởng sự biến đổi đó. Tất cả các yếu tố đều gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một tổ hợp sinh thái. Ví dụ như chế độ chiếu sáng trong rừng thay đổi thì nhiệt độ, độ ẩm không khí và đất sẽ thay đổi và sẽ ảnh hưởng đến hệ động vật không xương sống và vi sinh vật đất, từ đó ảnh hưởng đến chế độ dinh dưỡng khoáng của thực vật.

– Mỗi nhân tố sinh thái chỉ có thể biểu hiện hoàn toàn tác động khi các nhân tố khác đang hoạt động đầy đủ. Ví dụ như trong đất có đủ muối khoáng nhưng cây không sử dụng được khi độ ẩm không thích hợp; nước và ánh sáng không thể có ảnh hướng tốt đến thực vật khi trong đất thiếu muối khoáng.

2.  Qui luật giới hạn sinh thái Shelford (1911, 1972)

Ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên sinh vật rất đa dạng, không chỉ phụ thuộc vào tính chất của các yếu tố sinh thái mà cả vào cường độ của chúng. Đối với mỗi yếu tố, sinh vật chỉ thích ứng với một giới hạn tác động nhất định, đặc biệt là các yếu tố sinh thái vô sinh. Sự tăng hay giảm cường độ tác động của yếu tố ra ngoài giới hạn thích hợp của cơ thể sẽ làm  giảm  khả  năng  sống  hoặc  hoạt  động.  Khi  cường  độ  tác  động  tới ngưỡng cao nhất hoặc thấp nhất so với khả năng chịu đựng của cơ thể thì sinh vật không tồn tại được.

Giới  hạn chịu  đựng của cơ  thể  đối với  một  yếu tố  sinh thái nhất định đó là giới hạn sinh thái   hay trị số sinh thái (hoặc biên độ sinh thái). Còn  mức  độ  tác  động  có  lợi  nhất  đối  với  cơ  thể  gọi  là  điểm  cực  thuận (Optimum). Những loài sinh vật khác nhau có giới hạn sinh thái và điểm cực thuận khác nhau, có loài giới hạn sinh thái rộng gọi là loài rộng sinh thái, có loài giới hạn sinh thái hẹp gọi là loài hẹp sinh thái. Như vậy mỗi một loài có một giá trị sinh thái riêng. Trị sinh thái của một sinh vật là khả năng thích ứng của sinh vật đối với các điều kiện môi trường khác nhau.

Nếu một loài sinh vật có  giới hạn sinh thái rộng đối với một yếu tố nào đó thì ta nói sinh vật đó rộng với yếu tố đó, chẳng hạn “rộng nhiệt”, “rộng muối”, còn nếu có giới hạn sinh thái hẹp ta nói sinh vật đó hẹp với yếu  tố  đó,  như  “hẹp  nhiệt”,  “hẹp  muối”…  Trong  sinh  thái  học  người  ta thường sử dụng các tiếp đầu ngữ: hep (Cteno-), rộng (Eury-), ít (Oligo-), nhiều (Poly-) đặt kèm với tên yếu tố đó để chỉ một cách định tính về mức thích nghi sinh thái của sinh vật đối với các yêu tố môi trường.

Ví dụ: loài chuột cát đài nguyên chịu đựng được sự dao động nhiệt độ không khí tới 800C (từ -500C đến +300C), đó là loài chịu nhiệt rộng hay là loài rộng nhiệt (Eurythermic), hoặc như loài thông đuôi ngựa không thể sống được ở nơi có nồng độ NaCl trên 40/00, đó là loài chịu muối thấp hay loài hẹp muối (Stenohalin).

3.   Qui luật tác động không đồng đều của yếu tố sinh thái lên chức phận sống của cơ thể.

Các yếu  tố  sinh  thái  có ảnh hưởng  khác  nhau  lên  các  chức phận sống  của  cơ  thể,  nó  cực  thuận  đối  với  quá  trình  này  nhưng  có  hại  hoặc nguy hiểm cho quá trình khác. Ví dụ như nhiệt độ không khí tăng đến 400 – 50 0C sẽ làm tăng các quá trình trao đổi chất ở động vật máu lạnh nhưng lại kìm hảm sự di động của con vật.

Có nhiều loài sinh vật trong chu kỳ sống của mình, các giai đoạn sống khác nhau có những yêu cầu sinh thái khác nhau,  nếu không được thỏa  mản  thì  chúng  sẽ chết  hoặc khó  có  khả  năng  phát  triển. Ví  dụ loài tôm he (Penaeus merguiensis) ở giai đoạn thành thục sinh sản chúng sống ở biển khơi và sinh sản ở đó, giai đoạn đẻ trứng và trứng nở ở nơi có nồng độ muối cao (32 – 36 0/00), độ pH = 8, ấu trùng cũng sống ở biển, nhưng sang giai đoạn sau ấu trùng (post-larvae) thì chúng chỉ sống ở những nơi có nồng   độ muối thấp (10 – 250/00) (nước lợ) cho đến khi đạt kích thước trưởng thành mới di chuyển đến nơi có nồng độ muối cao.

Hiểu biết được các qui luật này, con người có thể biết các thời kỳ trong chu kỳ sống của một số sinh vật để nuôi, trồng, bảo vệ hoặc đánh bắt vào lúc thích hợp.

4.  Qui luật tác động qua lại giữa sinh vật và môi trường

Trong mối quan hệ tương hổ giữa quần thể, quần xã sinh vật với môi trường, không những các yếu tố sinh thái của môi trường tác động lên chúng, mà các sinh vật cũng có ảnh hưởng đến các yếu tố sinh thái của môi trường và có thể làm thay đổi tính chất của các yếu tố sinh thái đó.

5. Quy luật tối thiểu

Quy luật này được nhà hoá học người Đức Justus Von Liebig đề xuất năm 1840 trong công trình “Hoá học hữu cơ và sử dụng nó trong sinh lý học và nông nghiệp”. Ông lưu ý rằng năng suất mùa màng giảm hoặc tăng tỷ lệ thuận với sự giảm hay tăng các chất khoáng bón cho cây ở đồng ruộng.  Như  vậy,  sự  sinh  sản  của  thực  vật  bị  giới  hạn  bởi  số  lượng  của muối khoáng. Liebig chỉ ra rằng “Mỗi một loài thực vật đòi hỏi một loại và một lượng muối dinh dưỡng xác định, nếu lượng muối là tối thiểu thì sự tăng trưởng của thực vật cũng chỉ đạt mức tối thiểu”.

Khi ra đời, quy luật Liebig thường áp dụng đối với các loại muối vô  cơ.  Theo  thời  gian,  ứng  dụng  này  được  mở  rộng,  bao  gồm  một  phổ rộng  các  yếu  tố  vật  lý,  mà  trong  đó  nhiệt  độ  và  lượng  mưa  thể  hiện  rõ nhất. Tuy vậy quy luật này cũng có những hạn chế vì nó chỉ áp dụng đúng trong  trạng  thái  ổn  định  và  có  thể  còn  bỏ  qua  mối  quan  hệ  khác  nữa. Chẳng hạn, trong ví dụ về phốt pho (phosphor) và năng suất, Liebig cho rằng phốt pho là nguyên nhân trực tiếp làm thay đổi năng suất. Sau này người  ta  thấy  rằng  sự  có  mặt  của  muối  nitơ  (nitrogen)  không  chỉ  ảnh hưởng lên nhu cầu nước của thực vật mà còn góp phần làm cho thực vật lấy được phốt pho ở dưới dạng không thể đồng hoá được. Như vậy, muối nitơ  là yếu tố thứ 3 phối hợp tạo ra hiệu quả.

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Những Kiến Thức Cơ Bản Về Hệ Sinh Thái

Quần thể (population) là một nhóm cá thể của một loài, sống trong một khoảng không gian xác định, có nhiều đặc điểm đặc trưng cho cả nhóm, chứ không phải cho từng cá thể của nhóm (E.P. Odium, 1971). Hoặc quần thể là một nhóm cá thể của cùng một loài sống trong cùng một khu vực (Alexi Sharov, 1996).

Quần xã (community) bao gồm cả quần xã của nhiều loài khác nhau, loài có vai trò quyết định sự tiến hóa của quần xã là loài ưu thế sinh thái.

Quần xã sinh vật (biome) là tập hợp các sinh vật thuộc các loài khác nhau cùng sinh sống trên một khu vực nhất định. Khu vực sinh sống của quần xã được gọi là sinh cảnh. Như vậy, sinh cảnh là môi trường vô sinh. Trên thực tế để dễ nhận biết và phân biệt, người ta dùng vật chỉ thị là thảm thực vật, vì yếu tố thực vật thường chiếm ưu thế trong một sinh cảnh và có ảnh hưởng rõ rệt lên sinh cảnh.

Tập hợp các sinh vật, cùng với các mối quan hệ khác nhau giữa các sinh vật đó và các mối tác động tương hỗ giữa chúng với môi trường, với các yếu tố vô sinh, tạo thành một hệ thống sinh thái, gọi tắt là hệ sinh thái (ecosystem). Hệ sinh thái là hệ chức năng gồm có quần xã, các cơ thể sống và môi trường của nó dưới tác động của năng lượng mặt trời.

Năm 1935, nhà sinh thái học người Anh, A. Tansley đề xuất khái niệm hệ sinh thái: “sinh vật và thế giới vô sinh (không sống) ở xung quanh có quan hệ khắng khít với nhau và thường xuyên có tác động qua lại”.

Hệ sinh thái là một hệ thống tác động qua lại giữa thực vật, động vật và con người với môi trường vật lý bao chung quanh chúng thể hiện qua dòng năng lượng từ đó tạo nên chu trình vật chất.

Thuật ngữ hệ sinh thái có thể áp dụng cho những quy mô khác nhau như hệ sinh thái nhỏ (gốc một cây gỗ), hệ sinh thái tương đối nhỏ (một cái ao), hệ sinh thái vừa (một khu rừng), hệ sinh thái lớn (đại dương), hệ sinh thái khổng lồ (trái đất). Hệ sinh thái không nhất thiết phải là một khu vực rộng lớn, nhưng phải có quần xã sinh sống.

Thành phần của hệ sinh thái

Hệ sinh thái hoàn chỉnh bao gồm các thành phần chủ yếu sau:

Các yếu tố vật lý (để tạo nguồn năng lượng): ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, dòng chảy…

Các yếu tố vô cơ: gồm những nguyên tố và hợp chất hóa học cần thiết cho tổng hợp chất sống. Các chất vô cơ có thể ở dạng khí (O2, CO2, N2), thể lỏng (nước), dạng chất khoáng (Ca, PO43-, Fe …) tham gia vào chu trình tuần hoàn vật chất.

Các chất hữu cơ (các chất mùn, acid amin, protein, lipid, glucid): đây là các chất có đóng vai trò làm cầu nối giữa thành phần vô sinh và hữu sinh, chúng là sản phẩm của quá trình trao đổi vật chất giữa 2 thành phần vô sinh và hữu sinh của môi trường.

Chuỗi thức ăn và lưới thức ăn

Trong thiên nhiên, các nhóm thực vật, động vật cũng như nấm, vi khuẩn (với vô vàn cá thể) sống chung với nhau, liên kết với nhau bởi những mối quan hệ chủ yếu là về dinh dưỡng và phân bố. Tức là mối quan hệ mà trong đó luôn diễn ra cuộc đấu tranh về không gian sống và thức ăn.

Mối quan hệ về thức ăn thể hiện bằng một chuỗi dinh dưỡng được bắt đầu bằng sinh vật tự dưỡng và sau đó là một số sinh vật này làm thức ăn cho một số sinh vật khác, rồi chính nhóm này lại làm thức ăn cho nhóm khác nữa. Điều đó tạo thành chuỗi liên tục từ mức thấp đến mức cao, bắt đầu bằng mức độ tổng hợp sản phẩm tiếp đến một số mức độ tiêu thụ, chuỗi này còn được gọi là chuỗi thức ăn. Nhiều chuỗi thức ăn tạo thành lưới thức ăn.

Chuỗi thức ăn là chuỗi mà các sinh vật sau ăn các sinh vật trước. Nếu chúng ta xếp các sinh vật trong chuỗi thức ăn theo các bậc dinh dưỡng, thường sẽ tạo thành tháp sinh thái. Quan sát tháp sinh thái sẽ cho ta một số thông tin như tổng năng lượng của một hệ sinh thái tuân theo nguyên tắc nhiệt động học: năng lượng cung cấp từ nguồn thức ăn của sinh vật cấp trên luôn luôn thấp hơn cấp dưới, vì:

– Một số thức ăn được sinh vật ăn không được hấp thu, không cung cấp nguồn năng lượng hữu ích. – Phần lớn năng lượng được hấp thu, được dùng cho các quá trình sống hoặc mất đi dưới dạng nhiệt khi chuyển từ dạng này sang dạng khác và vì vậy cũng không được dự trữ trong cấp dinh dưỡng đã ăn chúng. – Các con vật ăn mồi không bao giờ đạt hiệu quả 100%. Nếu có đủ con cáo để ăn hết tất cả con thỏ có trong mùa hè (lúc nguồn thức ăn phong phú) thì có quá nhiều cáo vào mùa đông nhưng lại khan hiếm thỏ. Theo nguyên tắc ngón tay cái, chỉ khoảng 10% năng lượng từ sinh vật tiêu thụ bậc 1 hiện diện ở bậc cao kế tiếp. Năng lượng này được tích lũy lại trong sinh quyển. Ví dụ cần 100 kg cỏ để tạo thành 10 kg thỏ và 10 kg thỏ thì tạo thành 1 kg cáo.

Sinh vật sản xuất (hay tự dưỡng)

Chủ yếu là thực vật xanh, có khả năng chuyển hóa quang năng thành hóa năng nhờ quá trình quang hợp; năng lượng này tập trung vào các hợp chất hữu cơ-glucid, protid, lipid, tổng hợp từ các chất khoáng (các chất vô cơ có trong môi trường).

Sinh vật tiêu thụ (cấp 1, 2, 3)

Chủ yếu là động vật. Tiêu thụ các hợp chất hữu cơ phức tạp có sẵn trong môi trường sống.

– Sinh vật tiêu thụ bậc 1: tiêu thụ trực tiếp các sinh vật sản xuất. Chủ yếu là động vật ăn thực vật (cỏ, cây, hoa, trái …). Các động vật, thực vật sống ký sinh trên cây xanh cũng thuộc loại này. – Sinh vật tiêu thụ bậc 2: ăn các sinh vật tiêu thụ bậc 1. Gồm các động vật ăn thịt, ăn các động vật ăn thực vật. – Sinh vật tiêu thụ bậc 3: thức ăn chủ yếu là các sinh vật tiêu thụ bậc 2. Đó là động vật ăn thịt, ăn các động vật ăn thịt khác.

Sinh vật phân hủy

Sinh vật phân hủy là những loại vi sinh vật hoặc động vật nhỏ bé hoặc các sinh vật hoại sinh có khả năng phân hủy các chất hữu cơ thành vô cơ. Ngoài ra còn có những nhóm sinh vật chuyển hóa chất vô cơ từ dạng này sang dạng khác (như nhóm vi khuẩn nitrat hóa chuyển NH4+ thành NO3-). Nhờ quá trình phân hủy, sự khoáng hóa dần dần mà các chất hữu cơ được thực hiện và chuyển hóa chúng thành chất vô cơ.

Quy hoạch sinh thái cũng có nghĩa là sắp xếp và quản lý cân đối hài hòa cả 4 loại sinh thái này.

Các quá trình chính trong hệ sinh thái

Trong hệ sinh thái luôn diễn ra các quá trình chính, đó là quá trình trao đổi năng lượng, tuần hoàn các chất và sự tương tác giữa các loài.

Nguồn năng lượng trong hệ sinh thái có nguồn gốc chủ yếu từ ánh sáng mặt trời (thông qua quang hợp) và năng lượng hóa học (thông qua chuỗi thức ăn). Thông qua chuỗi thức ăn, bậc dinh dưỡng trên sẽ nhận được khoảng 10% năng lượng từ bậc dinh dưỡng thấp. Một số trường hợp ngoại lệ như bò ăn cỏ 7% (7 kg ngũ cốc tạo ½ kg thịt bò); ốc sên 33%; thỏ 20%.

Mọi sinh vật sống chính là nguồn thực phẩm quan trọng cho các sinh vật khác. Như vậy, có thể hiểu chuỗi thức ăn là một chuỗi sinh vật mà sinh vật sau ăn sinh vật trước, lưới thức ăn (food web) gồm nhiều chuỗi thức ăn.

Ví dụ: sâu ăn lá; chim sâu ăn sâu; diều hâu ăn chim sâu. Khi cây, sâu, chim sâu, diều hâu chết thì chúng sẽ bị các vi sinh vật phân hủy.

Như vậy, trong một hệ sinh thái luôn tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa tính ổn định và tính phong phú về tình trạng, về chủng loại trong thành phần của hệ sinh thái với tính cân bằng của hệ sinh thái. Hệ sinh thái càng trưởng thành thì cân bằng môi trường càng lớn.

Hệ sinh thái nào đó nếu còn tồn tại thì có nghĩa là đều đặc trưng bởi một sự cân bằng sinh thái nhất định. Thế ổn định biểu hiện sự tương quan về số lượng các loài, về chất lượng, về quá trình chuyển hóa năng lượng, về thức ăn của toàn hệ … Nhưng nếu cân bằng bị phá vỡ thì toàn hệ sẽ phải thay đổi. Cân bằng mới sẽ phải lập lại, có thể tốt cũng có thể không tốt cho xu thế tiến hóa.

Hệ sinh thái thực hiện chức năng tự lập lại cân bằng thông qua hai quá trình chính, đó là sự tăng số lượng cá thể và sự tự lập cân bằng thông qua các chu trình sinh địa hóa học, giúp phục hồi hàm lượng các chất dinh dưỡng có ở hệ sinh thái trở về mức độ ban đầu sau mỗi lần bị ảnh hưởng.

Hai cơ chế trên chỉ có thể thực hiện được trong một thời gian nhất định. Nếu cường độ tác động vượt quá khả năng tự lập cân bằng thì sẽ dẫn đến hậu quả cuối cùng là hệ sinh thái bị hủy diệt.

Một số nguyên nhân của sự phá vỡ sự cân bằng sinh thái

Sự cân bằng của hệ sinh thái bị phá vỡ do quá trình tự nhiên và nhân tạo. Các quá trình tự nhiên như núi lửa, động đất …. Các quá trình nhân tạo chính là các hoạt động sống của con người như tiêu diệt một loại thực vật hay động vật, hoặc đưa vào hệ sinh thái một hay nhiều loại sinh vật mới lạ; hoặc phá vỡ nơi cư trú vốn đã ổn định từ trước tới nay của các loài; hoặc quá trình gây ô nhiễm, độc hại; hoặc sự tăng nhanh số lượng và chất lượng một cách đột ngột của một loài nào đó trong hệ sinh thái làm phá vỡ sự cân bằng. Ví dụ:

Ở Châu phi, có thời kỳ chuột quá nhiều, người ta đã tìm cách tiêu diệt không còn một con. Tưởng rằng có lợi, nhưng sau đó mèo cũng bị tiêu diệt và chết vì đói và bệnh tật. Từ đó lại sinh ra một điều rất tai hại như mèo điên và bệnh dịch.

Sinh vật ngoại lai chính là mối lo toàn cầu. Đánh dấu ngày đa dạng sinh học thế giới 22/5, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (WCU) đã công bố danh sách 100 loài sinh vật du nhập nguy hiểm nhất. Chúng tàn phá thế giới sau khi “xổng” khỏi nơi cư trú bản địa, mà lại thường có sự trợ giúp của con người. Trong số 100 loài, có những loài rất quyến rũ như lan dạ hương nước và sên sói đỏ, loài rắn cây màu nâu và lợn rừng. Nguyên nhân chính là con người đã mở đường cho nhiều loài sinh vật nguy hại bành trướng. Chẳng hạn loài cầy mangut nhỏ được đưa từ châu Á tới Tây Ấn Độ để kiểm soát nạn chuột. Nhưng rất mau chóng, nó đã triệt hại một số loài chim, bò sát và lưỡng cư ở vùng này. Loài kiến “mất trí” đã tiêu diệt 3 triệu con cua trong 18 tháng trên đảo Giáng sinh, ngoài khơi Ấn Độ Dương. Sinh vật ngoại lai cũng đã xâm nhập Việt Nam như:

Ở vùng Đồng Tháp Mười và rừng Tràm U Minh hiện đang phát triển tràn lan một loài cây có tên là cây mai dương (cây xấu hổ). Cây mai dương có nguồn gốc từ Trung Mỹ, chúng sinh sản rất nhanh nhờ gió lẫn sinh sản vô tính từ thân cây. Bằng nhiều cách, chúng đã du nhập vào châu Phi, châu Á, Úc và đặc biệt thích hợp phát triển ở vùng đất ngập nước thuộc vùng nhiệt đới. Tại rừng Tràm U Minh, cây mai dương đã bành trướng trên một diện tích rộng lớn. Nếu tình trạng này tiếp diễn vài năm nữa, rừng tràm U Minh sẽ hóa thành rừng trinh nữ. Do tốc độ sinh trưởng nhanh của loài cây này, đã lấn áp cỏ – nguồn thức ăn chính cho sếu, cá, vì vậy ảnh hưởng đến sếu, cá ở Tràm Chim.

Ốc bươu vàng (pilasisnensis) được nhập khẩu vào nước ta khoảng hơn 10 năm nay. Ban đầu chúng được coi như một loại thực phẩm giàu đạm, dễ nuôi trồng, mang lại lợi ích kinh tế cao. Nhưng do sinh sản quá nhanh mà thức ăn chủ yếu là lá lúa, ốc bươi vàng đã phá hoại nghiêm trọng mùa màng ở nhiều tỉnh phía Nam. Hiện nay, đại dịch này đang phát triển dần ra các tỉnh miền Trung và miền Bắc.

Cá hổ pirama (còn gọi là cá kim cương, cá răng, tên khoa học là Serralmus nattereri) xuất hiện trên thị trường cá cảnh nước ta vào khoảng thời gian 1996-1998. Đây là loài cá có nguồn gốc từ lưu vực sông Amazon, Nam Mỹ, thuộc loại ăn thịt, hung dữ. Nhiều nước đã có quy định nghiêm ngặt khi nhập loài này, vì khi chúng có mặt trong sông, động vật thủy sinh sẽ bị tiêu diệt toàn bộ, tác hại khó mà lường hết được. Trước nguy cơ này, Bộ Thủy sản sau đó đã có chỉ thị nghiêm cấm nhập khẩu và phát triển loại cá này.

Như vậy, khi một mắc xích quan trọng trong toàn hệ sinh thái bị phá vỡ nghiêm trọng thì hệ sinh thái đó dễ dàng bị phá vỡ.

Sinh thái học

Năm 1869, nhà sinh học Đức Ernst Haeckel đã đặt ra thuật ngữ Ecology từ hai chữ Hy lạp là “Okois” có nghĩa là nhà hoặc nơi ở và “logos” có nghĩa là nghiên cứu về. Do đó, có thể hiểu “sinh thái học là môn học nghiên cứu những tác động qua lại giữa các cá thể, giữa những cá thể và những yếu tố vật lý, hóa học tạo nên môi trường sống của chúng”.

Sinh thái học là khoa học nghiên cứu về nơi ở, nơi sinh sống của sinh vật, nghiên cứu về mối quan hệ giữa sinh vật và điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của sinh vật.

Đối tượng nghiên cứu của sinh thái học chính là các hệ sinh thái. Nghiên cứu hệ sinh thái bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên như ao, đại dương, rừng, sa mạc, hệ thực vật, hệ động vật … ngoài ra còn có các hệ sinh thái nhân tạo như ruộng rẫy, vườn cây ăn trái và một số các hệ khác.

Tags: Sinh thái học

Kiến Thức Cơ Bản Về Sinh Học: Đặc Điểm Của Sự Sống

Cuộc sống có thể “hoạt động.” Không, điều này không có nghĩa là tất cả động vật đều đủ tiêu chuẩn để làm việc. Nó có nghĩa là các sinh vật sống có thể tiếp nhận năng lượng từ môi trường. Năng lượng này, dưới dạng thức ăn, được chuyển hóa để duy trì các quá trình trao đổi chất và để tồn tại.

Cuộc sống sinh trưởng và phát triển . Điều này có nghĩa là không chỉ sao chép hoặc tăng kích thước. Các sinh vật sống cũng có khả năng tự xây dựng lại và sửa chữa khi bị thương.

. Bạn đã bao giờ thấy bụi bẩn sinh sản chưa? Tôi không nghĩ vậy. Sự sống chỉ có thể đến từ những sinh vật sống khác.

. Hãy nghĩ về lần cuối cùng bạn vô tình bị vấp ngón chân. Gần như ngay lập tức, bạn đau đớn trở lại. Sự sống được đặc trưng bởi phản ứng này với các kích thích.

cuộc sống có thể thích ứng và đáp ứng những đòi hỏi của môi trường. Có ba kiểu thích nghi cơ bản có thể xảy ra ở sinh vật bậc cao.

Những thay đổi có thể đảo ngược xảy ra như một phản ứng đối với những thay đổi của môi trường. Giả sử bạn sống gần mực nước biển và bạn đi du lịch đến một vùng núi. Bạn có thể bắt đầu cảm thấy khó thở và tăng lên do thay đổi độ cao. Các triệu chứng này sẽ biến mất khi bạn đi xuống mực nước biển.

Những thay đổi soma xảy ra do sự thay đổi kéo dài của môi trường. Sử dụng ví dụ trước, nếu bạn ở trên vùng núi trong một thời gian dài, bạn sẽ nhận thấy nhịp tim của bạn bắt đầu chậm lại và bạn sẽ bắt đầu thở bình thường. Những thay đổi soma cũng có thể đảo ngược.

Kiểu thích nghi cuối cùng được gọi là kiểu gen (do ). Những thay đổi này diễn ra trong cấu trúc di truyền của sinh vật và không thể đảo ngược. Một ví dụ là sự phát triển tính kháng thuốc trừ sâu của côn trùng và

Tóm lại, cuộc sống có tổ chức, “hoạt động”, phát triển, sinh sản, đáp ứng với các kích thích và thích nghi. Những đặc điểm này tạo cơ sở cho việc nghiên cứu sinh học.

Nền tảng của sinh học tồn tại ngày nay dựa trên năm nguyên tắc cơ bản. Đó là lý thuyết tế bào, lý thuyết gen, sự tiến hóa, cân bằng nội môi và các định luật nhiệt động lực học.

Nhân Bản Học Triết Học, Cơ Sở Phương Pháp Luận Của Học Thuyết Sinh Học Xã Hội

Các cuộc tranh luận triết học về bản tính con người đã kéo dài hàng thế kỷ. Trước C.Mác, nhiều nhà triết học đã cho rằng, bản tính con người mang tính hai mặt – mặt xã hội và mặt sinh học, trong đó không có mặt nào mang tính quyết định. Bác bỏ quan điểm sinh học hoá trong nhận thức bản chất con người, cũng như những quan niệm coi con người như một sinh thể mang “bản tính hai mặt”, trong Luận cương về Phơiơbắc, C.Mác đã đưa ra quan niệm mới về bản chất con người. Ông viết: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Quan niệm này đã trở thành một đề tài ” Nhận thức triết học về con người” tại Đại hội triết học thế giới lần thứ XVIII được tổ chức vào năm 1988 ở Britơn (Anh). Tại Đại hội này, thường có thành viên tham gia nào có ý định phủ nhận đóng góp vĩ đại của C.Mác trong việc quy cái cá nhân về cái xã hội. Bởi mọi thành viên tham gia Đại hội đều thừa nhận rằng, với quan niệm này, lần đầu tiên antinômi ” cá nhân và xã hội” và quan điểm siêu hình vốn làm khổ các nhà tư tưởng quá khứ đã được khắc phục, quan điểm coi con người như là đơn vị độc lập tuyệt đối, xã hội là tống số cơ học, là cái máy liên hợp của các cá nhân đã bị bác bỏ. Vấn đề bản chất con người còn được C. Mác để cập đến trong Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 và Hệ tư tướng Đức. Tư tưởng của C.Mác vì vậy đã trở thành cơ sở phương pháp luận để chúng ta xem xét các quan điểm sinh học xã hội trong triết học phương Tây hiện đại, đặc biệt là nhân bản học triết học với tư cách tiền đề phương pháp luận của chúng.

Nhân bản học triết học được định nghĩa một cách ngắn gọn là triết học về con người hay còn gọi là học thuyết về bản tính con người. Học thuyết này lấy tồn tại của chính con người và bản tính, tính cá thể của con người làm đối tượng nghiên cứu nhằm mục đích khẳng định con người như là sự biểu hiện độc đáo của đời sống nói chung và như là chủ thể sáng tạo văn hoá và lịch sử.

Như chúng ta đã biết, ý đồ khẳng định con người và bản chất con người thông qua những đặc trưng không có mối liên hệ nào với các quá trình lịch sử – xã hội, gán ghép con người vào khuôn khổ thể chất, tách biệt con người về mặt không gian, xem xét nó bên ngoài mối quan hệ với môi trường xã hội là đặc trưng của nhân bản học triết học về con người và xã hội. Nhân bản học triết học là một trào lưu của triết học phương Tây thế kỷ XX, xuất hiện vào năm 1928 do Selơ và Plesnơ sáng lập. Khuynh hướng triết học này đã đề ra nhiệm vụ dựa trên cơ sở dữ liệu của các khoa học cụ thể về con người, như sinh học, tâm lý học, xã hội học, để xây dựng một quan niệm hoàn chỉnh về con người.

Đối chiếu với nhiều yếu tố ở động vật, M.Selơ nhấn mạnh rằng, sự tồn tại của con người được thiết lập bởi sự căng thẳng giữa cuộc sống và tinh thần mà theo ông, tinh thần là trạng thái luôn mâu thuẫn với cuộc sống và không thể quy được về sự tiến hoá tự nhiên của cuộc sống, mặc dù thông qua cuộc sống phức tạp, nó mới có được sức mạnh vô song. Điều đó cho thấy trong nhân bản học triết học có sự kết hợp yếu tố tôn giáo với quan điểm khoa học tự nhiên.

Khác với nhân bản học triết học Selơ, một số biến thể khác của nhân bản học triết học khi đề cập tới cái xã hội trong con người đã quy cái xã hội đó về cái cá thể và qua đó, bỏ qua bản chất xã hội của con người với tư cách tổng hoà các quan hệ xã hội. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của triết học hiện sinh. Chẳng hạn, K.Giaxpe một trong những người sáng lập chủ nghĩa hiện sinh, đã cho rằng, nhìn chung, nhân cách con người tồn tại ngoài mối liên hệ với lịch sử. Rằng, cái quyết định nhân cách con người là tính tuyệt đối, vĩnh hằng, phi lịch sử, còn tính xã hội ở con người chỉ là cái trừu tượng, như tính loài, tính cá thể. Quan điểm triết học, trừu tượng này rõ ràng là không thể làm rõ vấn đề mối quan hệ giữa các nhân tố xã hội và tự nhiên, sinh học trong sự phát triển của con người.

Trong triết học phương Tây hiện đại, các khái niệm “chủ nghĩa nhân bản”, “nhân học triết học” , “triết học nhân bản chủ nghĩa” là những khái niệm không đồng nhất, hơn nữa, mỗi khái niệm này còn mang tính đa nghĩa. Điều chúng tôi muốn nói tới ở đây là, triết học phương Tây hiện đại đã tăng cường quan tâm đến vấn đề con người bằng việc phục hồi và cái biến chủ nghĩa nhân bán cổ điển với tư cách là cách tiếp cận phi lịch sử về con người và các hiện tượng xã hội.

Vốn là hệ quả của xu hướng này, triết học của chủ nghĩa nhân bán “mới” đã tiếp nhận các quan điểm duy lý chủ nghĩa, duy linh chủ nghĩa, tự nhiên chủ nghĩa, phi duy lý chủ nghĩa, giá tri luận, nhận thức luận, tâm sinh học về con người. Mặc dù tổn tại dưới nhiều biến thể và có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau, song chủ nghĩa nhân bản triết học trên bình diện mà chúng ta đang quan tâm vẫn chỉ là một phương pháp nhất định trong nhận thức triết học về con người. Quan điểm phi lịch sử về con người trong các khuynh hướng này càng bộc lộ rõ khi các thành tố tâm – sinh học của hoạt động con người được chúng coi là xuất phát điểm và là cơ sở để nhận thức các mặt khác nhau của con người.

Sự tiến bộ của khoa học tự nhiên đã dẫn đến sự cải biến liên tục của chủ nghĩa nhân bản triết học, song về thực chất, đó chỉ là sự biến đổi về hình thức, về cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa, chứ không phải là sự biến đổi được luận chứng một cách khoa học. Chẳng hạn, vốn là một trong các hình thức phổ biến và có ảnh hưởng nhất của khuynh hướng sinh học xã hội, phân tâm học vẫn không thoát khỏi quan điểm phi lịch sử, khi sử dụng các biện pháp lý luận và thực tiễn chữa bệnh tâm thần. Thực tiễn xã hội cung như những cứ liệu của tâm – sinh học về hoạt động hệ thần kinh bậc cao đã chỉ ra rằng, trong hành vi của những con người tham gia vào các quan hệ xã hội, thì cái bản năng bị đẩy xuống hàng thứ yếu để nhường chỗ cho các hành vi văn hoá – xã hội và chịu sự kiểm duyệt của các hành vi đó. Chính Phrớt cũng thừa nhận sự kiểm duyệt đó và ông gọi đó là “sự kiểm duyệt văn hoá” . Thừa nhận ý nghĩa quan trọng của sự kiểm duyệt đó song ông lại cho rằng chức năng quan trọng đó của sự kiểm duyệt không phải là ở sự cải tạo mà là sự đè nén thô bạo của nó đối với sức khoẻ tâm, sinh lý của con người. Thực ra, phân tâm học đã dựa vào quan niệm về cấu trúc của nhân cách, song theo các nhà phân tâm học, đó là cấu trúc bất biến, đóng vai trò cơ sở không những cho mọi hình thức ứng xử, mà còn cho cá nền văn minh và quan hệ của con người với văn hoá.

Nhà khoa học người Mỹ – L.Oát, đã đưa ra một quan điểm nhân bản chủ nghĩa thể hiện rõ tính chất nhị nguyên giữa cái sinh học và cái xã hội, đồng thời phân định một cách siêu hình mối trường văn hoá xã hội và con người. Ông cho rằng, “những gì mà người ta coi là bản tính của con người đều hoàn toàn không thuộc về giới tự nhiên, mà thuộc về văn hoá. Lối ứng xử bên ngoài của con người có xu hướng, có trọng tâm và nội dung thường không phải là do tính sinh học bên trong quy định, mà do sự kích thích của các nhân tố văn hoá bên ngoài”. Thực ra, trong quan điểm này của L. Oát, môi trường xã hội có tác động tới một sinh thể nằm ngoài xã hội, áp đặt cho nó một vẻ bề ngoài có tính chất xã hội đặc biệt, nhưng lại không tham gia vào việc hình thành bản chất của sinh thể đó. Con người, trong quan niệm của L.Oát, vẫn là một thực thể sinh học phản ứng lại các kích thích tố văn hoá bên ngoài, nhưng lại không chịu những biến đổi nội tại về chất do hoạt động văn hoá của mình gây ra. Do vậy, theo ông, lối ứng xử của con người phải là kết quả tác động của hai yếu tố – sinh học và văn hoá. Ông viết: “Lối ứng xử của con người, một mặt, là chức năng của cơ thể sinh học, mặt khác, là chức năng của truyền thống văn hoá siêu thể chất”.

Sự phân định và đặt đối lập văn hoá với con người càng rạch ròi hơn vì bản thân văn hoá, theo L.Oát, là một hiện tượng hoàn toàn độc lập, thần bí, nó chỉ phục tùng logic riêng của mình và con người không thể sáng tạo ra nó, không giám sát được nó, mà chỉ có thể lĩnh hội nó. Trong môi trường văn hoá, con người chỉ có khá năng ứng xử giống như động vật, nghĩa là con người chỉ có thể ứng xử “bằng sự phán ứng” một cách miễn cưỡng. Ông viết: “Mỗi dòng văn hoá luôn chảy, biến đổi, lớn lên và phát triển phù hợp với các quy luật riêng của nó. Lối ứng xử của con người chỉ là sự phản ứng của cơ thể đối với dòng chảy đó của văn hoá”. Điều đó cho thấy, L.Oát có ý đồ dung hợp khuynh hướng sinh học xã hội với “quyết định luận văn hoá”, nhưng lại không vượt ra khỏi khuôn khổ của chủ nghĩa nhân bản mà cơ sở của nó là đề cao sự tự trị của cái sinh học trong con người.

Một đại biểu khác của thuyết nhân học là nhà nhân học người Mỹ – L.Taygơ, lại cho rằng, tính độc đáo văn hoá – xã hội của mỗi người đều có cơ sở sinh học của nó. Ông khẳng định: “Nếu con người là độc đáo về mặt văn hoá, mà đúng là như vậy, thì đó là đặc tính về bán tính sinh học của họ”. Do vậy, ông đề nghị nghiên cứu mọi hiện tượng xã hội và hoạt động của con người bằng các phương tiện của sinh học và coi đó là cách tiếp cận đích thực khoa học của các khoa học xã hội.

Di truyền học

Việc L.Taygơ đưa vào thông tin di truyền, biến dị và chọn lọc tự nhiên để lý giải các mặt khác nhau của đời sống xã hội không có gì mới so với quan điểm của các đại biểu khác trong khuynh hướng sinh học xã hội, song mặt tích cực ở đây, theo chúng tôi, đáng được thừa nhận và đó là sự giải thích của ông về nhưng hậu quả tai hại của việc con người dưa hoạt động sản xuất kinh tế của mình ra khỏi khuôn khổ của các chuẩn mực sinh học. Theo ông, việc người cổ chuyển từ hái lượm và săn bắn sang sản xuất là do dân số tăng lên và nguồn sinh thái tự nhiên ngày một nghèo nàn hơn. Con người luôn hướng tới sự giàu có, song lý tưởng về sự giàu có chỉ mang tính tương đối Rằng, khi nguyên tắc sinh học còn đủ để điều tiết khát vọng tăng trưởng sản xuất thì sự phát triển của nhân loại vẫn diễn ra một cách tương đối bình thường. Ngay sau khi khát vọng làm giàu phục tùng nguyên tắc “giàu có hơn nữa”, thì sự điều tiết sản xuất và tiêu thụ thông qua chính trị bắt đầu thay thê cho sự điều tiết tự nhiên.

Với quan niệm này, L.Taygơ đã giải thích khát vọng làm giàu của con người như là nguyên nhân dẫn đến sự cần thiết phải có những thể chế xác định để điều chỉnh hoạt động của nó. Thể chế xác định đó, theo ông, là chính trị. ông gọi chính trị là công cụ thay thế cho sự điều tiết tự nhiên. Thời kỳ lịch sử mà L.Taygơ gọi là “bình thường” là thời kỳ đầu của nền văn minh nhân loại theo quan điểm của nhân bản học triết học, khi đó con người nhận thức bản thân mình như là bộ phận của tự nhiên, đồng thời khách thể hoá chính bản thân mình. Đến thời kỳ thứ hai mà ông gọi là thời kỳ khủng hoảng, thời kỳ mà mối quan hệ tự nhiên – con người bị phá vớ trên nhiều phương diện, thì con người nhận thấy mình đã trở thành đối tượng của sự suy tư triết học, nghĩa là cần phải hiểu mình từ chính bản thân mình. Tuy nhiên, sự giải thích theo kiểu này của L.Taygơ lại mâu thuẫn với các dữ liệu sử học mà theo đó, nhân loại chưa hề có giai đoạn phát triển “bình thường”, giai đoạn mà tự nhiên có khả năng đáp ứng những nhu cầu của xã hội một cách tương đối đầy đủ. Nguyên nhân của mâu thuẫn đó là ở chỗ, L.Taygơ không muốn thừa nhận rằng, không phải yếu tố di truyền, mà tính chất và loại hình hoạt động sân xuất, suy cho cùng, mới là cái quy định văn hoá, tôn giáo và đạo đức của con người.

Một biến thể khác của quan điểm sinh học hoá xã hội hiện đại là chủ nghĩa duy khoa học. Những người theo khuynh hướng này cho rằng, vấn đề không đơn gián là “lấp đầy” tri thức triết học bằng hệ thuật ngữ khoa học cụ thể, mà là việc sử dụng một cách tối đa khoa học để định vị “thực thể” của con người trong khuôn khổ của hệ tọa độ sinh lý học. Nếu hệ toạ độ đó ở Phoiơbắc là các đặc trưng quen thuộc về thể xác, tâm hồn, tình cảm, thì ở những người theo khuynh hướng sinh học xã hội là các khái niệm về cấu trúc của mối liên hệ phản xạ và của những phản ứng động (quan niệm của những người theo chủ nghĩa hành vi xã hội), về cấu trúc tâm lý cá nhân (quan niệm của nhưng người theo phân tâm học) hay về mã di truyền (quan niệm của những người theo thuyết tập tính xã hội). Vì tính người trong con người không thể bộc lộ bằng cách nào khác ngoài cách thông qua quan hệ xã hội, nên quan hệ xã hội được xem hoặc là sự phản chiếu bản chất sinh học của con người , hoặc bị đồng nhất về chất với các quá trình diễn ra “ở bên trong” con người. Những kết luận như vậy cho thấy sự bế tắc của chủ nghĩa nhân bản với tư cách một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức xã hội.

Qua đó, có thể nói, mặc dù nhân bản học triết học là một học thuyết triết học về con người, song bất kỳ một học thuyết nào tách rời con người ra khỏi xã hội để phục vụ cho mục đích đề cao ý thức hệ tư sản đều có chung phương pháp luận mang tính phi lịch sử, không thừa nhận hoạt động sản xuất và quan hệ xã hội của con người là nguồn gốc thực thể của bản tính con người. Con người là một hiện tượng độc đáo và phong phú, nên việc nhận thức bản tính của nó không thể coi là giản đơn và có thể thực hiện ngay được. Để có thể nhận thức được bản tính con người, cần thực hiện những công trình nghiên cứu thận trọng và lâu dài, kết hợp với cách tiếp cận khoa học liên ngành về chức năng tâm lý của con người. Nhiệm vụ của triết học là xuất phát từ các dữ liệu khoa học để đưa ra những thông báo khái quát về con người, chỉ ra khiếm khuyết của các khuynh hướng triết học giải thích sai lệch về bản chất con người. Với suy nghĩ đó, theo chúng tôi, học thuyết Mác về bản chất con người là một đóng góp mang ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu con người.

Cập nhật thông tin chi tiết về 5 Qui Luật Cơ Bản Của Sinh Thái Học trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!